Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Các loại tôm

Chùm ảnh: Giá tôm càng xanh tăng cao, người dân Cà Mau “hốt bạc”

Sau khi thu hoạch vụ lúa trên đất nuôi tôm, người dân Cà Mau tất bật thu hoạch tôm càng xanh. Cận Tết, giá tôm càng xanh tăng cao giúp nhiều nông dân “hốt bạc”.

Những năm gần đây, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau được xem là “thủ phủ” con tôm càng xanh của tỉnh. Đến nay, địa phương này đã phát triển hơn 16.000ha, tăng hơn 5.000ha so với 3 năm về trước, chủ yếu tập trung ở các xã Biển Bạch Đông, Tân Bằng, Biển Bạch, Thới Bình,…

Những năm gần đây, bên cạnh con tôm sú, tôm thẻ chân trắng thì tôm càng xanh được người dân tỉnh Cà Mau, nhất là trên địa bàn huyện Thới Bình nuôi phổ biến.

Đến nay, địa phương này đã phát triển hơn 16.000ha, tăng hơn 5.000ha so với 3 năm về trước, chủ yếu tập trung ở các xã Biển Bạch Đông, Tân Bằng, Biển Bạch, Thới Bình,…

Theo phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thới Bình, đến thời điểm hiện tại, nhiều diện tích tôm càng xanh của huyện đã thu hoạch, năng suất đạt trung bình khoảng 200-250kg/ha mặt nước.

Hiện, giá bán tôm tại chỗ từ 110.000-130.000đồng/kg tùy loại. Sau khi trừ đi hết các khoản chi phí, người nuôi tôm càng xanh còn lãi khoảng 20 triệu đồng/ha.

Thị trường thắt chặt, thủy sản Việt gặp khó

(Thủy sản Việt Nam) – Năm 2019, trong khi xuất khẩu hải sản có bước tăng trưởng đáng kể thì hai sản phẩm chủ lực của thủy sản Việt Nam là tôm và cá tra đều giảm, khiến kế hoạch cả năm không hoàn thành. Nguyên nhân được cho là do biến động từ một số thị trường trọng điểm.

Thị trường biến động

Tổng cục Thủy sản cho biết, kim ngạch xuất khẩu thủy sản 10 tháng đầu năm 2019 ước đạt 7,084 tỷ USD, giảm 2% so cùng kỳ năm 2018. Trong đó tôm đạt 2,78 tỷ USD giảm 6,4% và cá tra đạt 1,64 tỷ USD giảm 10%. Còn hải sản trên 2,66 tỷ USD tăng 10% với các sản phẩm tăng cao là cá ngừ 609,6 triệu USD tăng 12,7%; cua, nghẹ, giáp xác khác 117,7 triệu USD tăng 11,5%; các loại cá khác 1,376 tỷ USD tăng 17%.

Xuất khẩu tôm giảm do một số nước trong khu vực như Ấn Độ, Ecuador … tiếp tục được mùa tôm, giá thành sản xuất thấp, nguồn cung dồi dào. Thị trường nhập khẩu tăng rào cản kỹ thuật: Trung Quốc siết chặt quản lý nhập khẩu biên mậu; tăng kiểm soát chất lượng, ATTP và truy xuất nguồn gốc trong khi nhiều doanh nghiệp nước ta chủ quan, chưa đáp ứng yêu cầu.

Đối với cá tra, kim ngạch xuất khẩu đi một số thị trường lớn như Mỹ, Trung Quốc bắt đầu giảm từ tháng 3/2019 do dự trữ hàng hóa khá nhiều từ cuối năm 2018. Trong nước, giá cá tra nguyên liệu duy trì ở mức cao liên tục 2 năm 2017 – 2018 đã khuyến khích sản xuất làm tăng nguồn cung, tạo xu hướng giảm giá do dư cung. Một số quốc gia như Indonesia, Trung Quốc, Bangladesh đã đầu tư phát triển cá tra, đặc biệt Indonesia bắt đầu xây dựng, quảng bá dòng cá tra sạch và chiếm lĩnh thị trường Trung Đông. Còn thị trường Ả rập – Saudi vẫn đóng cửa đối với thủy sản Việt Nam, trong đó có cá tra.

Xuất khẩu sản phẩm từ khai thác hải sản tăng mạnh so với năm 2018 do các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu có giải pháp duy trì các thị trường truyền thống (Nhật, Hàn Quốc); tìm kiếm, mở rộng thị trường mới. Có những thị trường tăng trưởng vượt bậc như cá ngừ vào thị trường Trung Quốc tăng 135%, Mỹ 58%, riêng thị trường Mỹ đã chiếm gần 44% kim ngạch xuất khẩu của ngành hàng này.

Xuất khẩu cá tra không đạt kỳ vọng – Ảnh: ST

Thận trọng

VASEP dự báo cả năm 2019, xuất khẩu tôm 3,4 tỷ USD, giảm 5% so với năm 2018; xuất khẩu cá tra 2,06 tỷ USD, giảm 9%. Còn hải sản tiếp tục tăng trưởng để có thể cạnh tranh vị trí hàng đầu với tôm.

Phân tích của VASEP, tôm xuất khẩu giảm các tháng đầu năm, từ quý III/2019 đã phục hồi nhẹ gần 1% so cùng kỳ năm ngoái, sang tháng 10 tiếp tục tăng. Tính trong 9 tháng đầu năm, các thị trường điển hình tăng là Trung Quốc 7,2%, Mỹ 1%, Australia 7,3%, Đài Loan 13,9%. Đặc biệt ở thị trường Trung Quốc, tôm chân trắng tăng từ tháng 6 theo chính ngạch qua đường biển gấp khoảng 1,5 lần so với tháng trước, xu hướng này tiếp tục những tháng cuối năm; còn tôm sú hiện nay Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm 32% tổng giá trị xuất khẩu tôm sú nước ta.

Cá tra cũng phục hồi mạnh ở thị trường Trung Quốc, quý III/2019 đạt 198,3 triệu USD tăng 56,6% so với cùng kỳ. Đến nay, thị trường cá tra đứng đầu là Trung Quốc đã bỏ xa Mỹ và EU, với 450,7 triệu USD trong 9 tháng đầu năm, tăng 19,6% so với cùng kỳ. Trước đây, Việt Nam chỉ xuất khẩu cá tra nguyên con tới một số tỉnh biên giới phía Nam Trung Quốc, nay sản phẩm cá tra fillet đã có mặt tại những thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải và Đại Liên. Nhu cầu tiêu thụ của Trung Quốc sẽ còn cao hơn nữa.

Qua biến động, VASEP cho rằng, xuất khẩu tôm sang thị trường Mỹ cần thống nhất duy trì tốc độ tăng trưởng không quá lớn so với tốc độ phát triển của ngành. Nếu không, rủi ro về bị áp thuế có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, từ Chính phủ Mỹ hoặc từ nguyên đơn. Đòi hỏi sự chia sẻ vì quyền lợi chung, không vì lợi ích ngắn hạn làm ảnh hưởng toàn ngành.

Còn cá tra, cũng theo VASEP, cần có chiến lược quốc gia xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc, khi thị trường đã chiếm 32% giá trị xuất khẩu cá tra Việt Nam và dự báo có thể tăng lên 35 %. Lệnh cấm tôm từ Ecuador vào Trung Quốc khiến ngành tôm nước này chấn động khi 50% sản lượng tôm Ecuador xuất khẩu sang Trung Quốc có thể xem là lời cảnh báo cho ngành cá tra nếu không có chiến lược lâu dài.

Cần tính toán kỹ lưỡng

Để thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu trong tháng còn lại của năm, Bộ Công thương cho rằng, cần tận dụng mọi cơ hội cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, kiểm soát nhập khẩu vào Việt Nam và xử lý các vấn đề về lẩn tránh thuế, gian lận xuất xứ hàng hóa trong hoạt động xuất, nhập khẩu với thị trường Mỹ, Trung Quốc và cả các quốc gia khác. Bộ cũng khuyến cáo các doanh nghiệp cần tính toán kỹ lưỡng trong các giải pháp thúc đẩy đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất, xuất khẩu, tránh việc phát triển “quá đà”, dễ rơi vào tình trạng bị động, dư thừa sản lượng khi Mỹ và Trung Quốc đạt được thỏa thuận xuất khẩu trở lại.

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến cũng đề nghị các cơ quan, đơn vị, địa phương, doanh nghiệp và người sản xuất thủy sản tập trung triển khai một số nội dung trọng tâm. Cụ thể là đánh giá diễn biến thị trường, đề xuất giải pháp, kịp thời thông tin, tuyên truyền để người dân biết, có kế hoạch sản xuất phù hợp. Tăng cường kiểm soát dịch bệnh trên thủy sản nuôi và công tác kiểm dịch trong xuất nhập khẩu tôm nguyên liệu, tăng cường xây dựng, phát triển vùng nuôi tôm an toàn dịch bệnh. Kiểm soát tốt chất lượng, ATTP thủy sản nguyên liệu; kiểm soát tạp chất, tồn dư hóa chất, kháng sinh trong sản phẩm tôm, góp phần đảm bảo uy tín của ngành tôm Việt Nam. Khuyến khích phát triển sản xuất thủy sản theo hướng liên kết chuỗi và áp dụng các hình thức nuôi có chứng nhận: VietGAP, GlobalGAP, ASC…

>> Theo Tổng Thư ký VASEP Trương Đình Hòeối với ngành hàng tôm, yêu cầu trước mắt lẫn dài hạn là phải tạo ra nguồn tôm sạch có chứng nhận với giá cạnh tranh. Cần sắp xếp lại vùng nuôi, tạo nên các trang trại, hợp tác xã nuôi quy mô lớn theo chuẩn nuôi quốc tế có chứng nhận. Yêu cầu dài hạn phải xây dựng cho được thương hiệu tôm Việt.

Thanh Hải

Nguồn :Thủy sản Việt Nam

Cà Mau: Cung ứng gần 4 triệu con giống tôm càng xanh toàn đực cho vùng lúa – tôm

(Thủy sản Việt Nam) – Năm 2019, Trung tâm Giống nông nghiệp Cà Mau đã cung ứng số lượng rất lớn giống tôm càng xanh toàn đực cho vùng nuôi tôm – lúa, đáp ứng đủ nhu cầu của người dân.

Cụ thể, năm qua, Trung tâm Giống nông nghiệp Cà Mau đã chủ động phối hợp với Trung tâm Giống thủy sản An Giang sản xuất, cung giống tôm càng xanh toàn đực có nguồn gốc từ Israel ra thị trường 3.689.000 Postlarva 12, tăng trên 300% so với năm 2018 (1.187.000 con).

Để có được kết quả này, ngay từ đầu năm, Trung tâm đã xây dựng 5 vệ tinh cung ứng tôm càng xanh toàn đực trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Mục tiêu nhằm giúp người dân dễ tiếp cận nguồn tôm giống chất lượng, truy xuất được nguồn gốc, góp phần nâng cao năng suất tôm nuôi và thu nhập của người nông dân trong mô hình lúa – tôm của tỉnh.

Thu hoạch tôm càng xanh tại huyện Thới Bình

Theo báo cáo của Sở NN&PTNT Cà Mau, năm 2019, diện tích sản xuất lúa – tôm toàn tỉnh là 37.436 ha; tập trung nhiều ở các huyện Thới Bình, U Minh, Trần Văn Thời… Đối tượng được lựa chọn thả xen ghép vào mô hình lúa – tôm chủ yếu là tôm sú, tôm thẻ, cá rô phi, tôm càng xanh, đặc biệt là tôm càng xanh toàn đực. Tại Thới Bình, trong những năm gần đây, con tôm càng xanh toàn đực được người nông dân trên địa bàn huyện ưu tiên lựa chọn xen canh với lúa vì ít dịch bệnh, ít rủi ro hơn tôm sú, tôm thẻ, phù hợp với các hộ nông dân không có vốn đầu tư lớn. Sau 6 tháng nuôi, tôm đạt trọng lượng 15 – 20 con/kg, năng suất từ 300 – 400 kg/ha, mang về nguồn thu bình quân 40 – 50 triệu đồng/ha/năm.

Hồ Hoàng Thi
Nguồn :Thủy sản Việt Nam

Nông dân vùng chuyển đổi: Trúng mùa lúa, được mùa tôm

Hiện nay, nông dân trong vùng chuyển đổi tôm – lúa trên địa bàn tỉnh đang thu hoạch lúa để cải tạo đất chuẩn bị thả giống vụ tôm chính trong năm. Năm nay, thời tiết thuận lợi, lúa trúng mùa lại bán được giá cao, còn tôm càng xanh nuôi xen canh cũng đạt đầu con, lớn nhanh, nên niềm vui của bà con được nhân lên.

Nông dân xã Ninh Thạnh Lợi (huyện Hồng Dân) tháo nước để chuẩn bị thu hoạch lúa.

Theo Phòng NN&PTNT huyện Hồng Dân, vụ lúa mùa năm nay toàn huyện xuống giống được 23.500ha, với các giống lúa như: OM 4900, OM 5451, OM 2517, Một bụi đỏ… Nông dân đang bước vào chính vụ thu hoạch lúa để chuẩn bị cải tạo lại đất, lấy nước mặn để nuôi vụ tôm mới. Năng suất lúa từ 5,5 – 6 tấn/ha. Giá lúa tươi được thương lái thu mua tại chỗ từ 5.500 – 5.800 đồng/kg (tùy loại lúa). Sau khi trừ chi phí, bà con lãi hơn 2,3 triệu đồng/công.

Ông Nguyễn Văn Đức (xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân) chia sẻ: “Năm nay, nhờ mưa nhiều nên nông dân có điều kiện rửa mặn tốt, từ đó lúa trúng mùa, có hộ đạt hơn 6 tấn/ha. Bà con đang cải tạo đất để kịp thời thả giống vụ tôm theo khuyến cáo của cán bộ kỹ thuật nông nghiệp.

Những năm gần đây, do chủ động trong việc chọn mua tôm giống thích ứng với điều kiện sống trong môi trường nước ngọt nên nông dân trong vùng chuyển đổi đã thả xen canh thêm tôm càng xanh, tôm sú, tôm thẻ chân trắng… Qua đó, giúp bà con tăng thêm thu nhập trên cùng một diện tích canh tác.

Ở huyện Phước Long, nông dân cũng đang tập trung thu hoạch lúa mùa để chuẩn bị nuôi lại vụ tôm. Vụ lúa trên đất tôm năm nay, huyện Phước Long xuống giống 13.500ha, tập trung chủ yếu ở các xã Phước Long, Vĩnh Phú Tây, thị trấn Phước Long. Trước khi bước vào thu hoạch lúa, bà con đã tháo nước ra khỏi ruộng để thuận tiện cho máy gặt đập liên hợp vào thu hoạch, vừa thuận tiện trong việc thu hoạch tôm nuôi trong ruộng lúa.

Ông Lý Thanh Tuấn (xã Vĩnh Phú Tây, huyện Phước Long) cải tạo bờ bao để chuẩn bị xuống giống vụ tôm sau khi thu hoạch lúa. Ảnh: C.L

Ông Lý Thanh Tuấn (xã Vĩnh Phú Tây, huyện Phước Long) phấn khởi: “Thu hoạch xong vụ tôm càng xanh nuôi xen canh trong ruộng lúa là tôi thu đủ chi phí đầu tư cho 2ha lúa – tôm (từ đầu vụ cho đến nay). Giờ đây, coi như tôi lãi ròng vụ lúa, không phải lo lắng nữa. Mấy hôm nay, nhiều thương lái đến hỏi mua lúa nhưng tôi chưa nhận đặt cọc. Đợi khi nào giá lúa lên tôi sẽ bán”.

Theo nông dân trong vùng chuyển đổi tôm – lúa, từ khi chuyển sang sản xuất theo mô hình tôm – lúa, đây là năm lúa cho năng suất cao nhất. Bên cạnh yếu tố thời tiết thuận lợi, việc đầu tư hệ thống thủy lợi, ứng dụng khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, ý thức tuân thủ lịch thời vụ của người dân cũng là những yếu tố chính giúp vụ lúa năm nay đạt năng suất cao.

Ông Nguyễn Trung Hiếu, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Hồng Dân, cho biết: “Năm nay, vụ lúa trên đất tôm của bà con trên địa bàn huyện khá thuận lợi. Đơn vị đang hướng dẫn nông dân thu hoạch dứt điểm sớm vụ lúa để cải tạo đất chuẩn bị xuống giống vụ tôm nuôi cho kịp thời vụ. Năm nay, do cảnh báo sẽ có hạn, mặn xảy ra sớm nên Phòng NN&PTNT huyện tăng cường mở các lớp tập huấn, hướng dẫn, hỗ trợ kỹ thuật để giúp bà con có một vụ mùa thành công”.

Chí Linh

Nguồn : http://www.baobaclieu.vn/

Ba công nghệ nuôi tôm nổi bật năm 2019: Chất lượng tốt, hiệu quả cao

Mạnh dạn thay đổi cách làm mới, đầu tư vào công nghệ mới đang mang đến những thay đổi tích cực đối với hoạt động nuôi tôm của bà con nông dân Việt.

Theo xu thế phát triển nhanh chóng của ngành nuôi tôm nói riêng và ngành nuôi trồng thủy sản trên thế giới nói chung, mô hình nuôi ao đất truyền thống tại Việt Nam bộc lộ nhiều điểm yếu kém và không còn phù hợp. Theo đánh giá chung của người nuôi tôm, nuôi tôm ao đất không được thuận lợi như trước, rất khó thành công.

Nguyên nhân lý giải đó là qua các vụ nuôi, trầm tích tích tụ trong ao nhiều, thời tiết diễn biến thất thường kết hợp với việc xử lý môi trường nước nuôi chưa triệt tạo ra cơ hội thuận lợi cho các mầm bệnh xâm nhập vào ao nuôi tôm. Đặc biệt, hai dịch bệnh nghiêm trọng và phổ biến nhất trên tôm nuôi là hoại tử gan cấp tính và bệnh đốm trắng thường gây ra những thiệt hại lớn cho ao tôm.

Nhận thấy những bất cập còn tồn tại, những năm gần đây, theo chủ chương đổi mới phương pháp nuôi trồng, áp dụng công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động nuôi tôm, nhiều hộ nuôi trên cả nước tiếp thu và mạnh dạn ứng dụng, đầu tư. Nổi bật nhất là ba công nghệ: Micro-nano Oxygen, Semi Biofloc và công nghệ CPF Combine mang đến kết quả ấn tượng.

CÔNG NGHỆ SEMI BIOFLOC – TIẾT KIỆM CHI PHÍ

Nuôi tôm theo công nghệ sinh học Semi Biofloc là sử dụng các hạt biofloc phức hợp, có giá trị dinh dưỡng cao để làm thức ăn cho cả tôm con và tôm trưởng thành. Từ đó lượng thức ăn sử dụng cho tôm nuôi công nghệ này có thể giảm tới 30% và đồng thời tiết kiệm được rất nhiều chi phí khác (như điện, nước, thời gian, thuốc thú y,..).

Nuôi tôm sạch, an toàn theo công nghệ Semi Biofloc

Công nghệ Semi Biofloc đã có mặt tại Việt Nam từ nhiều năm trước, nhờ vào tính khả thi và hiệu quả được kiểm chứng tại các ao nuôi thực tế mà trong năm 2019, phạm vi và diện tích ứng dụng công nghệ ngày càng trở nên rộng rãi, phổ biến.

Tại tỉnh Khánh Hòa, theo Chi cục Thủy sản, hiện trên địa bàn tỉnh có một số cơ sở nuôi tôm thẻ chân trắng đã đầu tư cơ sở vật chất và ứng dụng nuôi theo công nghệ Semi Biofloc. Người nuôi tôm tại đây cho hay, để ứng dụng công nghệ này, các ao đều phải lót bạt nền đáy và bờ ao; có hố thu chất thải, kết hợp với hệ thống xi phông tự động. Mô hình có thể nuôi được 3 – 4 vụ/ năm theo hình thức nuôi 3 pha.

Ở pha 1, ương nuôi tôm giống trên bể nổi có lưới lan áp dụng theo công nghệ Biofloc. Tiếp đến pha 2 (sau 20 ngày nuôi), toàn bộ tôm ương được chuyển xuống ao nuôi ngoài trời, áp dụng công nghệ Semi Biofloc. Tại pha 2, tôm sẽ được nuôi 30  ngày đến khi đạt kích cỡ 200 con/ kg, mật độ 500 con/ m2 trước khi chuyển sang pha 3. Cuối cùng là pha 3, mật độ nuôi sẽ được giảm xuống một nửa, mỗi ao sẽ chỉ thả từ 200 – 250 con/ m2 để nuôi tôm đến khi đạt kích cỡ thu hoạch.

Với công nghệ Biofloc, người nuôi tôm giảm được nỗi lo tôm mắc bệnh do khả năng duy trì chất lượng môi trường nước tốt, hạn chế hạn chế mầm bệnh, từ đó giúp không chỉ nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế mà còn tạo ra sản phẩm đảm bảo an toàn thực phẩm (ATTP) phục vụ cho người tiêu dùng trong nước và chế biến xuất khẩu.

Trên thị trường, đầu ra của con tôm nuôi Semi Biofloc cũng rất tiềm năng và giá cả cũng luôn được duy trì ở mức ổn định hơn. Các cơ quan chức năng nhận định công nghệ Semi Biofloc sẽ tiếp tục được nhân rộng trong năm 2020.

CÔNG NGHỆ MỚI MICRO – NANO OXYGEN – KẾT QUẢ KHẢ QUAN

Trước thực trạng nghề nuôi tôm ở Việt Nam chủ yếu vẫn mang tính tự phát, quy mô nhỏ lẻ, người dân chưa nắm rõ được kỹ thuật,.. dẫn đến tình trạng tôm nuôi thường hay bị nhiễm bệnh và tiềm ẩn nhiều rủi ro, công ty QNTEK đã tạo ra một chương trình nghiên cứu riêng và phát triển công nghệ Mico – Nano Oxygen mới, lần đầu tiên được ứng dụng tại Việt Nam.

Công nghệ Micro – Nano Oxygen đảm bảo nuôi tôm sạch

Công nghệ Mico – Nano Oxygen được triển khai cuối năm 2018 tại các vùng nuôi tôm tỉnh Quảng Nam và bước đầu thu hoạch được kết quả khả quan. Công nghệ được đánh giá tích cực trong vấn đề xử lý môi trường, đặc biệt là xử lý nước thải. Nước sau khi được xử lý qua Micro – Nano Oxygen đảm bảo sạch, giàu oxy và có khả năng ứng dụng vào rất nhiều lĩnh vực khác nhau.

Ông Trần Bá Cương, giám đốc kỹ thuật của QNTEK, trực tiếp triển khai chương trình nghiên cứu cho biết, máy Micro – Nano Oxygen tạo ra rất nhiều oxy,  tôm được nuôi trong nguồn nước giàu oxy sẽ làm cho các vi khuẩn gây bệnh đường ruột chết đi đồng thời làm cho men tiêu hóa trong ruột chúng hoạt động mạnh hơn, chất dinh dưỡng trong thức ăn được hấp thu nhanh hơn, tốt hơn nên mau lớn và có sức đề kháng tốt.

Đồng thời, khi nước trong ao nuôi được xử lý hiệu quả, có nhiều oxy thì các vi khuẩn có hại trong nước sẽ giảm đáng kể. Do đó, người nuôi có thể hạn chế được việc sử dụng kháng sinh, giúp giảm chi phí đảm yếu tố an toàn sinh học cho con tôm. Bên cạnh đó, trong mô hình này còn sử dụng thêm các loại khoáng vi sinh dược liệu như đinh lăng, tỏi, ổi để tăng cường khả năng kháng thể tự nhiên, giúp tôm hấp thụ và tiêu hóa tốt thức ăn.

Được biết, với công nghệ này, chi phí đầu tư cho mỗi hạ tầng nuôi tôm hết khoảng 6 tỷ đồng. So với cách nuôi truyền thống thì tương đối cao nhưng bù lại chi phí nuôi ít hơn. Nếu như bình thường, người nuôi sẽ mất từ 70.000 – 75.000 đồng chi phí cho 1kg tôm thương phẩm thì công nghệ này chỉ mất khoảng 60.000 đồng/ kg. Bên cạnh đó, nuôi tôm sạch không sử dụng kháng sinh nên giá bán cũng cao hơn từ 20.000 – 30.000 đồng/ kg.

Mô hình thực hiện tương đối hiệu quả vì mới trong thời gian bắt đầu. Để nâng cao hiệu quả thì ngoài công nghệ cần phải trang bị kỹ thuật nuôi tôm. Trong thời gian tới, phía QNTEK sẽ tiếp tục mở rộng, triển khai mô hình tới bà con nông dân.

CÔNG NGHỆ CPF – COMBINE – NĂNG SUẤT CAO, ĐẢM BẢO AN TOÀN.

Đây là mô hình nuôi tôm công nghệ cao được chuyển gia từ Công ty Cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam. Nhờ hiệu quả tốt, trong năm 2019 mô hình được phát triển rộng khắp các vùng nuôi tôm trên cả nước như Quảng Ninh, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang,…

Mô hình ao ương CPF – Green house

CPF – Combine là sự kết hợp giữa mô hình nhà ương CPF – Green House và mô hình ao nuôi CPF – Turbo Program. Giai đoạn đầu, tôm giống sẽ được nuôi trong nhà ương khoảng 25 – 30 ngày đến khi có sức khỏe tốt, tỷ lệ sống cao mới được chuyển qua ao nuôi. Tôm được tiếp tục nuôi trong ao nuôi với khoảng thời gian 2 tháng để sẽ đạt kích cỡ từ 25 – 40 con/ kg.

Áp dụng thành công mô hình nuôi công nghệ cao CPF – Combine, các hộ nuôi tôm sẽ giảm bớt được sự tác động của thời tiết trong giai đoạn tôm còn nhỏ, giảm được các bệnh cho tôm trong quá trình nuôi, chủ động được thời gian thả nuôi. Nhiệt độ với môi trường không quá chênh lệch, giúp người nuôi ít lệ thuộc vào thời tiết mùa vụ như phương pháp nuôi trồng truyền thống. Tỷ lệ sống và năng suất tôm cao hơn hẳn.

Theo thống kê, nuôi trong mô hình ao đất truyền thống với diện tích mặt nước nuôi từ 3000 – 4000 m2, năng suất bình quân đạt từ 5 – 6 tấn tôm/ vụ. Trong khi đó, với mô hình CPF – Combine, ao nuôi nhỏ từ 1000 – 1200m2 mặt nước nuôi đã cho năng suất bình quân từ 6 – 10 tấn tôm/vụ.

Ứng dụng theo công nghệ nuôi CPF – Combine, chủ yếu ứng dụng các thiết bị máy móc trong quá trình kiểm tra, chăm sóc nên mật độ nuôi cao hơn. So với mật độ nuôi thông thường từ 70 – 100 con/ m2 thì nuôi 2 giai đoạn bằng công nghệ CPF – Combine cho phép tăng mật độ từ 200 – 400 con/ m2. Tôm được cho ăn bằng máy, các tiêu chuẩn ao nuôi được kiểm tra mỗi ngày: độ pH, độ cứng, calci,…Bên cạnh việc tuân thủ kỹ thuật nuôi, ngay từ khâu đầu vào như con giống, thức ăn phải đảm bảo có nguồn gốc an toàn.

Đặc biệt, trong suốt quá trình nuôi, người nuôi hoàn toàn không sử dụng các loại hóa chất kháng sinh. Đến giai đoạn thu hoạch, trước khi xuất bán, con tôm sẽ được kiểm tra tiêu chuẩn về an toàn, chất lượng.

Hiện nay, CPF – Combine được nhân rộng tại nhiều địa phương: tại Bến Tre, toàn tỉnh hiện có hơn 150ha nuôi tôm công nghệ này, tại Bạc Liêu, nhiều hộ nuôi đã chuyển từ nuôi tôm ao đất sang nuôi tôm lót bạt CPF – Combine nhờ tính hiệu quả, bền vững.

Thảo Thảo

Semi Biofloc, Mico – Nano Oxygen, CPF – Combine – ba công nghệ nổi bật được ứng dụng rộng rãi trong hoạt động nuôi tôm năm 2019 cùng với nhiều mô hình – công nghệ hiện đại tiên tiến khác vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu và đưa vào hoạt động nuôi trồng sẽ là nền tảng vững chãi đưa ngành tôm Việt phát triển bền vững nhất.

Nguồn :Tạp chí Người Nuôi Tôm

Bắt tôm càng

(CMO) Đầu tháng Chạp, về huyện Thới Bình, cứ cách mấy căn nhà là thấy chiếc vỏ lãi đậu dưới mé sông đợi cân tôm càng. Trên bờ, chị em phụ nữ nhanh tay dội nước rửa, phân loại từng thùng tôm các anh xách dưới ruộng lên để cho vào bồn ô xy. Lâu lâu cái máy chạy ô xy trở chứng, tắt ngang là mấy chị nháo nhào, gọi ơi ới, các anh đang lội sình bắt tôm phải nghỉ tay, sửa máy cho tôm thở.

Thấy miếng ruộng đang tập trung đông người nhất, ghé đại vào nhà anh Út Thương (Lê Văn Thương, ấp Phủ Thờ, xã Trí Lực, huyện Thới Bình), thấy có hơn chục người đang lội dưới ruộng để thu hoạch tôm càng xanh. Toàn là anh em ruột, bạn dì, cột chèo và hàng xóm, mỗi người một tay phụ chủ nhà chứ không cần thuê thêm ai. Mấy đứa con nít 9, 10 tuổi thấy ham cũng lội xuống ruộng bắt tôm càng. Sình lún tới lưng quần, có đứa một tay bắt tôm, một tay cầm dây thun quần cho “chắc ăn”.

Thới Bình trở thành “thủ phủ” tôm càng xanh với diện tích hơn 16.500 ha.

Anh Hai, anh Thương thì chịu trách nhiệm cầm máy bơm, đi dọc theo đường kênh dưới ruộng quậy bùn cho tôm càng mệt, bơi lên mé “nằm thở”. Những người còn lại chỉ việc “quơ tay” là dính cả chục con bỏ vô thùng xốp. Sình văng đầy mặt, cả người phía trước cũng vậy, chỉ có nửa cái lưng phía sau là khô ráo, mà không có ai nghĩ đến việc lau cho sạch làm gì. Có mấy đứa nhỏ lâu lâu la lên vì bị tôm càng kẹp, mà có đứa nào khóc đâu, còn khoái chí cười ra rả. Anh Út Thương chịu phần xách giỏ chạy tới lui chuyển tôm từ dưới ruộng lên bờ cho nhanh để tôm không bị ngộp.

Chị Út với mấy chị em bạn dâu cũng đang bận tay phân loại tôm. Thấy ai cũng luýnh quýnh nên đành hỏi chuyện ba của anh Út. Ông đi tới đi lui nhìn con cháu “lên tôm”, miệng mỉm mỉm: “Cho nó 10 công đất, nhờ chịu khó làm ăn, mỗi năm tính 1 vụ lúa, 1 vụ tôm càng, tôm sú, cua được gần 200 triệu đồng. Thả tôm càng xanh hồi tháng 6 năm nay, đây là vụ thứ hai rồi. Mới tát nước, gặt lúa xong 5 bữa trước là hôm nay thu hoạch tôm càng. Thả 25 ngàn con, loại tôm càng xanh toàn đực tới 290 đồng/con, tính ra hơn 7 triệu đồng tiền con giống. Mấy ngày nay nghe nói hợp đồng với lái cân tôm được giá 135 ngàn đồng/kg. Thấy thả đạt đầu con mà không biết bán xong được bao nhiêu, chứ năm trước lên tôm được gần 30 triệu đồng”.

Thương lái tới là lúc các anh vừa bắt tôm xong. Cái cân được đặt ở nơi khô ráo nhất, bà chủ lái tôm ngồi đối diện để ghi chép số ký, đại diện chủ nhà ngồi kế bên cũng “biên” lại trong cuốn sổ riêng. Lúc này, không ai kỳ kèo giá cả nữa, mà chỉ nhắc mấy đứa nhỏ cân xong lẹ tay chuyển tôm xuống vỏ cho thở ô xy. Cộng lại, hai tờ biên lai số “y chang”, không sai trăm gram nào, được 300 kg, gần 46 triệu đồng. Tiếng cười nói bắt đầu xôm tụ hơn, rồi tính tới chuyện mua thịt heo, vài cặp dưa hấu, hay thêm vài ký khô để đãi khách… Nghe mộc mạc vậy mà vang cả một khúc sông bên dòng kênh Chắc Băng./.

Sau khi bắt lên, phân loại, tôm càng nhanh chóng được cho vào bồn ô xy để đảm bảo luôn tươi sống.
Cân xong, tôm càng lập tức được vận chuyển xuống vỏ lãi có sẵn bồn ô xy.
Tôm càng xanh, loại thuỷ sản phổ biến, giá trị dinh dưỡng cao và có thể chế biến thành nhiều món ăn hấp dẫn.

Thảo Mơ

Nguồn : Báo Cà Mau

Hà Tĩnh: Ra biển kéo trúng loài tôm bạc, bán 400 ngàn đồng/kg

Hơn hai tháng nay, bà con ngư dân Xuân Yên (Nghi Xuân – Hà Tĩnh) hết sức phấn khởi vì thường xuyên “trúng” tôm bạc.

Những ngày này, sáng sớm là bà con ngư dân Xuân Yên lại chuẩn bị ngư lưới cụ ra biển khai thác tôm bạc. Nghề này, các tàu thuyền chỉ cần đi xa bờ chừng 1 – 2 hải lý. Buổi sáng buông lưới, buổi trưa trở về, bình quân mỗi tàu khai thác từ 6 – 7 kg tôm bạc, mang lại giá trị kinh tế cao.

Tôm bạc khi đưa lên bờ tươi xanh được các thương lái ưu chuộng.

Ngư dân Trần Văn Thực (thôn Yên Ngư, xã Xuân Yên) trở về trên con tàu 24 CV mang đầy ắp hải sản các loại, vui vẻ cho biết: “Tôm bạc xuất hiện bắt đầu từ tháng 10 cho đến nay, ngư trường khá dồi dào nên nhiều ngư dân chịu khó bám biển. Chuyến đi này, ngoài tôm tít, cá cháo, ghẹ… thuyền tôi may mắn kiếm được gần 8 kg tôm bạc.

Tôm bạc bán được giá cao, mỗi kg từ 380 – 400 nghìn đồng tùy theo kích cỡ. Chỉ tính riêng tôm bạc, chuyến đi này tôi thu được gần 3 triệu đồng”.

Tôm bạc được bán với giá cao, mỗi kg từ 380 – 400 nghìn đồng.

Ngư dân Lê Văn Việt (thôn Yên Hải) mới đầu tư nâng cấp con thuyền trị giá hơn 30 triệu đồng để khai thác tôm bạc. Đây là chuyến “mở hàng” trên con thuyền mới của vợ chồng ông.

Ông Việt cho biết: “Khai thác tôm bạc cũng có phần vất vả bởi khi sóng lớn mới đánh bắt được nhiều hơn. Các thuyền thường dùng lưới rê 3 lớp để đánh bắt, nhưng cũng rất dễ rối và rách. Đổi lại, mỗi chuyến ra khơi, ngư dân có thể thu lợi 2 – 3 triệu đồng nên chúng tôi vẫn mạnh dạn đầu tư tàu thuyền, ngư lưới cụ”.

Đắt giá, nhưng tôm bạc rất dễ tiêu thụ.

Dù tôm bạc có giá cao nhưng dễ tiêu thụ bởi “tôm sạch tự nhiên”. Vì thế, các thương lái phải xuống tận mép nước để “săn” mặt hàng này.

Chị Nguyễn Thị Hương – một thương lái ở thị trấn Nghi Xuân cho hay: “Các món ăn được chế biến từ tôm bạc tươi sống có chất lượng khác hẳn tôm nuôi nên được các khách hàng yêu thích. Vài ngày gần đây, sản lượng tôm bạc khá nhiều nên mỗi ngày tôi cũng mua được vài yến tôm về nhập cho các nhà hàng, khách sạn trong tỉnh”.

Sau gần một buổi sáng đánh bắt, các tàu khai thác trở về với sản lượng từ 5 – 7 kg tôm bạc.

Theo Tổ trưởng tổ đồng quản lý nghề cá ven bờ xã Xuân Yên Nguyễn Văn Mạnh: “Toàn xã có gần 30 tàu thuyền đánh bắt tôm bạc. Mùa khai thác tôm bạc bắt đầu từ khoảng tháng 10 cho đến tháng 2 năm sau. Đánh bắt tôm bạc ở Xuân Yên có hiệu quả nhất, chỉ 2 tháng gần đây, nhiều tàu cho thu nhập khá cao, thậm chí từ 4 – 5 triệu đồng mỗi ngày”.

Ngư dân Xuân Yên (Nghi Xuân) chuẩn bị ngư lưới cụ khai thác tôm bạc.

Theo Hữu Trung (Báo Hà Tĩnh)