Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Tôm Thẻ

Tăng trưởng bù ở tôm thẻ sau bất lợi về nhiệt độ và dinh dưỡng

Tôm thẻ chân trắng
Tôm thẻ chân trắng

Đánh giá tăng trưởng bù ở tôm thẻ trong hệ thống biofloc sau khi stress nhiệt độ thấp và hạn chế về dinh dưỡng.

Một trong những biện pháp quản lý tiềm năng để cải thiện sản xuất tôm là ứng dụng công nghệ biofloc, mang lại một số lợi thế sản xuất hơn so với các hệ thống nuôi truyền thống trong ao. Các hệ thống biofloc cải thiện chất lượng nước, do đó không có sự đổi mới nước để giảm hoặc loại bỏ nước thải.

Ngoài ra, các hệ thống này giúp tăng mật độ thả, cải thiện an toàn sinh học và loại bỏ các hợp chất nitơ thông qua sự chuyển hóa của cộng đồng vi sinh vật. Cộng đồng này cũng hoạt động như một thực phẩm bổ sung cho tôm, cung cấp nguồn thức ăn liên tục 24 giờ mỗi ngày và cũng cho phép giảm mức protein cần thiết có trong thức ăn được sử dụng giúp người nông dân có nhiều lựa chọn trong sử dụng thức ăn công nghiệp.

Tăng trưởng bù được định nghĩa là một quá trình sinh lý trong đó sinh vật trải qua giai đoạn tăng trưởng nhanh sau một thời gian phát triển hạn chế. Nó thay đổi tùy theo loài, giai đoạn sống, điều kiện môi trường, mức độ nghiêm trọng và thời gian hạn chế cũng như cách sinh vật phản ứng một khi điều kiện nuôi cấy được cải thiện hoặc phục hồi. Tăng trưởng bù đã được khám phá trong một số loài thủy sản (bao gồm tôm) với các điều kiện khác nhau, bao gồm hạn chế thức ăn, thiếu oxy, mật độ và nhiệt độ và sự tiếp xúc với các hợp chất độc hại. Nó có thể xảy ra ở các mức độ khác nhau.

  1. Bồi thường đầy đủ: trong đó tôm bị thiếu hụt đạt đến trọng lượng tương đương với tôm nuôi ở trong điều kiện thích hợp.
  2. Bồi thường một phần: trong đó tôm đã trải qua hạn chế có tốc độ tăng trưởng nhanh và có thể có tỷ lệ chuyển đổi thức ăn tốt hơn trong giai đoạn phục hồi, nhưng không đạt được cùng trọng lượng của tôm trong điều kiện kiểm soát đầy đủ.
  3. Bồi thường quá mức: trong đó tôm đã trải qua hạn chế đạt trọng lượng lớn hơn tôm đối chứng.
  4. Không bồi thường: khi tôm bị căng thẳng (stress) không phát triển nữa khi các điều kiện tối ưu được thiết lập lại.

Việc sản xuất tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) trong các hệ thống biofloc đã được phát triển ở Brazil, chủ yếu ở khu vực Nam và Đông Nam. Ở những vùng này, sản xuất thường bị hạn chế do nhiệt độ thấp trong mùa thu và mùa đông. Do đó, việc đánh giá tăng trưởng bù sau khi thiết lập lại nhiệt độ tối ưu cho loài sẽ cho phép sản xuất hai hoặc nhiều vụ thu hoạch hàng năm mặc dù tốc độ tăng trưởng thấp trải qua trong mùa thu và mùa đông.

Ngoài việc khám phá sự tăng trưởng bù đắp từ thay đổi nhiệt độ, việc đánh giá tác động của quá trình này liên quan đến quản lý thức ăn là có liên quan, bởi vì thức ăn sản xuất là chi phí sản xuất chính – lên tới 60% – trong nuôi tôm thâm canh. Do đó, việc sử dụng hạn chế thức ăn như một tác nhân cho tăng trưởng bù tiếp theo có thể là một chiến lược để giảm yêu cầu và chi phí thức ăn.

Nuôi tôm trong điều kiện hạn chế về nhiệt độ và thức ăn

Trong nghiên cứu, tôm thẻ chân trắng (1,78 gram ± 0,38) được thả với mật độ 300con/m3 trong nước nuôi có 10% biofloc. Hai phương pháp thí nghiệm chính là hạn chế nhiệt độ và thức ăn trong 65 ngày chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn hạn chế và giai đoạn phục hồi tăng trưởng.

Thí nghiệm 1: Tôm được nuôi trong 3 nhiệt độ khác nhau (20, 24, 28oC) trong giai đoạn đầu tiên sau đó là ở 28oC trong 30 ngày cuối của giai đoạn 2 – phục hồi.

Thí nghiệm 2: Tôm nuôi nhận được 100% thức ăn trong toàn bộ thí nghiệm (nhóm đối chứng), nhóm còn lại chỉ nhận được 40% thức ăn  trong 35 ngày đầu và sau đó được cho ăn 100% như nhóm đối chứng. Tất cả được thử nghiệm ở nhiệt độ 28oC.

Trong cả 2 thí nghiệm tôm được cho ăn với chế độ ăn của tôm thương phẩm 38% protein 2 lần 1 ngày bằng khay cho ăn. Trong quá trình nghiên cứu, nhiệt độ nước, oxy hòa tan, độ mặn và pH được theo dõi hai lần một ngày. Tổng ammonia, nitrite và kiềm được theo dõi ba lần một tuần, trong khi nitrate, phosphate và tổng chất rắn được theo dõi mỗi tuần một lần. Duy trì độ kiềm 150mg/ và pH 7.2

Kết quả tích cực của nghiên cứu


Kết quả tăng trưởng tôm cho các mức độ bù khác nhau khi so sánh với điều trị đối chứng (B). (A) bồi thường quá mức; (C) bồi thường đầy đủ; (D) bồi thường một phần; (E) không bồi thường.

Thí nghiệm 1: ở cuối giai đoạn thứ nhất và thứ hai, tôm trong các nghiệm thức 20 và 24oC có trọng lượng cuối cùng thấp hơn đáng kể so với tôm trong nghiệm thức 28oC, cho thấy sự tăng trưởng một phần bồi thường đã xảy ra nhưng không bồi thường đầy đủ, tỷ lệ sống giữa các phương pháp điều trị không có sự khác biệt đáng kể và động vật trong các phương pháp điều trị 20 và 24oC cũng đạt tốc độ tăng trưởng hàng tuần cao trong giai đoạn phục hồi.

Thí nghiệm 2: vào cuối giai đoạn 1 (hạn chế thức ăn), tôm nuôi nhận 40% thức ăn có trọng lượng cuối cùng thấp hơn đáng kể và tỷ lệ sống không bị ảnh hưởng bởi hạn chế thức ăn. Vào cuối giai đoạn thứ hai (phục hồi), các trọng số cuối cùng không có sự khác biệt đáng kể, cho thấy rằng việc bồi thường đầy đủ đã xảy ra một khi các điều kiện tối ưu được thiết lập lại.

Ở những vùng có khí hậu cận nhiệt đới hoặc ôn đới, nơi sản xuất tôm bị hạn chế bởi nhiệt độ thấp trong mùa thu và mùa đông có thể duy trì nuôi tôm ở nhiệt độ thấp trong thời gian dài với tốc độ tăng trưởng thấp và tăng trưởng hồi phục từng phần. Trong trường hợp này, sự sống sót không bị ảnh hưởng và tôm đã bị hạn chế thức ăn sau đó thể hiện tốc độ tăng trưởng nhanh chóng.

Về hạn chế thức ăn, có thể giảm lượng thức ăn được cung cấp trong thời gian tăng trưởng để giảm chi phí thức ăn và cải thiện chất lượng nước. Trong trường hợp này, tôm có thể cho thấy sự tăng trưởng bù hoàn toàn. Quá trình này được tạo điều kiện thuận lợi trong các hệ thống biofloc nơi tôm có thức ăn tự nhiên, do đó làm giảm tác động tiêu cực của việc hạn chế thức ăn.

Đặng Tuấn – https://tepbac.com/

“XÉ RÀO” NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG?

Bà con vùng Đồng Tháp Mười chủ yếu làm nông nghiệp và thủy sản nước ngọt. Hai nghề chính ở đây là trồng lúa và nuôi cá. Trước đây bà con nuôi cá có lời, nhưng những năm gần đây không còn lời, thậm chí lỗ. Nguyên nhân chủ yếu do giá cá thấp, chi phí từ các nguồn thức ăn, nhân công, thuốc men cao…

So sánh với việc nuôi tôm thẻ chân trắng, bà con thấy lợi nhuận hấp dẫn nên đã quyết định đầu tư sang nuôi tôm. Do kỹ thuật nuôi tôm được phổ biến rộng rãi trên các trang mạng xã hội, bà con dễ tiếp cận học hỏi kinh nghiệm. Mặt khác, những năm gần đây chất lượng thuốc thủy sản được cải thiện do yếu tố cạnh tranh và sự khuyến khích nuôi tôm thẻ chân trắng của các cơ quan Nhà nước về việc ứng dụng sinh học trong nuôi tôm đã phần nào kiểm soát được rủi ro.

Bà con các huyện Cao Lãnh, Tam Nông, Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp; (Tân Lập) Mộc Hóa, Vĩnh Hưng, Thạnh Hóa tỉnh Long An đã đào ao nuôi tôm bất chấp sự can ngăn của chính quyền.

Việc nuôi tôm thẻ chân trắng vùng Đồng Tháp Mười sẽ làm ảnh hưởng đến quy hoạch vùng sản xuất. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến các ngành nghề nông nghiệp và thủy sản nước ngọt do mặn xâm lấn. Việc khoan giếng nước mặn cung cấp ao tôm cũng không được phép.

Trước lợi nhuận hấp dẫn của nghề nuôi tôm, từ những hộ lẻ tẻ cải tạo lại từ những ao nuôi cá nay đã có rất nhiều hộ làm mới từ đất lúa, có thể phá vỡ quy hoạch vùng.

Số liệu:

Năm 2018, diện tích thủy sản nước ngọt vùng Đồng Tháp Mười là 14.713 ha; sản lượng đạt 634.465 tấn, trong đó sản lượng cá tra chiếm tỷ lệ cao nhất.

Hiện nay, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng đã chuyển đổi như sau:

Long An có 37 ha, trong đó Mộc Hóa là 16,8 ha, từ đầu tháng 11/2019 đến 18/01/2020 đã tăng lên 3,6 ha. Còn lại là huyện Vĩnh Hưng, Thạnh Hóa.

Tại tỉnh Đồng Tháp các huyện Cao Lãnh, Tam Nông, Hồng Ngự có 67 ha nuôi tôm .

Nguồn: Dân Việt 18/01/2020, VnExpress ngày 06/01/2020

Cà Mau: Nuôi tôm siêu thâm canh năng suất đạt 60 tấn/ha/vụ

(Cổng ĐT HND)- Hiện nay, trên địa bàn huyện Phú Tân có trên 430 hộ nuôi tôm công nghiệp siêu thâm canh với diện tích gần 480 ha. Năng suất đạt từ 40-60 tấn/ha/vụ.
Hồ nuôi tôm thẻ chân trắng của hộ ông Ngô Minh Thông.

Trong đó có mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh trong đầm nổi theo công nghệ Bioloc được hộ ông Ngô Minh Thông, ấp Cống Đá, xã Phú Tân thực hiện đạt hiệu quả kinh tế cao.

Cuối năm 2019, ông Thông được đầu tư gần 90 triệu đồng từ nguồn vốn khoa học công nghệ năm 2019 thực hiện 02 đầm nổi, diện tích 500 m2/đầm. Đến nay, tôm được trên 90 ngày tuổi với trọng lượng 30 con/kg, ước tính thu hoạch đạt gần 5 tấn, lợi nhuận trên 200 triệu đồng.

Ông Thông cho biết: Việc nuôi tôm thẻ siêu thâm canh trong đầm nổi thuận lợi trong việc chăm sóc, quản lý tôm nuôi, các chỉ tiêu môi trường luôn duy trì ổn định; sử dụng vi sinh định kỳ trong suốt quá trình nuôi nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường và tôm nuôi phát triển tốt, dễ thu gom chất thải…

Ông Tô Hoàng Nhàn, Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện cho biết: Thực hiện mô hình này giúp bà con giảm chi phí đầu tư thực hiện trong quá trình nuôi, nâng cao hiệu quả sản xuất. Đây là yếu tố cơ bản mà ngành chuyên môn và người dân đang từng bước rút kinh nghiệm thực hiện trong quá trình sản xuất.

Mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng trong đầm nổi hộ ông Ngô Minh Thông được nhiều người dân địa phương tham quan học hỏi, ngành chuyên môn đánh giá cao về hiệu quả kinh tế, đồng thời góp phần giúp bà con phát triển nuôi tôm theo hướng công nghiệp, bền vững.

Anh Phan
Nguồn : http://www.hoinongdan.org.vn/

Chia sẻ kinh nghiệm nuôi tôm thẻ chân trắng hiệu quả

(Thủy sản Việt Nam) – Nhằm giúp nông dân tại 5 tỉnh, thành phố là Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình có thêm kiến thức, kinh nghiệm trong nuôi tôm thẻ chân trắng (TTCT) gắn với tiêu thụ sản phẩm, tháng 12/2019, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở NN&PTNT TP Hải Phòng tổ chức Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp với chủ đề “Nuôi TTCT hiệu quả cao và bền vững”.

Số lượng tăng mạnh

Theo Tổng cục Thủy sản, năm 2018, tổng diện tích nuôi TTCT của cả nước đạt 116.426 ha (100% diện tích nuôi TTCT thâm canh, bán thâm canh, siêu thâm canh và áp dụng công nghệ cao); sản lượng tôm đạt 464.924 tấn; kim ngạch xuất khẩu đạt 2,48 tỷ USD. Năm 2019 tổng sản lượng TCTT đạt 480.000 tấn.

Một số tỉnh nuôi TTCT trọng điểm tại phía Bắc như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình có diện tích nuôi tôm nước lợ đạt 22.589 ha; diện tích nuôi TTCT công nghệ cao khoảng 3.191 ha; năng suất trung bình ước đạt 40 tấn/ha, nuôi 3 – 4 vụ/năm.

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, giai đoạn 2014 – 2016, Trung tâm đã xây dựng mô hình nuôi TTCT theo VietGAP tại các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên – Huế, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Long An, Tiền Giang và Kiên Giang. Hiệu quả trung bình mô hình nuôi theo VietGAP và không theo VietGAP tính trên quy mô 1 ha đạt 587,9 triệu/331,9 triệu tức tăng hơn 177%. Tỷ suất lợi nhuận của mô hình nuôi TTCT theo VietGAP và không theo VietGAP tính trên quy mô 1 ha đạt 70%/50% tức tăng hơn 1,4 lần. Việc đầu tư cho mô hình nuôi tôm theo VietGAP chi phí cao hơn (ao chứa, lắng, công trình phụ trợ khác…) nhưng đã đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn với những mô hình không nuôi theo VietGAP.

Riêng tại Hải Phòng, gần 10 năm nay, nuôi tôm công nghiệp trên địa bàn thành phố có nhiều khởi sắc; từ chỗ chỉ nuôi tôm sú, địa phương đã phát triển và đẩy mạnh nuôi TTCT. Thậm chí, hiện nay TTCT đang là đối tượng nuôi chủ lực của vùng nước lợ tại các quận, huyện trên địa bàn thành phố.

 

Nuôi an toàn là điểm nhấn

Nhận thức được việc nuôi tôm an toàn là mấu chốt để tồn tại và phát triển, Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp với chủ đề “Nuôi TTCT hiệu quả cao và bền vững” cũng dành nhiều thời gian trao đổi các nội dung liên quan đến vấn đề này. Các chuyên gia và bà con nông dân đã chia sẻ nhiều thông tin cũng như kinh nghiệm để nuôi tôm theo hướng an toàn như: ứng dụng công nghệ sinh học không dùng kháng sinh, hóa chất; các bệnh thường gặp trên tôm nuôi; cách phòng bệnh cho tôm nuôi; chọn tôm giống đảm bảo chất lượng; liều lượng cho tôm ăn hợp lý; mật độ nuôi tôm, trọng lượng tôm; liên kết, chính sách hỗ trợ cho người nuôi tôm; cách sử dụng men vi sinh hiệu quả; vấn đề môi trường; vệ sinh ATTP…

Tại Diễn đàn, đã có 12 báo cáo tham luận được giới thiệu tới các đại biểu, tập trung vào các nội dung: Một số giải pháp nâng cao năng suất chất lượng và hiệu quả trong nuôi tôm nước lợ; sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm công nghiệp; kết quả mô hình nuôi TTCT ứng dụng công nghệ cao tại Hải Phòng; hiệu quả và giải pháp phát triển nuôi TTCT trong nhà kính tại Thái Bình; mô hình nuôi tôm kết hợp hiệu quả kinh tế cao và bền vững tại Ninh Bình; hiệu quả mô hình nuôi tôm nước lợ qua đông ở miền Bắc; công tác quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh trên tôm nuôi khu vực miền Bắc… Trong khuôn khổ Diễn đàn, các đại biểu đã đến tham quan mô hình nuôi TTCT đạt hiệu quả cao tại P. Tân Thành, Q. Dương Kinh, TP Hải Phòng. Đây là mô hình điển hình về nuôi TTCT theo VietGAP, nuôi tôm trong nhà bạt và nuôi thâm canh hai giai đoạn bằng công nghệ Biofloc gắn với tiêu thụ sản phẩm tại Hải Phòng.

Cùng thông tin tại Diễn đàn, ông Kim Văn Vạn, Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam nhận định, dùng chế phẩm sinh học trong phòng, trị bệnh cho tôm nói riêng đang là một biện pháp tối ưu để phát triển nuôi thủy sản hiệu quả một cách lâu dài, bền vững và an toàn với môi trường. Chế phẩm sinh học còn làm tăng khả năng chuyển hóa thức ăn, kích thích tốc độ phát triển, tăng sản lượng tôm do trong chế phẩm sinh học có vi khuẩn Lactobacillus tạo ra axit lactic có tác dụng làm sạch ruột, khiến tôm tiêu hóa thức ăn rất nhanh và triệt để.

Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, ông Kim Văn Tiêu cho biết, để nuôi TTCT đạt hiệu quả cao và bền vững, bà con nông dân cần thay đổi tư duy sản xuất, từ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún sang chuỗi liên kết, có đầu ra; thay đổi phương pháp nuôi “chữa bệnh sang phòng bệnh”. Áp dụng tốt 5 “không” trong nuôi tôm: Không để nước quá lâu, không để nước quá sâu, không để nước đứng yên, không lấy nước trực tiếp và không xả thải nước ô nhiễm ra môi trường.

Minh Dương

Bạc Liêu: Giải pháp tăng trưởng sản xuất tôm năm 2020

(Thủy sản Việt Nam) – Theo kế hoạch phát triển của ngành thủy sản Bạc Liêu năm 2020, giá trị sản xuất tăng từ 25.055 tỷ đồng (năm 2019) lên 27.372 tỷ đồng, tăng thêm 225 tỷ đồng so với phương án đang thực hiện. Với lĩnh vực tôm sẽ tăng sản lượng từ 155.000 tấn (năm 2019) lên 203.000 tấn, tăng 3.000 tấn so với phương án đang thực hiện.

Năm 2020, Bạc Liêu đặt mục tiêu đạt sản lượng 203.000 tấn tôm 

Theo đó, địa phương sẽ tổ chức thực hiện có hiệu quả Đề án xây dựng Bạc Liêu trở thành trung tâm ngành công nghiệp tôm cả nước; thực hiện đồng bộ các giải pháp đẩy mạnh phát triển nuôi tôm; tăng cường các giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường nước nuôi tôm công nghệ cao; phát triển mạnh nuôi tôm sinh thái kết hợp với trồng và bảo vệ rừng khu vực ven biển của tỉnh. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện và đưa vào khai thác Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu; tăng diện tích tôm nuôi mà chủ yếu là diện tích nuôi tôm siêu thâm canh, thâm canh, bán thâm canh, tôm – lúa… Đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất (theo hướng VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao) nhằm giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi nhuận; nhân rộng mô hình nuôi tôm có hiệu quả và mang lại giá trị cao, tiến tới mở rộng vùng nuôi tôm an toàn dịch bệnh trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, xây dựng thành công sản phẩm tôm trở thành thương hiệu quốc gia tại Bạc Liêu; xây dựng chuỗi sản xuất tôm đảm bảo an toàn dịch bệnh theo quy định của Tổ chức Thú y Thế giới và yêu cầu của Australia để xuất khẩu tôm đông lạnh nguyên con sang thị trường này, từ đó tiến tới xuất khẩu sang thị trường các nước trên thế giới. Tập trung đầu tư xây dựng hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy sản (thủy lợi, giao thông, lưới điện…), nhất là các vùng sản xuất giống thủy sản tập trung quy mô lớn, các vùng nuôi tôm siêu thâm canh, thâm canh, bán thâm canh, vùng sản xuất lúa – tôm.

Vân Anh
Nguồn : http://thuysanvietnam.com.vn/

Khuyến cáo nuôi tôm nước lợ

Tôm thẻ chân trắng
Tôm thẻ chân trắng

Để vụ nuôi tôm nước lợ 2020 đạt kết quả thắng lợi, ngành nông nghiệp tỉnh Khánh Hòa đã thông báo lịch thời nuôi tôm và đưa ra các khuyến cáo cho người nuôi cần tuân thủ.

Thận trọng thời tiết

Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương, dự báo trong những tháng đầu năm 2020, hiện tượng ENSO ở trạng thái trung tính nhưng nghiêng về pha nóng và vẫn có khả năng duy trì trạng thái này trong những tháng tiếp theo của nửa cuối năm 2020. Đây là yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến hoạt động thả nuôi tôm nước lợ năm nay.

Do đó, để chủ động mùa vụ nuôi tôm, hạn chế thiệt hại do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, Sở NN-PTNT Khánh Hòa đã hướng dẫn lịch thời vụ nuôi tôm nước lợ năm 2020 trên địa bàn.

Bà Nguyễn Thị Toàn Thư, phụ trách phòng Nuôi trồng thủy sản (Chi cục Thủy sản Khánh Hòa) cho biết, đối với tôm sú, thời gian bắt đầu thả giống từ tháng 2 đến tháng 8. Trong đó, mật độ nuôi theo phương thức thâm canh, bán thâm canh từ 15-25 con/m2 và quảng canh, quảng canh cải tiến từ 5-10 con/m2. Mặt khác, ở những địa phương có điều kiện cơ sở hạ tầng, nguồn nước đảm bảo có thể thả giống đến cuối tháng 9.

Đối với nuôi tôm thẻ chân trắng, thời gian thả giống bắt đầu từ nửa cuối tháng 2 đến tháng 9. Trong đó, nuôi theo phương thức thâm canh, bán thâm canh nên áp dụng cho những ao lót bạc, thả giống mật độ cao trên 100 con/m2 hoặc ao đất có sự đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại và công nghê nuôi mới, tiên tiến. Đặc biệt hệ thống ao nuôi có xây dựng mương, cấp thoát riêng biệt, có ao xử lý nước thải, bùn thải trước khi đưa ra môi trường bên ngoài.

Ngược lại nuôi hình thức quảng canh, quảng canh cải tiến nên áp dụng cho những ao đất ít đầu tư, cơ sở vật chất và trang thiết bị. Để nuôi hiệu quả hơn nên áp dụng nuôi đa dạng sinh học như nuôi tôm chân trắng kết hợp cá rô phi hoặc tôm với cua…

Tuân thủ khuyến cáo

Chi cục Thủy sản Khánh Hòa cho biết, toàn tỉnh có khoảng 2.000ha nuôi tôm nước lợ, trong đó 1.574 ha nuôi tôm thẻ, còn lại là diện tích tôm sú, tập trung chủ yếu tại TX. Ninh Hòa và các huyện Cam Lâm, Vạn Ninh.

Theo bà Thư, lưu ý đối với người nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm canh chỉ nên nuôi 1 vụ/năm. Còn nuôi tôm chân trắng thâm canh, bán thâm canh và tôm sú quảng canh cải tiến nuôi 2 vụ/năm.

Đồng thời, người nuôi cần tuân thủ thời gian ngắt vụ giữa các vụ nuôi là 1 tháng đối với những ao nuôi hiệu quả và 2 tháng đối với những ao nuôi bị thiệt hại do dịch bệnh hoặc thả nuôi các đối tượng khác (cá chẽm, cá mú, rô phi đơn tính, rong câu, hải sâm…) nhằm diệt mầm bệnh, tăng thu nhập, cải tạo môi trường.

Bên cạnh đó, Chi cục Thủy sản Khánh Hòa còn đưa ra khuyến cáo, trước khi thả tôm 5-10 ngày, các hộ nuôi tôm cần theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết. Nếu thời tiết không thuận lợi cho nuôi tôm, bà con nên tạm dừng thả giống hoặc lấy ý kiến tư vấn từ cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản tại địa phương.

Mặt khác, người nuôi nên ương dưỡng 2-3 giai đoạn và sử dụng con giống cỡ lớn để thả nuôi thương phẩm cho hiệu quả. Đặc biệt, trong quá trình nuôi không sử dụng các loại hóa chất và kháng sinh cấm sử dụng theo quy định. Bên cạnh đó, để có con giống nuôi chất lượng, góp phần nuôi hiệu quả, các cơ sở nuôi, người nuôi nên liên kết cơ sở cung cấp giống uy tín, nằm trong chương trình giám sát dịch bệnh.

Ghi nhận của chúng tôi tại vùng nuôi tôm với diện tích khoảng 300 ha, ở xã Ninh Ích (TX Ninh Hòa), hiện người nuôi đang tập trung cải tạo ao nuôi. Ông Phạm Ngọc Khánh, Phó Chủ tịch UBND xã Ninh Ích cho biết, lịch thời vụ thả nuôi tôm năm 2020 địa phương đã nắm và đang thông báo cho người nuôi về các khuyến cáo được ngành nông nghiệp tỉnh đưa ra.

“Những năm gần đây tình hình dịch bệnh trên tôm diễn ra phức tạp. Vì vậy, người nuôi trên địa bàn cũng thận trọng thả nuôi và tuân thủ các khuyến cáo của địa phương. Từ đó không còn tình trạng “xé rào” thả nuôi ồ ạt như trước đây”, ông Khánh cho biết.

KIM SƠ Nông nghiệp Việt Nam

Đốm đen trên tôm nuôi

Tôm bị đốm đen.
Tôm bị đốm đen.

Cơ chế hình thành và biện pháp phòng bệnh đốm đen trên tôm nuôi.

Sự phát triển của ngành thủy sản nói chung và nghề  nuôi tôm nói riêng đang gặp rất nhiều khó khăn. Từ vấn đề giá cả sục giảm, dịch bệnh hoành hành đến thời tiết thay đổi thất thường đều làm người nuôi “ăn không ngon, ngủ không yên”. Trong đó tình hình tôm gần hoặc đang trong giai đoạn thu hoạch bị đốm đen nhiều trên vỏ đang gây hại rất lớn đến giá trị của tôm bán ra thị trường. Làm mất một nguồn lợi nhuận rất đáng kể cho người nuôi.

Đốm đen thường xuất hiện trên tôm từ 60 ngày tuổi đến khi thu hoạch, tập trung nhiều vào giai đoạn 25-45 ngày tuổi. Đặc biệt là khi thời tiết thay đổi thất thường, lúc vừa mới mưa, nước ao loãng ra làm độ mặn giảm thấp. Thời điểm đó, độ kiềm trong ao cũng bị giảm và kéo dài, lượng oxy không đạt được ngưỡng tối ưu cho sự phát triển của tôm, hàm lượng khí độc cao sau một thời gian hình thành nhất là NO2 khi mà chúng không có đủ cơ chế để chuyển hóa thành NO3 ít độc hơn.

Đàn tôm nuôi còn bị kích thích lột xác “bất đắc dĩ”, tuy nhiên vì đột ngột và mới mưa xuống nên sẽ không đủ khoáng chất cung cấp cho quá trình lột xác làm tôm rất yếu và dễ nhiễm một số mầm bệnh khác.

Vi khuẩn chính là “kẻ” thừa cơ hội tấn công nhiều nhất trong ao. Khi tôm yếu do lột xác không đủ khoáng chất, vi khuẩn trong nước ao cũng như là vi khuẩn bám trên vỏ tôm sẽ bắt đầu tập trung tấn công. Khi đó, cơ chế miễn dịch của tôm hoạt động bằng cách tiết enzyme prophenoloxidase sau này chuyển hóa thành dạng đốm đen melanin tiêu diệt vi khuẩn tạo đốm đen trên vỏ.


Tỷ lệ tôm chết có thể lên đến 95% trong vòng 15-30 ngày sau khi phát hiện.

Mặc dù đốm đen là do tôm tự tạo ra để hạn chế sự gây hại của vi khuẩn, về mặt sinh học là hoàn toàn có lợi cho tôm. Vì sau một thời gian, thì đốm đen trên vỏ sau nhiều lần lột xác cũng sẽ tự biến mất. Tuy nhiên, nếu tôm có thể khỏe mạnh trở lại thì mới có khả năng lột xác tiếp để đốm đen biến mất. Mà đa số thì những hoạt động chống lại của tôm không đủ để tiêu diệt tất cả vi khuẩn. Bệnh do vi khuẩn thì ngày càng nặng, tỉ lệ chết càng nhiều mà đốm đen cũng vẫn còn hiện diện nhiều trên vỏ. Nếu xét về mặc kinh tế thì tôm tự tạo đốm đen sẽ làm giá tôm sẽ giảm thấp, mất giá trị thương phẩm.

Nếu không có biện pháp chữa trị kịp thời, mà mức độ ô nhiễm trong ao nặng và hàm lượng vi khuẩn cao gấp nhiều lần, thì tỷ lệ chết có thể lên đến 95% trong vòng 15-30 ngày sau khi phát hiện.

Ngoài đốm đen trên vỏ thì đàn tôm nuôi cũng có nhiều biểu hiện bất thường như mòn đuôi, cụt râu, đứt phụ bộ, đuôi có thể bị phồng nhưng các dấu hiệu tổn thương khác vẫn chưa rõ ràng. Một thời gian sau, đốm đen đã xuất hiện nhiều thì tôm bắt đầu bỏ ăn, tăng trưởng giảm chậm, chết rải rác và khi lột xác bị dính vỏ, dính chân, không lột được hoàn toàn. Khi nặng hơn, gan tụy tôm bắt đầu nhợt nhạt, ăn yếu, ruột rỗng, chết gần như hầu hết đàn tôm nuôi.

Biện pháp tốt nhất là làm tốt các biện pháp phòng bệnh: cải thiện chất lượng nước, hạ tầng kĩ thuật, nâng cao sức khỏe của tôm bằng cách bổ sung chế phẩm sinh học, men tiêu hóa, vitamin C chống sốc vào trong thức ăn và diệt khuẩn khử trùng ao nuôi thường xuyên…

Với tình hình dịch bệnh Corona đang đe dọa sức khỏe con người thì ngành thủy sản cũng chịu chung hệ lụy của dịch bệnh. Khi mà các cửa khẩu giao thương với Trung Quốc đóng cửa thì tôm nuôi trong nội địa bị sụt giá vì không xuất khẩu được. Do vậy, người nuôi cần quản lý chặt chẽ ao nuôi của mình, khi có bất thường cần phải xử lý ngay để tránh thiệt hại nặng nề hơn. Và nếu tôm đạt kích cỡ thương phẩm thì phải bán ngay, không nên kéo dài.

Hà Tử
Nguồn :https://tepbac.com/