Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Các loại tôm

Tăng trưởng bù ở tôm thẻ sau bất lợi về nhiệt độ và dinh dưỡng

Tôm thẻ chân trắng
Tôm thẻ chân trắng

Đánh giá tăng trưởng bù ở tôm thẻ trong hệ thống biofloc sau khi stress nhiệt độ thấp và hạn chế về dinh dưỡng.

Một trong những biện pháp quản lý tiềm năng để cải thiện sản xuất tôm là ứng dụng công nghệ biofloc, mang lại một số lợi thế sản xuất hơn so với các hệ thống nuôi truyền thống trong ao. Các hệ thống biofloc cải thiện chất lượng nước, do đó không có sự đổi mới nước để giảm hoặc loại bỏ nước thải.

Ngoài ra, các hệ thống này giúp tăng mật độ thả, cải thiện an toàn sinh học và loại bỏ các hợp chất nitơ thông qua sự chuyển hóa của cộng đồng vi sinh vật. Cộng đồng này cũng hoạt động như một thực phẩm bổ sung cho tôm, cung cấp nguồn thức ăn liên tục 24 giờ mỗi ngày và cũng cho phép giảm mức protein cần thiết có trong thức ăn được sử dụng giúp người nông dân có nhiều lựa chọn trong sử dụng thức ăn công nghiệp.

Tăng trưởng bù được định nghĩa là một quá trình sinh lý trong đó sinh vật trải qua giai đoạn tăng trưởng nhanh sau một thời gian phát triển hạn chế. Nó thay đổi tùy theo loài, giai đoạn sống, điều kiện môi trường, mức độ nghiêm trọng và thời gian hạn chế cũng như cách sinh vật phản ứng một khi điều kiện nuôi cấy được cải thiện hoặc phục hồi. Tăng trưởng bù đã được khám phá trong một số loài thủy sản (bao gồm tôm) với các điều kiện khác nhau, bao gồm hạn chế thức ăn, thiếu oxy, mật độ và nhiệt độ và sự tiếp xúc với các hợp chất độc hại. Nó có thể xảy ra ở các mức độ khác nhau.

  1. Bồi thường đầy đủ: trong đó tôm bị thiếu hụt đạt đến trọng lượng tương đương với tôm nuôi ở trong điều kiện thích hợp.
  2. Bồi thường một phần: trong đó tôm đã trải qua hạn chế có tốc độ tăng trưởng nhanh và có thể có tỷ lệ chuyển đổi thức ăn tốt hơn trong giai đoạn phục hồi, nhưng không đạt được cùng trọng lượng của tôm trong điều kiện kiểm soát đầy đủ.
  3. Bồi thường quá mức: trong đó tôm đã trải qua hạn chế đạt trọng lượng lớn hơn tôm đối chứng.
  4. Không bồi thường: khi tôm bị căng thẳng (stress) không phát triển nữa khi các điều kiện tối ưu được thiết lập lại.

Việc sản xuất tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) trong các hệ thống biofloc đã được phát triển ở Brazil, chủ yếu ở khu vực Nam và Đông Nam. Ở những vùng này, sản xuất thường bị hạn chế do nhiệt độ thấp trong mùa thu và mùa đông. Do đó, việc đánh giá tăng trưởng bù sau khi thiết lập lại nhiệt độ tối ưu cho loài sẽ cho phép sản xuất hai hoặc nhiều vụ thu hoạch hàng năm mặc dù tốc độ tăng trưởng thấp trải qua trong mùa thu và mùa đông.

Ngoài việc khám phá sự tăng trưởng bù đắp từ thay đổi nhiệt độ, việc đánh giá tác động của quá trình này liên quan đến quản lý thức ăn là có liên quan, bởi vì thức ăn sản xuất là chi phí sản xuất chính – lên tới 60% – trong nuôi tôm thâm canh. Do đó, việc sử dụng hạn chế thức ăn như một tác nhân cho tăng trưởng bù tiếp theo có thể là một chiến lược để giảm yêu cầu và chi phí thức ăn.

Nuôi tôm trong điều kiện hạn chế về nhiệt độ và thức ăn

Trong nghiên cứu, tôm thẻ chân trắng (1,78 gram ± 0,38) được thả với mật độ 300con/m3 trong nước nuôi có 10% biofloc. Hai phương pháp thí nghiệm chính là hạn chế nhiệt độ và thức ăn trong 65 ngày chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn hạn chế và giai đoạn phục hồi tăng trưởng.

Thí nghiệm 1: Tôm được nuôi trong 3 nhiệt độ khác nhau (20, 24, 28oC) trong giai đoạn đầu tiên sau đó là ở 28oC trong 30 ngày cuối của giai đoạn 2 – phục hồi.

Thí nghiệm 2: Tôm nuôi nhận được 100% thức ăn trong toàn bộ thí nghiệm (nhóm đối chứng), nhóm còn lại chỉ nhận được 40% thức ăn  trong 35 ngày đầu và sau đó được cho ăn 100% như nhóm đối chứng. Tất cả được thử nghiệm ở nhiệt độ 28oC.

Trong cả 2 thí nghiệm tôm được cho ăn với chế độ ăn của tôm thương phẩm 38% protein 2 lần 1 ngày bằng khay cho ăn. Trong quá trình nghiên cứu, nhiệt độ nước, oxy hòa tan, độ mặn và pH được theo dõi hai lần một ngày. Tổng ammonia, nitrite và kiềm được theo dõi ba lần một tuần, trong khi nitrate, phosphate và tổng chất rắn được theo dõi mỗi tuần một lần. Duy trì độ kiềm 150mg/ và pH 7.2

Kết quả tích cực của nghiên cứu


Kết quả tăng trưởng tôm cho các mức độ bù khác nhau khi so sánh với điều trị đối chứng (B). (A) bồi thường quá mức; (C) bồi thường đầy đủ; (D) bồi thường một phần; (E) không bồi thường.

Thí nghiệm 1: ở cuối giai đoạn thứ nhất và thứ hai, tôm trong các nghiệm thức 20 và 24oC có trọng lượng cuối cùng thấp hơn đáng kể so với tôm trong nghiệm thức 28oC, cho thấy sự tăng trưởng một phần bồi thường đã xảy ra nhưng không bồi thường đầy đủ, tỷ lệ sống giữa các phương pháp điều trị không có sự khác biệt đáng kể và động vật trong các phương pháp điều trị 20 và 24oC cũng đạt tốc độ tăng trưởng hàng tuần cao trong giai đoạn phục hồi.

Thí nghiệm 2: vào cuối giai đoạn 1 (hạn chế thức ăn), tôm nuôi nhận 40% thức ăn có trọng lượng cuối cùng thấp hơn đáng kể và tỷ lệ sống không bị ảnh hưởng bởi hạn chế thức ăn. Vào cuối giai đoạn thứ hai (phục hồi), các trọng số cuối cùng không có sự khác biệt đáng kể, cho thấy rằng việc bồi thường đầy đủ đã xảy ra một khi các điều kiện tối ưu được thiết lập lại.

Ở những vùng có khí hậu cận nhiệt đới hoặc ôn đới, nơi sản xuất tôm bị hạn chế bởi nhiệt độ thấp trong mùa thu và mùa đông có thể duy trì nuôi tôm ở nhiệt độ thấp trong thời gian dài với tốc độ tăng trưởng thấp và tăng trưởng hồi phục từng phần. Trong trường hợp này, sự sống sót không bị ảnh hưởng và tôm đã bị hạn chế thức ăn sau đó thể hiện tốc độ tăng trưởng nhanh chóng.

Về hạn chế thức ăn, có thể giảm lượng thức ăn được cung cấp trong thời gian tăng trưởng để giảm chi phí thức ăn và cải thiện chất lượng nước. Trong trường hợp này, tôm có thể cho thấy sự tăng trưởng bù hoàn toàn. Quá trình này được tạo điều kiện thuận lợi trong các hệ thống biofloc nơi tôm có thức ăn tự nhiên, do đó làm giảm tác động tiêu cực của việc hạn chế thức ăn.

Đặng Tuấn – https://tepbac.com/

Mục tiêu xuất khẩu tôm hùm đạt hơn 200 triệuUSD vào năm 2025

Mục tiêu  đến năm 2025, tổng sản lượng tôm hùm nuôi đạt 3.000 tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 200 triệu USD, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đạt 14,8%. Bên cạnh đó, từng bước hình thành các vùng sản xuất và xuất khẩu tôm hùm trọng điểm phù hợp với sức tải môi trường.

ẢNH MINH HỌA

Để phát huy tiềm năng và lợi thế đưa lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu tôm hùm theo hướng bền vững và hiệu quả, Bộ NN&PTNT đang lấy ý kiến đóng góp hoàn thiện Dự thảo Đề án “Phát triển sản xuất, xuất khẩu tôm hùm đến năm 2025”.Theo Dự thảo Đề án triển khai thực hiện trên phạm vi 9 tỉnh ven biển miền Trung, bao gồm: Quảng Bình, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận. Dự thảo đặt mục tiêu phát triển bền vững cả về kinh tế, xã hội, môi trường; xây dựng ngành tôm hùm theo hướng hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường, phát huy cao lợi thế kinh tế biển của đất nước.

Đảm bảo 100% cơ sở nuôi tôm hùm tuân thủ theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về NTTS và từng bước được cơ quan quản lý địa phương cấp mã số nhận diện giúp truy xuất được nguồn gốc sản phẩm tôm hùm.

Tôm hùm vượt biển lớn

Về khoa học công nghệ, ưu tiên nhập công nghệ, nghiên cứu hoàn thiện quy trình công nghệ về sản xuất giống, ương nuôi tôm hùm bông, tôm hùm xanh; nghiên cứu hoàn thiện quy trình kỹ thuật nuôi tôm hùm thương phẩm theo hướng bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu; nghiên cứu hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp và biện pháp phòng trị bệnh trên tôm hùm. Song song với phát triển, cần bảo vệ nguồn lợi tôm hùm giống ngoài tự nhiên: Nghiên cứu xây dựng các mô hình bảo vệ, tái tạo nguồn lợi tôm hùm giống ngoài tự nhiên và kỹ thuật khai thác bền vững tôm hùm giống.

Đầu tư hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các vùng nuôi tôm hùm trên bờ được quy hoạch phát triển theo hình thức nuôi thâm canh sử dụng thức ăn công nghiệp trong hệ thống tuần hoàn. Ứng dụng tiến bộ của các ngành khoa học khác như tin học, công nghệ tự động hóa, nano, sinh học để tăng năng suất, sản lượng và hiệu quả nuôi tôm hùm thương phẩm. Nghiên cứu áp dụng các giải pháp kỹ thuật như thả giống cỡ lớn, nuôi tôm thành nhiều giai đoạn, thả mật độ thích hợp để nâng cao năng suất, sản lượng và đảm bảo ATTP, an toàn dịch bệnh…

Một số giải pháp thực hiện: Về hình thức nuôi, tiếp tục phát triển hình thức nuôi tôm hùm bằng lồng trên biển theo hướng bền vững, được quản lý dựa vào cộng đồng và có sự giám sát của cơ quan quản lý địa phương; đồng thời phát triển hình thức nuôi bằng thức ăn công nghiệp trong hệ thống tuần hoàn trên cơ sở chủ động về con giống, thức ăn và quản lý môi trường dịch bệnh.

PV

Nguồn: thuysanvietnam

Trà Vinh: Sản xuất thành công tôm sú bố mẹ sạch bệnh

ỹ thuật nuôi tôm sú bố mẹ sạch bện‌h được ứng dụng góp phần quan trọng trong cung cấp tôm giống chất lượng cao tại Trà Vinh nói riêng cũng như ĐBSCL nói chung.

Các chuyên gia của Bộ NN-PTNT kiểm tra, đánh giá và nghiệm thu đề tài nghiêm cứu. Ảnh: Minh Đảm
Các chuyên gia của Bộ NN-PTNT kiểm tra, đánh giá và nghiệm thu đề tài nghiêm cứu. Ảnh: Minh Đảm

 

Ngày 17/4, tại ĐH Trà Vinh đã diễn ra buổi đán‌h giá giai đoạn II và nghiệm thu đ‌ề tài “Nghiên cứ‌u tạo ra nguồn tôm sú bố mẹ sach bện‌h phục vụ cho các trại sả‌n xuất giống ở tỉnh Trà Vinh”. Đây là đ‌ề tài nghiên cứ‌u khoa học công nghệ trọng điểm cấp Bộ, do Bộ NN-PTNT làm chủ đầu tư và hỗ trợ kinh phí.

Từ những kết quả nghiên cứ‌u giai đoạn I, nhóm nghiên cứ‌u của Trường ĐH Trà Vinh đã tiến hành giai đoạn II của đ‌ề tài. Đến nay, tại trại thực nghiệm của trường đã có 390 con tôm giống bố mẹ được sả‌n xuất thành công. Vượt mức chỉ tiêu giao mục tiêu giao ban đầu là 300 con.

Khối lượng tôm cá‌i trung bình là 145,72 g/con, vượt 25g/con. Khối lượng tôm đực trung bình là 96,90 g/con, vượt chỉ tiêu gần 17 g/con. Tỷ lệ sống từ giai đoạn tôm post (0,02g) đến giai đoạn tôm bố mẹ thành thục là 61,95% (tính trên tôm đã chọn lọc), đạt yê‌u cầu nghiên cứ‌u. Tỉ lệ thành thục: 60% (tỉ lệ tôm chín mùi sin‌h  dụ‌c), vượt yê‌u cầu nghiên cứ‌u. Sức sin‌h sả‌n trung bình đạt 443.530 Nauplius/tôm cái/lần đ‌ẻ, vượt yê‌u cầu 43.000 nauplius. Kết quả kiểm tôm các giai đoạn nuôi sạch các bện‌h rút (WSSV, TSV, YHV, IHHNV và MBV, HPV) đạt yê‌u cầu.

Tôm bố mẹ sạch bện‌h được xá‌c nhậ‌n bởi Chi cục Thú y vùng VI. Ảnh: Minh Đảm

TS Huỳnh Kim Hường, Phó Trưởng Khoa Nông nghiệp- Thủ‌y sả‌n, ĐH Trà Vinh cho biết: “Tôm có nguồn gốc từ tôm post Mỹ, được chứng nhậ‌n sạch bện‌h trước khi thả nuôi. Mỗi giai đoạn nuôi, nhóm nghiên cứ‌u đều có kiểm tra các loại bện‌h thông thường trên tôm và đều gửi cơ Chi cục Thú y vùng VI kiểm tra và xá‌c nhậ‌n. Giai đoạn II này chúng tôi thực hiện trong 12 tháng. Rút ngắn được 1 tháng so với giai đoạn I”.

Trong quá trình nghiên cứ‌u cũng như sau khi đã nghiên cứ‌u thành công giai đoạn I, đến nay, trại giống thực nghiệm của ĐH Trà Vinh đã cung cấp khoả‌ng 2 triệu post tôm sú giống. Tỷ lệ tôm sin‌h trưởng rất đạt. Anh Đỗ Văn Trường, kỹ thuật viên trại tôm giống của ĐH Trà Vinh cho biết, trong quá trình nghiên cứ‌u giai đoạn I, trại đã cung cấp cho 3 hộ dân tại xã Trường Long Hoà (TX Duyên Hải) tổng cộng 150.000 post để làm mô hình đối chứng. Khi đó, do giá cả thị trường có biến độn‌g. Thời gian thả nuôi có người từ 3-3,5 tháng tháng. Tuy nhiên, tất cả người nuôi đều có lãi. Người nhiều nhất đạt là 112 triệu, thấp nhất 80 triệu.

Sau đó, có nhiều hộ đã đến trại để xin con giống về nuôi. Hộ nuôi đạt nhất khoả‌ng 12,5 con/kg.  Như hộ của chú Hai Lành (Trường Long Hoà) thả nuôi 80.000 con, thu hoạch được trên 6 tấn. Tỷ lệ thu được tính đầu con trên 90%. Ngoài 7 loại bện‌h được chứng nhậ‌n thì tôm đưa ra có sức đ‌ề kháng cao. Những bện‌h thông thường đường ruột, đóng rong mang không có bị.

Đợt mới này, trại cũng cung cấp cho người dân nuôi và nông hộ tham gia mô hình nghiên cứ‌u. Bước đầu thấy tôm lớn nhanh. Đến nay, sau 1 tháng 12 ngày tôm đã to bằng ống hú‌t, 300-350 con/kg”.

Đề tài nghiên cứ‌u thành công giúp gi‌ảm giá thành tôm sú bố mẹ, tôm giống tại Trà Vinh cũng như ĐBSCL. Ảnh: Minh Đảm

TS Nguyễn Minh Thành, ĐH Quốc Gia TP HCM đán‌h giá, xá‌c nhậ‌n sả‌n phẩm, phản biện đ‌ề tài của Bộ NN-PTNT, nhậ‌n xét: “Đề tài tôm sú bố mẹ thực hiện tại ĐH Trà Vinh đã cho những kết quả ngoài mong đợi. Kết quả nghiên cứ‌u đạt và vượt so với chỉ tiêu được giao.

Tôm bố mẹ mà nuôi trong môi trường trang trại là rất khó. Vấn đ‌ề này lần đầu tiên được nhóm nghiên cứ‌u của ĐH Trà Vinh thực hiện”.

Chất lượng tôm mẹ cũng như tôm bố đều vượt thì sẽ đảm bảo cung cấp được tôm bố mẹ sạch bện‌h cho vùng nuôi tại Trà Vinh nói riêng cũng như ĐBSCL nói chung. “Hiện nay, phần lớn tôm bố mẹ của đều bắ‌t từ tự nhiên sẽ không đảm bảo tôm sạch bện‌h. Thứ hai, gia hoá từ các công ty thì sẽ có giá thành cao. Do đó, đ‌ề tài thành công sẽ cung cấp được nguồn tôm bố mẹ sạch bện‌h cũng như giá cả phải chăng cho nông dân”, TS Nguyễn Minh Thành chia sẻ.

nguồn: nongnghiep.vn

Tôm hùm giảm “kịch sàn” với giá rẻ chưa từng có vẫn khó bán: Đâu là nguyên nhân?

Giá tôm tùm mặc dù đã giảm “kịch sàn” với giá rẻ chưa từng có, nhưng để giải cứu 1kg tôm hùm thì người mua mất cả tháng nhịn chợ đối với người có thu nhập trung bình.

Anh Nguyễn Huy Tùng, chủ cửa hàng chuyên bán hải sản tại Kim Giang (Hoàng Mai, Hà Nội) cho biết, vào cuối tháng 2, phong trào “giải cứu” tôm hùm được đông đảo người dân Hà Nội tham gia vì đa số họ chưa từng thưởng thức tôm hùm nên háo hức “ăn cho biết”.

 tom hum giam “kich san” voi gia re chua tung co van kho ban: dau la nguyen nhan? hinh anh 1

Tôm hùm được coi là món ăn cao cấp, xa xỉ với giá thành cao chuyên phục vụ xuất khẩu và nhà hàng nay được bán tràn lan trên khắp các chợ.

“Đợt đó, cứ 2 ngày cửa hàng tôi nhập khoảng 1,5 tấn tôm hùm xanh, hàng ra đến đâu hết đến đó, không đủ cung cấp cho các mối buôn. Giá bán lẻ ra thị trường với size 3-4 con/kg ở mức 750.000 đồng/kg còn không có mà mua. Thế nhưng, hiện tại, giá tôm giảm thêm 100.000 đồng/kg mà khách không mấy mặn mà, lượng khách giảm đến 80% nên cửa hàng tôi mỗi ngày chỉ bán được khoảng 1 tạ”, anh Tùng nói.

Theo anh Tùng, lượng mua giảm vì trước đây, tôm hùm chỉ nuôi để phục vụ xuất khẩu và cung cấp cho nhà hàng phục vụ khách du lịch, những cửa hàng bán hải sản nhỏ lẻ muốn bán cũng không có. Vì vậy, khi có thông tin “giải cứu”, tôm hùm được đăng bán tràn ngập mạng xã hội và các cửa hàng bán hải sản khắp Hà Nội thì người dân đổ xô đi mua về ăn cho biết. Khi biết rồi thì dù ngon cũng sẽ không thể ăn mãi được vì dù giá rẻ đến 50% đi nữa thì tôm hùm vẫn là món ăn “thượng lưu”, giá thành cao.

 tom hum giam “kich san” voi gia re chua tung co van kho ban: dau la nguyen nhan? hinh anh 2

Theo anh Tùng, giá tôm hùm hiện tại rẻ hơn cả thời điểm “giải cứu” nhưng người tiêu dùng cũng không được mặn mà.

“Chỉ được thời gian đầu, mọi người tò mò mua về ăn thử 1-2 lần cùng với ý nghĩa giải cứu nên mặt hàng tôm hùm luôn trong trạng thái cháy hàng. Giờ thì nhà hàng, quán ăn không được phép mở cửa, xe cộ hạn chế đi lại nên lượng tiêu thụ giảm đáng kể. Trước đây, mỗi ngày có khoảng 20 đơn hàng đi tỉnh, giờ mỗi ngày được khoảng 2 đơn vì không gửi xe được, chỉ giao các đơn đặt hàng online xung quanh Hà Nội”, anh Tùng phân tích.

Kinh doanh hải sản hơn 4 năm, anh Tùng cho biết, đây là năm khó khăn nhất, không chỉ lượng tiêu thụ tôm hùm xanh bị ảnh hưởng mà các loại hải sản khác tại cửa hàng như tôm hùm bông, tôm hùm Alaska, cua hoàng đế (Kinh Carb) cũng giảm giá mà lượng tiêu thụ giảm đi rõ rệt.

 tom hum giam “kich san” voi gia re chua tung co van kho ban: dau la nguyen nhan? hinh anh 3

Giá tôm hùm xanh tại thị trường giao động từ 600-800.000 đồng/kg tùy size.

Theo quan sát, tại Hệ thống hải sản và thực phẩm sạch Sói Biển, giá tôm hùm size 3-4 con/kg đang được bán với giá 759.000 đồng/kg, giảm 140.000 đồng/kg so với tháng trước

Để tiêu thụ tôm hùm, nhà hàng lẩu Đức Trọc (Trương Định, Hà Nội) cũng đã nhận chế biến hải sản tươi và ship tận nhà bằng chính đội ngũ nhân viên của nhà hàng với giá 659.000 đồng/kg tôm hùm tươi sống

Theo chị Phạm Giang (trú tại Hoàng Mai, Hà Nội), với mức giá “giải cứu” này dù rẻ hơn trước rất nhiêu nhưng vẫn khá cao so với thu nhập và chi tiêu thường nhật của nhiều người. “Như gia đình tôi có 4 người, thu nhập của hai vợ chồng khoảng 20 triệu/ tháng thì chi phí mỗi bữa ăn chính khoảng 100.000 đồng, ăn sáng khoảng 50.000 đồng. Mỗi tháng, riêng tiền ăn là 8 triệu đồng, chưa kể các chi phí khác. Để ăn 1kg  tôm hùm với giá 650.000 đồng/kg thì đồng nghĩa với việc “nhịn” trong khoảng 3 ngày”.

 tom hum giam “kich san” voi gia re chua tung co van kho ban: dau la nguyen nhan? hinh anh 4

Thậm chí giá tôm hùm được đăng bán với giá 35.000 đồng/con, size 10-14 con/kg, 450.000 đồng/kg với size 3 con/kg.

“Dù giá rẻ nhưng đối với những người thu nhập thấp thì ăn một bữa tôm hùm vẫn là xa vời đối với họ. Với mỗi suất ăn chỉ khoảng 20.000 đồng thì 1kg tôm hùm bằng gần một tháng “đi chợ”. Trong khi đó, tôm hùm chỉ ăn chơi, không thể ăn với cơm thay thức ăn như thịt, cá, trứng… nên nhà tôi chỉ dám ăn một lần cho biết thôi, giờ có giảm nữa cũng chịu”, chị Giang phân tích.

Người tiêu dùng khi nghe cụm từ “giải cứu” thường nghĩ giá rẻ, nhưng thực tế giá tôm hùm chỉ giảm một mức nhất định ở sản phẩm tôm hùm xanh. Tại vùng nuôi thị xã Sông Cầu (Phú Yên), tôm hùm xanh cũng rớt giá xuống còn khoảng 500 nghìn/kg, thấp hơn 200-300 nghìn đồng so với trước đây. Tuy nhiên, khi đến tay người tiêu dùng thì giá tôm hùm vẫn ở mức cao, chênh lệch từ 150-200.000 đồng/kg do khâu khai thác, vận chuyển, bảo quản tốn quá nhiều chi phí.
Khánh An- http://danviet.vn/

Nuôi tôm càng xanh toàn đực trên đất lúa

Khuyến nông
Cán bộ khuyến nông và nông dân đánh giá mô hình.

Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Quảng Bình đã tổng kết mô hình nuôi tôm càng xanh trên đất lúa chuyển đổi tại các huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh và Bố Trạch.

Năm 2018, Trung tâm triển khai nuôi thử nghiệm tôm càng xanh toàn đực ở vùng phá Hạc Hải của 2 xã Hồng Thủy, huyện Lệ Thủy) và Võ Ninh (huyện Quảng Ninh ).

Đến năm 2019, Trung tâm tiếp tục triển khai hỗ trợ nhân rộng mô hình nuôi tôm càng xanh tại xã Đồng Trạch (huyện Bố Trạch).

Mô hình được triển khai tại hộ ông Trần Văn Nghĩa, quy mô 1,2 ha và hộ ông Phan Văn Thanh, quy mô 0,7 ha. Các điểm nuôi đều là vùng chiêm trũng nhiễm mặn, trước đây trồng lúa nhưng hiệu quả thấp.

Cán bộ kỹ thuật Trung tâm hướng dẫn bà con tiến hành bơm cạn, tu sửa bờ ao, cống thoát nước, vét bớt lớp bùn đáy và để lại phần cỏ năn để tôm lên trú ẩn, bắt và diệt ốc, diệt cá tạp bằng thuốc Saponin, bón vôi khử trùng, sau 4-5 ngày mới tiến hành cấp nước cho ao.

Nước được lọc qua lưới lọc mịn. Sau khi cán bộ kỹ thuật kiểm tra kỹ lưỡng các thông số, yếu tố môi trường ao nuôi bảo đảm, bà con mới tiến hành thả giống.

Giống tôm càng xanh toàn đực được mua tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II, cơ cở sản xuất giống tại Bạc Liêu. Tôm giống khi thả có kích cỡ PL15, bơi lội khỏe mạnh, màu sắc tươi sáng. Mật độ thả 10 con/ m2

Sau 6 tháng thả nuôi, trọng lượng tôm thu hoạch trung bình khoảng 25 con/kg, với tỷ lệ sống trên 50%, giá bán khoảng 200.000 – 230.000 đồng/kg.

Theo các chủ hộ nuôi thì giống tôm càng xanh toàn đực phù hợp với đặc điểm sinh thái vùng nuôi nhiễm mặn. Trong quá trình nuôi, tôm sinh trưởng và phát triển tốt, chưa thấy dịch bệnh nguy hiểm xảy ra.

Nguyễn Trung Hiểu Nông nghiệp Việt Nam

Khánh Hòa: Thiết bị làm lạnh nước biển nuôi tôm hùm trên cạn

Một nhóm giảng viên bộ môn Kỹ thuật nhiệt lạnh, Khoa Cơ khí, Trường Đại học Nha Trang đã nghiên cứu, thiết kế, chế tạo thành công thiết bị làm lạnh nước biển điều hòa nhiệt độ cho bể nuôi tôm hùm thương phẩm (gọi tắt là thiết bị làm lạnh).

Kết quả thử nghiệm cho thấy, thiết bị hoạt động ổn định, duy trì nhiệt độ nước trong bể nuôi từ 27ºC đến 28ºC, đáp ứng nhu cầu công nghệ nuôi tôm hùm thương phẩm trên cạn.

Thiết kế thiết bị làm lạnh nước biển 

Theo Thạc sĩ Lê Như Chính, những năm gần đây, do biến đổi khí hậu, bão lụt khiến nghề nuôi tôm hùm trên biển gặp nhiều khó khăn, tôm dễ lây dịch bệnh, ô nhiễm môi trường nước. Ở Việt Nam đã có một số người thử nghiệm nuôi tôm hùm thương phẩm trên cạn và cho thấy nhiệt độ thích hợp để tôm sinh trưởng tốt khoảng 27ºC đến 28ºC.

khanh hoa: thiet bi lam lanh nuoc bien nuoi tom hum tren can hinh anh 1

Thiết bị làm lạnh nước biển trong các bể nuôi tôm hùm.

Trong khi đó, vào mùa hè, nhiệt độ trong bể nuôi ban ngày có khi lên tới 32ºC đến 34ºC, dễ làm cho tôm bị chết. Để khắc phục nhiệt độ cao, người nuôi thường thả nước đá cây có bọc túi ni lông xuống bể để làm lạnh nước biển.

Tuy nhiên, cách làm này dễ làm cho tôm bị nhiễm bệnh, khó điều chỉnh được nhiệt độ nước biển trong bể và chi phí khá cao. Cùng lúc đó, Tiến sĩ Mai Duy Minh (Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 3) tiến hành thực hiện đề tài cấp bộ “Nghiên cứu công nghệ nuôi thâm canh tôm hùm thương phẩm (tôm hùm bông Panulirus ornatus) bằng thức ăn công nghiệp trong hệ thống tuần hoàn.

Tiến sĩ Minh đặt vấn đề với nhóm (gồm: Trần Đại Tiến, Lê Như Chính, Huỳnh Văn Thạo) về việc thiết kế hệ thống làm lạnh nước biển trong bể, duy trì được nhiệt độ như dưới biển để tôm hùm phát triển bình thường. 

Sau khi trao đổi với Tiến sĩ Minh, nhóm tiến hành nghiên cứu và đưa ra nhiều phương án để lựa chọn nhằm tìm ra ưu và nhược điểm của thiết bị. Phương án được nhóm lựa chọn để tính toán, thiết kế và chế tạo là dàn lạnh dạng ống xoắn với ưu điểm vệ sinh dễ dàng, dễ chế tạo, sự chênh lệch nhiệt độ nước vào và ra không lớn nên không làm ảnh hưởng đến sinh trưởng của tôm.

Sau hơn 1 tháng nghiên cứu, bước đầu, nhóm đã thiết kế, chế tạo thành công thiết bị làm lạnh. Theo đó, thiết bị hoạt động hoàn toàn tự động, tự điều chỉnh nhiệt độ nước trong bể ổn định thích hợp để tôm sinh trưởng tốt từ 27ºC đến 28ºC.

Kết quả khả quan

Sau khi hoàn thành, thiết bị đã được đưa vào thử nghiệm tại khu vực nuôi tôm hùm của Trung tâm Quốc gia giống hải sản miền Trung ở dốc Đá Trắng (thôn Xuân Đông, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh), Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 3.

Tiến sĩ Minh cho biết: “Thiết bị hoạt động ổn định. Hàng năm, các thành viên trong nhóm định kỳ bảo trì. Thiết bị chạy trên nguồn điện 3 pha, điều chỉnh nhiệt độ làm mát nước dưới 30oC, làm ấm nước trên 25oC, đáp ứng nhu cầu công nghệ nuôi tôm hùm thương phẩm trên cạn. Đặc biệt, dàn lạnh chịu nước mặn rất tốt, ít gây ồn”.


khanh hoa: thiet bi lam lanh nuoc bien nuoi tom hum tren can hinh anh 2

Nói về quá trình nghiên cứu, Thạc sĩ Chính cho biết, khó khăn lớn nhất là dàn lạnh như thế này trên thị trường hoàn toàn chưa có bán (hoặc không đáp ứng được yêu cầu công nghệ), nhóm phải tự tính toán, thiết kế, chế tạo ra một dàn lạnh mới. Nhóm phải tính toán đưa vật liệu ống thép Inox 316L vào để vừa không bị nước biển ăn mòn, vừa hiệu quả làm lạnh nhanh nhưng không ảnh hưởng đến sự phát triển, sinh trưởng của tôm.

Ngoài ra, để đánh giá hiệu quả chi phí của thiết bị, nhóm đã sử dụng các thông số để so sánh với việc sử dụng nước đá cây làm lạnh. Theo tính toán của nhóm, chi phí làm lạnh và duy trì cho 1m3 nước biển/ngày hơn 580 đồng (thiết bị làm lạnh), còn bằng đá hơn 2.500 đồng.

Điều đó cho thấy, dùng thiết bị để điều hòa nhiệt độ nước biển cho bể nuôi tôm hùm thương phẩm trên cạn không những duy trì nhiệt độ nước biển trong bể ổn định, điều kiện vệ sinh tốt cho môi trường thích hợp để tôm sinh trưởng mà chi phí ít hơn gần 5 lần so với dùng nước đá cây.

Ngoài Trung tâm Quốc gia giống hải sản miền Trung, hiện nay, thiết bị được Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc tại Phú Yên ứng dụng nuôi tôm hùm trên cạn, với kinh phí đầu tư hệ thống 450 triệu đồng. Sau gần 6 tháng lắp đặt, bước đầu thiết bị hoạt động ổn định, tôm sinh trưởng bình thường.

 “Có thể nói, đây là một sản phẩm có tính ứng dụng thực tế cao, mở ra một hướng đi mới cho nghề nuôi tôm hùm trên cạn. Mục tiêu của nhóm sắp tới là tiếp tục nhân rộng sản phẩm; đồng thời nghiên cứu nâng cấp để thiết bị có tính tự động hóa cao hơn. Ngoài ra, nghiên cứu thêm một số chất liệu làm dàn lạnh khác, phù hợp hơn với môi trường nước biển mà giá thành rẻ hơn, nhằm giảm chi phí đầu tư cho người nuôi…”, Thạc sĩ Chính nói.
Theo Khánh Hà (Báo Khánh Hòa)

Chủ cửa hàng bán hải sản ở Hà Nội chỉ dẫn bà nội trợ cách phân biệt 5 loại tôm hùm để không bị chặt chém khi đi chợ

Chị Nguyễn Như Hoa – chủ cửa hàng bán hải sản ở Láng Hạ, Hà Nội đã chỉ dẫn cách nhận biết các loại tôm hùm nhằm từ đó giúp người mua hàng mua đúng chuẩn lại tôm hùm cần mua cũng như không bị chặt chém khi đi chợ.

Thời gian gần đây, do ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh, nhiều mặt hàng rớt giá thê thảm. Trong đó phải kể tới dưa hấu, thanh long, chuối, mít, và tôm hùm do không xuất khẩu được sang Trung Quốc.

Để giúp những ngư dân vượt qua giai đoạn khó khăn này, một số chuỗi cửa hàng, siêu thị đã tiên phong giải cứu tôm hùm giúp bà con ngư dân.

Trên mạng xã hội khắp nơi hô hào khẩu hiệu giải cứu tôm hùm với giá ưu đãi từ tiền triệu giảm giá hơn nửa để kích cầu tiêu dùng.

Tuy nhiên, tôm hùm hiện nay trên thị trường hải sản Việt có rất đa dạng chủng loại như tôm hùm Canada, tôm hùm bông, tôm hùm tre, tôm hùm baby, tôm hùm sen. Thực tế, tùy theo đặc điểm hình thể và màu sắc mà có tên gọi và các dấu hiệu phân biệt riêng.

Chia sẻ về cách nhận biết đúng loại tôm hùm cần mua, chị Nguyễn Như Hoa – chủ cửa hàng bán hải sản lâu năm ở Láng Hạ, Hà Nội đã chỉ dẫn cách nhận biết các loại tôm hùm nhằm từ đó giúp người mua hàng mua đúng chuẩn lại tôm hùm cần mua cũng như không bị chặt chém khi đi chợ.

Chủ cửa hàng bán hải sản ở Hà Nội chỉ dẫn bà nội trợ cách phân biệt 5 loại tôm hùm để không bị chặt chém khi đi chợ-1Chủ cửa hàng bán hải sản ở Hà Nội chỉ dẫn bà nội trợ cách phân biệt 5 loại tôm hùm để không bị chặt chém khi đi chợ-2Chủ cửa hàng bán hải sản ở Hà Nội chỉ dẫn bà nội trợ cách phân biệt 5 loại tôm hùm để không bị chặt chém khi đi chợ-3
Cách nhận biết tôm hùm nhập khẩu Canada
Trên thị trường hiện nay, rất nhiều cửa hàng hải sản có bán loại tôm hùm Canada. Đây là loại tôm hùm nhập khẩu từ vùng biển Alaska.

Những chú tôm hùm nhập khẩu Canada có hình dáng bên ngoài rất dễ nhận biết: “Nhìn vào là thấy đôi càng của chúng lớn, thân dài và có trọng lượng lớn. Thông thường 1 chú tôm nhập khẩu có trọng lượng 1 – 3 kg, có những con lên tới 5-6kg”, chị Hoa nói.

Chủ cửa hàng bán hải sản ở Hà Nội chỉ dẫn bà nội trợ cách phân biệt 5 loại tôm hùm để không bị chặt chém khi đi chợ-4
Tôm hùm nhập khẩu Canadađôi có đôi càng lớn, thân dài và có trọng lượng lớn.

Khi ăn tôm hùm nhập khẩu sẽ cảm giác giống thịt cua và không chắc như tôm hùm Việt. Tuy nhiên do giá thành của chúng khá rẻ, chỉ từ 900.000 đ – 1.200.000 đ/kg nên nhiều người vẫn mua ăn.

Cách nhận biết tôm hùm bông
Tôm hùm bông hay còn được gọi là tôm hùm sao sống chủ yếu ở vùng Nam Trung Bộ, biển Nha Trang, Ninh Thuận, Bình Thuận.

Nhìn bề ngoài, những chú tôm hùm này có vỏ láng, màu xanh nước biển pha lá cây. Nhất là phần đầu và gai có đốm màu cam, giữa vỏ lưng các đốt bụng có 1 dãy ngang màu đen hoặc nâu đen tương đối rộng.

Những chú tôm hùm bông có kích cỡ lớn với chiều dài phổ biến 30 – 35 cm. Tuy nhiên trọng lượng của chúng trung bình đạt 1.5 – 1.8 kg. Cá biệt có ít con được 4 – 4.5 kg/con.

Chủ cửa hàng bán hải sản ở Hà Nội chỉ dẫn bà nội trợ cách phân biệt 5 loại tôm hùm để không bị chặt chém khi đi chợ-5
Nhìn bề ngoài, những chú tôm hùm này có vỏ láng, màu xanh nước biển pha lá cây.

“Khi ăn loại tôm hùm này, bạn sẽ thấy thịt của chúng ngon, dai, chắc và rất ngọt. Tuy nhiên chúng có giá thành khá đắt đỏ, được bán phổ biến từ 1.6 – 2.5 triệu đồng/kg tùy kích cỡ.

Cách nhận biết tôm hùm baby
Theo chị Hoa cho biết, tôm hùm baby là những chú tôm hùm có kích cỡ nhỏ, chỉ khoảng 3 – 8 con/1 kg. Tuy có kích cỡ như vậy nhưng khi ăn loại tôm hùm này cũng khá thơm ngon. Thịt của loại tôm này khá dai, chắc. Nhất là phần gạch ở phần đầu và dọc sống lưng của loại tôm này béo ngậy màu vàng ươm rất thơm ngon.

Chủ cửa hàng bán hải sản ở Hà Nội chỉ dẫn bà nội trợ cách phân biệt 5 loại tôm hùm để không bị chặt chém khi đi chợ-6Những chú tôm hùm có kích cỡ nhỏ, chỉ khoảng 3 – 8 con/1 kg.

Dù là loại tôm hùm baby nhưng giá bán của chúng luôn ở khoảng 500.000 đ – 800.000 đ/kg tùy kích cỡ to nhỏ.

Cách phân biệt tôm hùm xanh
Giống như tôm hùm baby, tôm hùm xanh cũng có kích cỡ nhỏ. Thế nhưng loại tôm này khi ăn không ngon và dai.

Nhìn hình dáng bên ngoài, tôm hùm xanh có màu xanh lá. Ở vỏ và lưng có màu xanh đậm pha viền trắng nhìn khá đẹp. Giá 1kg tôm hùm xanh tươi sống khoảng 700.000 đ/kg.

Chủ cửa hàng bán hải sản ở Hà Nội chỉ dẫn bà nội trợ cách phân biệt 5 loại tôm hùm để không bị chặt chém khi đi chợ-7Ở vỏ và lưng có màu xanh đậm pha viền trắng nhìn khá đẹp.

Cách phân biệt tôm hùm tre
Theo chủ hàng bán hải sản trên, cách nhận biết rõ nhất tôm hùm tre với các loại tôm hùm khác là chúng có màu vỏ giống như màu tre ngà.

Khi ăn tôm hùm tre, thịt sẽ khá thơm ngon, săn chắc. Loại tôm này cũng có kích cỡ vừa từ 0.4 – 1.2 kg/con và được bán với giá khá cao khoảng 800.000đ – 1.200.000đ/kg.

Chủ cửa hàng bán hải sản ở Hà Nội chỉ dẫn bà nội trợ cách phân biệt 5 loại tôm hùm để không bị chặt chém khi đi chợ-8Cách nhận biết rõ nhất tôm hùm tre với các loại tôm hùm khác là chúng có màu vỏ giống như màu tre ngà.

Ngoài chỉ dẫn cách phân biệt các loại tôm hùm như trên, chị Hoa cũng lưu ý bà nội trợ đặc biệt chú ý khi mua loại tôm này để xứng đồng tiền đã bỏ ra: “Để chọn mua một con tôm hùm ngon, bà nội trợ nên luôn chọn tôm hùm tươi ngon, còn sống. Ngoài ra nên chọn tôm có trọng lượng từ 1.3 – 1.5kg sẽ ngon nhất. Bên cạnh đó, nên chọn những chú tôm có phần khớp nối giữa đầu và mình khít nhau vì thịt của chúng vẫn còn tươi, ngon. Tuyệt đối không chọn những chú tôm hùm có càng và chân mỏng manh, đã gãy rụng hoặc bị chảy nhớt. Bởi đó là những chú tôm không còn tươi ngon nữa, không nên mua”.

Theo Nhịp Sống Việt