Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Các loại tôm

Nuôi tôm trái phép trong vùng trồng lúa, nông dân xung đột lợi ích

Vuông tôm
Một vuông tôm công nghệ cao trong mênh mông đồng lúa.

Hàng loạt ao tôm mọc lên trong khu vực được quy hoạch trồng lúa khiến nông dân xung đột quyền lợi kéo dài nhiều năm nay không dứt.

Ông Nguyễn Tuấn Nhã – Phó Chủ tịch UBND xã Long Hựu Đông (huyện Cần Đước, Long An) cho biết, đang giải quyết một vụ nông dân trồng lúa khiếu kiện nông dân nuôi tôm trên địa bàn.

Trong ruộng lúa có ao tôm

“Một nông dân trồng khoảng 1ha lúa đã khiếu kiện ao tôm cạnh bên để nước mặn rỉ vào ruộng lúa. Nuôi tôm lâu ngày nước mặn sẽ tích tụ dưới đáy ao. Chủ vuông tôm hứa vào mùa khô sẽ cho nạo vét phần đất đáy ao nhằm xả mặn”, ông Nhã thông tin.


Ông Ba Lập kiểm tra tôm nuôi

Tại xã Long Hựu Đông, việc nông dân trồng lúa khiếu kiện nông dân nuôi tôm diễn ra nhiều năm nay. Bởi, cặp theo con đê ngăn mặn trên địa bàn xã, phần phía trong quy hoạch trồng lúa, ao tôm mọc nối nhau.

Tại ấp Kênh Đào có khoảng 15ha đang nuôi tôm xen kẽ giữa những cánh đồng lúa.

Ông Ba Lập (Nguyễn Thành Lập), một nông dân đang nuôi 3.000m2 ao tôm cho biết, mỗi lần ông lấy nước mặn từ sông Vàm Cỏ vào ao là nông dân trồng lúa cạnh bên la toáng lên. “Họ cự với mình suốt”, ông thổ lộ.

Vừa rồi, do bất cẩn khi đưa nước mặn vào ao tôm, ông đã để nước mặn rỉ vào ruộng lúa cạnh bên khiến phải bồi thường cả ruộng lúa.

“Trước tôi cũng trồng lúa, nhưng vì đất ở đây là đất phèn, mặn nên năng suất lúa rất thấp, cao lắm là 5 tấn/ha, nên tôi chuyển sang nuôi tôm”, ông bộc bạch.

Cạnh bên, tại xã Phước Đông, tình hình đào ao nuôi tôm trong vùng quy hoạch trồng lúa cũng khá rôm rả. Hiện, xã này có hơn 15ha ao tôm giữa vùng quy hoạch trồng lúa.


Một ruộng lúa bỏ hoang cạnh một vuông tôm đang nuôi

Tại ấp 6, giữa đồng ruộng lúa xanh um, giờ mọc lên khoảng chục ao tôm của 3 hộ nông dân. Ông Mỹ, một trong 3 hộ nông dân này cho biết, 2 năm trước ông cho đào 2 ao với tổng diện tích 4.000m2 để nuôi tôm công nghệ cao. “Qua năm, tôi sẽ cho hạ điện cao thế để thuận tiện cho việc nuôi tôm”, ông Mỹ cho biết.

Theo ông Mỹ, tại xã đã có một số hộ nuôi tôm phải đền bù thiệt hại cho người trồng lúa khi để nước mặn rỉ vào ruộng lúa. “Có hộ nuôi tôm phải đền bù thiệt hại lúa đến 5 năm”, ông Mỹ thông tin.

Tự xử…

Theo ông Mười Đặng (Nguyễn Đặng), một nông dân có 3 ao tôm với diện tích 8.000m2, việc không để nước mặn từ ao tôm cạnh ruộng lúa là bất khả thi, nhất là vào những tháng mùa khô.

“Vào tháng nắng, bờ bao, mặt ao đều nứt nẻ, khi lấy nước mặn vào ao để nuôi tôm, không cách gì để ngăn nước mặn không rỉ vào ruộng lúa người khác”, ông Mười Đặng chia sẻ.


Vuông tôm san sát trong khu trồng lúa tại các xã vùng hạ Long An.

Nhằm giải bài toán này, tránh bị thưa kiện phải “treo ao”, ông Mười Đặng thuê luôn những ruộng lúa xung quanh ao tôm mình. “Mỗi năm tôi tốn bộn tiền thuê đất, nhưng như vậy an tâm nuôi tôm hơn. Không sợ ai thưa kiện”, ông Mười Đặng nói.

Theo nhiều nông dân trồng lúa tại đây, chưa chủ vuông tôm nào bị chính quyền phạt vì nuôi tôm sai phép. Chủ vuông tôm chỉ sợ phải bồi thường cho chủ ruộng lúa. “Lúc đầu nông dân trồng lúa cự lắm, chủ vuông tôm đã chơi chiêu… thuê luôn đất ruộng kề bên. Một năm vài ba triệu đồng tùy diện tích lớn nhỏ. Nhiều ruộng lúa giờ bỏ hoang cũng vì thế. Tuy nhiên, cũng có chủ vuông tôm cứ phải bồi thường mãi đành “treo” ao luôn”, một chủ ruộng lúa cho biết.

Ngoài việc đưa nước mặn vào ruộng nuôi tôm thì một số hộ đào ao giữa ruộng lúa qua quá trình xử lý các hóa chất, gây xì phèn ảnh hưởng đến ruộng lúa xung quanh, dẫn đến tình trạng tranh chấp, khiếu kiện giữa các nông dân.

Theo ông Nhã, chính quyền xã đã vận động nông dân, không cho nuôi tôm trong đất lúa. Yêu cầu chủ vuông tôm cam kết, thống nhất nếu khi nuôi tôm gây ảnh hưởng sẽ bồi thường thiệt hại cho hộ trồng lúa. “Các hộ nuôi tôm đã cam kết rồi”, ông Nhã khẳng định.

Không chỉ ở xã Long Hựu Đông, Phước Đông, mà các xã Tân Ân, Phước Tuy,…  vùng hạ tỉnh Long An có tình trạng đào ao nuôi tôm trong vùng quy hoạch trồng lúa, cũng dùng biện pháp “hai bên tự thương lượng” nếu xảy ra tình huống ruộng lúa bị thiệt hại vì nhiễm mặn từ nước ao tôm.

Trần Đáng Dân Việt

Chia sẻ của chuyên gia đi đầu trong lĩnh vực di truyền của tôm

Di truyền tôm
Nghiên cứu di truyền trên tôm là một công việc thú vị nhưng cũng gặp phải nhiều thách thức.

Chuyên gia Marcela Salazar, một trong những người đi tiên phong về việc nghiên cứu di truyền trên tôm đã nói về các chương trình nhân giống tôm cùng với thuận lợi và thử thách khi bà thực hiện.

Cảm hứng để đến với nghiên cứu di truyền trên tôm của chuyên gia

Bà là một bác sĩ y khoa đam mê nghiên cứu. Khi làm việc trong các dự án về việc kiểm tra tính tương hợp trong cấy ghép tủy xương, bà đã được tiếp cận sâu hơn với miễn dịch học. Sau đó, bà làm tại một cbà ty tiên phong về nghiên cứu sinh học phân tử  và theo bà một sự tình cờ đã đưa bà vào thế giới của tôm. Năm 1999, virus WSSV xuất hiện và gây hại cho tôm ở bờ biển Thái Bình Dương. Do đó, Trung tâm nghiên cứu nuôi trồng thủy sản ở Colombia đã yêu cầu công ty của bà thực hiện xét nghiệm PCR để chẩn đoán mầm bệnh để giúp ngăn ngừa và kiểm soát virus này. Bà theo suốt dự án từ lúc đầu và cũng từ đó bắt đầu suy nghĩ về một lĩnh vực mới cho bản thân mình.

Tác động để chuyên gia hiện thực hóa các chương trình nhân giống tôm

Bà tìm đến sự hỗ trợ của nhiều bộ phận khác nhau, từ những đội ngũ đang làm nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực có liên quan, để tiếp cận được với những cbà nghệ và cơ sở vật chất hiện đại. Bà tạo ra một sức mạnh tổng hợp giữa di truyền và dinh dưỡng. Họ cũng tìm được tiếng nói chung, cùng học hỏi kinh nghiệm từ các chương trình nhân giống khác.

Ở Colombia, phòng nghiên cứu của bà và các cộng sự gần như là cách ly với các cơ sở nuôi trồng khác trong nước. Khí hậu vô cùng thuận lợi cho sự phát triển của tôm thẻ chân trắng (P. vannamei). Họ có nhiều không gian để mở rộng và sản xuất số lượng tôm bố mẹ theo nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó là một phòng thí nghiệm được lập ra để thực hiện công việc nghiên cứu.

Những vấn đề mà chuyên gia đang tập trung nghiên cứu cũng như thành tựu đã đạt được

Phòng nghiên cứu của bà đã giới thiệu về những bộ gen tôm có khả năng kháng vius đốm trắng (WSSV) và hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND). Ưu tiên của bà là sản xuất những con tôm sạch, an toàn, không có mầm bệnh, có tiềm năng phát triển cao, nhưng phải chống lại được mầm bệnh và điều kiện môi trường khắc nghiệt.

Viện nghiên cứu đã đạt được một số thành tựu như đã mô tả được ảnh hưởng của việc tăng thân nhiệt của tôm trong nhiễm WSSV. Đồng thời cũng chỉ ra rằng những tế bào chết  trong cơ thể là một phần trong phản ứng chống lại virus của tôm. Hơn nửa viện nghiên cứu đã xác định được sự tỷ lệ ngược của giữa tăng trưởng và kháng WSSV ở tôm thẻ chân trắng và tự hào rằng đã sản xuất được dòng tôm khỏe mạnh với tốc độ tăng trưởng cao.

Cũng như các loài thủy sản khác, thị trường tôm bố mẹ cũng đang tăng trưởng đều đặn. Nổi bật là lượng tôm bố mẹ xuất khẩu từ Hawaii, quê hương của các chương trình nhân giống ở Mỹ tăng trưởng rõ rệt. Năm 2003 đạt gần 100.000 lên tới 800.000 trong năm 2015. Năm 2017, giá trị xuất khẩu đạt gần 30 triệu USD. Một số chương trình nhân giống ở Châu Á cũng phát triển tốt hằng năm.

Sự khác biệt giữa tôm SPR, SPF, SPT và APE

Tôm SPF là những con tôm được thử nghiệm và xác định là không có mầm bệnh. Theo hướng dẫn được thiết lập bởi USMFSP, tôm được thử nghiệm phải xuất phát từ một quần thể đã được kiểm tra âm tính với các mầm bệnh cụ thể trong ít nhất 24 tháng. Phải được nuôi trong các cơ sở có an toàn sinh học cao, tuân theo các biện pháp quản lý an toàn sinh học cùng với chương trình giám sát phù hợp sử dụng các xét nghiệm phân tử và mô bệnh học.

Tôm APE là thuật ngữ mô tả các con tôm nuôi trong ao hay bể , nơi chúng đã tiếp xúc với một hoặc nhiều mầm bệnh thông qua các thử nghiệm trong điều kiện nuôi cấy hoặc trong các môi trường nuôi khắc nghiệt. Thuật ngữ này cũng dễ gây hiểu lầm bởi vì tôm sẽ không bao giờ tiếp xúc với tất cả các mầm bệnh. Những con tôm này có thể mang mầm bệnh và có nguy cơ lây truyền.

Tôm SPR là dòng tôm kháng mầm bệnh cụ thể nào đó khác với SPT là khả năng chống chịu được một mầm bệnh nào đó. Kháng thể là khả năng chống lại mầm bệnh của tôm, chống lại vật lạ xâm nhập vào cơ thể chúng. Sức chịu đựng là giới hạn mà tôm có thể chịu được với mầm bệnh, hay nói cách khác là khả năng “sống chung với kẻ thù” của tôm. Hai loại phòng vệ trên có cả ở thực vật, động vật không xương sống và động vật có xương sống.

Một quan niệm sai lầm khi nói về kháng thể của tôm là một đặc điểm định tính và tôm có khả năng đề kháng hoặc mẫn cảm cao. Còn sức chịu đựng là một đặc điểm định lượng với nhiều mức độ khác nhau và chịu ảnh hưởng bởi môi trường. Nhưng trên thực tế cả hai đều là định tính và đều bị ảnh hưởng bởi môi trường. Do đó, khó phân biệt giữa dòng SPR và SPT

Những thách thứ mà ngành tôm phải vượt qua trong tương lai

Thách thức chính là làm sao có thể sản xuất một con tôm khỏe mạnh, tăng trưởng nhanh, không chỉ chống lại được mầm bệnh và còn có khả năng phục hồi trong điều kiện nuôi thương phẩm. Tuy nhiên môi trường biến động là một ảnh hưởng không nhỏ đối với các nhà nghiên cứu, chẳng hạn như nồng độ oxy thấp. Đặt ra một câu hỏi lớn là làm thế nào để tăng trưởng nhanh mà không làm tăng mức độ tử vong của tôm.

Hà Tử

Theo Rob Fletcher

 

Sự đa dạng vi sinh vật trong ruột tôm

Tôm thẻ chân trắng
Tôm có đường ruột nhạy cảm và dễ bị tổn thương.

Đường ruột của tôm có cấu tạo khá đơn giản nhưng là nơi nhạy cảm và dễ tổn thương nhất trên tôm. Các bệnh phổ biến thường gặp trên tôm hiện nay đa phần xuất phát từ đường ruột là chủ yếu như: đường ruột đứt khúc, phân trắng, viêm đường ruột…

Để ngăn chặn các mầm bệnh này, chúng ta cần hiểu rõ cấu tạo và phân loại các hệ vi sinh vật có trong đường ruột của tôm. Những tác nhân nào gây biến động hệ vi sinh vật ở đường ruột và làm sao để điều khiển được hệ vi khuẩn cộng sinh nhằm tăng khả năng kháng bệnh, tối ưu hóa tốc độ tăng trưởng và giảm chi phí thức ăn trong quá trình nuôi.

Nhằm giải đáp những vấn đề trên, Angela Landsman cùng các cộng sự ở Mỹ đã tiến hành nghiên cứu đánh giá  và làm rõ những vấn đề này qua các thí nghiệm và khảo sát của mình.

Phương pháp thí nghiệm

Thí nghiệm được thực hiện tại Balaton, MN của Mỹ, các mẫu tôm được lấy từ 3 môi trường khác nhau: môi trường tự nhiên, môi trường ao nuôi và môi trường được nuôi trong phòng thí nghiệm. Các chỉ tiêu môi trường của mẫu tôm ở phòng thí nghiệm và ao nuôi gần giống như nhau gồm:

+ Tổng mức nitơ amoniac (TAN) được duy trì ở mức dưới 3,0 mg / mL, nồng độ nitrite dưới 4,5 mg / mL và nồng độ nitrat nhỏ hơn 100 mg / mL

+ Độ mặn ở mức 28 ppt.

+ Mật độ thả 30 – 60 con /m3

+ Các hỗn hợp vi sinh có lợi như Pediococcus acidilacticiP. pentosaceus ,Lactobacillus plantarum và Bacillus subtilis được bổ sung hằng ngày.

Riêng ở tôm tự nhiên rất khó để xác định được các thông số cần thiết, vì vậy các mẫu tôm tự nhiên chỉ được sử dụng làm mẫu đối chứng do các thông số về độ tuổi, thức ăn gần như không chính xác.

Sau khi thu hoạch tiến hành loại bỏ các cơ quan và tách lấy ruột. Mẫu sẽ được đem đi chiết xuất DNA và phân tích PCR.

Kết quả thí nghiệm

Qua 699.259 lượt đọc và phân tích kết quả thí nghiệm các mẫu ruột tôm ở 3 môi trường sống cho thấy sự khác biệt lớn về số lượng vi sinh vật ở 3 môi trường. Trong đó chủng vi khuẩn được nuôi trong phòng thí nghiệm chiếm ưu thế hơn các môi trường còn lại như  ProteobacteriaBacteroidetesSaccharibacteria và vi khuẩn Actinobacteria. Nhưng riêng vi khuẩn VibrionaceaeFirmicutesFusobacteria và khuẩn lam được tìm thấy nhiều nhất ở mẫu tôm ao nuôi.


Các vi khuẩn được tìm thấy trong mẫu ruột tôm từ 3 loại môi trường.

Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ vi sinh vật ở ruột tôm rất phong phú, tôm được nuôi trong môi trường khác nhau thì các chủng loại vi khuẩn có trong ruột khác nhau. Bên cạnh đó các giai đoạn phát triển và nguồn thức ăn khác nhau cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hệ sinh thái này. Các yếu tố như điều kiện môi trường sống của tôm thay đổi, độ mặn, stress, phản ứng miễn dịch của tôm, thay đổi chế độ ăn uống hoặc tôm tiếp xúc với kháng sinh … cũng khiến vi khuẩn ở đường ruột tôm biến động và mất cân bằng.

Bằng cách phân tích PcoA và thống kê số lượng OTU, tác giả cũng chỉ ra rằng tôm được nuôi trong điều kiện phòng thí nghiệm có sự đồng nhất về số lượng hệ vi sinh vật trong đường ruột của tôm. Qua đó cho thấy quy trình nuôi ảnh hưởng rất lớn đến hệ vi sinh vật ở ruột tôm.

Khi hệ vi sinh vật trong ruột tôm bị mất cân bằng do các tác nhân tiêu cực có thể dẫn đến rối loạn sinh lý ở tôm, tạo điều kiện cho các vi khuẩn có hại gây bệnh phát triển mạnh, đặc biệt khi mà khuẩn Vibrio luôn tồn tại sẵn trong ruột tôm. Để hạn chế bệnh trên tôm do các vi khuẩn đường ruột gây ra, cần hiểu rõ nguyên nhân gây biến động và hệ vi sinh trong đường ruột tôm đang thiếu những chủng vi sinh nào, dựa vào đó để lựa chọn đúng những chủng vi sinh cần thiết để bổ sung.

Theo Angela Landsman và cộng sự.

YẾN QUYÊN Lược Dịch

Xây dựng mô hình nuôi tôm sú bền vững

Tôm sú
Tôm sú.

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở NN-PTNT tỉnh Quảng Ninh vừa tổ chức hội thảo đánh giá, nhân rộng mô hình nuôi tôm sú 2019.

Theo Tổng cục thủy sản, định hướng ngành thủy sản đến năm 2020 kinh tế thủy sản đóng góp 30 – 35% GDP trong khối nông – lâm – ngư nghiệp, tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành thủy sản từ 8 – 10%/năm. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 8 – 9 tỷ USD, tổng sản lượng thủy sản đạt 6,5 – 7 triệu tấn, trong đó nuôi trồng thủy sản chiếm đến 70% tổng sản lượng.

Nuôi trồng thủy sản nước lợ tiếp tục phát triển mạnh đối với các sản phẩm chủ lực theo nhu cầu thị trường, phù hợp với điều kiện sinh thái, phục vụ XK. Cụ thể, tôm nước lợ đang được nuôi tại 30 tỉnh thành và trở thành sản phẩm hàng hóa ở nước ta gồm 2 loài: Tôm sú và tôm chân trắng. Tôm sú bắt đầu được sản xuất nhân tạo và nuôi tại Việt Nam từ những năm đầu của thập niên 80, thế kỷ 20 gắn với nghề nuôi thương phẩm phát triển.

Tại hội thảo, đại diện các đơn vị đã có những đánh giá sát thực và rõ nét về hiệu quả các dự án nuôi tôm sú, từ đó đưa ra kinh nghiệm, phương án cho các địa phương đưa ra phương án nhân rộng mô hình nuôi.

Hiện hình thức nuôi tôm sú chính trên cả nước được người dân áp dụng, bao gồm: Nuôi thâm canh và bán thâm canh, nuôi quảng canh cải tiến, nuôi tôm sú kết hợp với diện tích trồng lúa. Đại diện doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản đã xin ý kiến khắc phục khó khăn, vướng mắc trong hình thức nuôi, kiểm soát đảm bảo quy hoạch vùng nuôi, kiểm soát con giống thả nuôi và hạn chế lạm dụng hóa chất trong chăn nuôi.

TS Bùi Quang Tề, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản 1 cho rằng: Người dân nuôi trồng thủy sản nên kiểm soát chặt chẽ dịch bệnh, không để dịch bệnh lây lan. Tuy nhiên, công việc này hết sức khó khăn, bởi người dân đang mất quá nhiều tiền bạc để đối phó với dịch bệnh mới.

“Quá trình thử nghiệm thuốc cần phải có thời gian và không được sử dụng tràn lan, gây lãng phí mà không hiệu quả. Chúng tôi đã ghi nhận sự ảnh hưởng của biến đổi khí hậu khiến xâm nhập mặn quá mức, kéo theo nhiều dịch bệnh mới mỗi năm”, ông Tề cho hay.

Theo ông Vương Văn Oanh, Chi cục phó Chi cục thủy sản tỉnh Quảng Ninh, đối với địa phương này, nuôi trồng thủy sản đã có bước phát triển theo chiều sâu, chuyển dịch dần từ diện tích nuôi quảng canh cải tiến sang nuôi bán thâm canh, thâm canh và siêu thâm canh. Tỷ lệ diện tích nuôi bán thâm canh, thâm canh, siêu thâm canh chiếm khoảng 30% diện tích. Cơ sở hạ tầng vùng sản xuất và nuôi trồng thủy sản tập trung trọng tâm, trọng điểm đã được quan tâm đầu tư.

“Có thể kể đến các dự án lớn như dự án Trung tâm sản xuất giống công nghệ cao và nuôi thực nghiệm giống hải sản tại huyện Đầm Hà quy mô 125ha, công suất khoảng 3,5 tỷ tôm giống. Tổng diện tích nuôi tôm đạt 10.821 ha (nuôi tôm thẻ chân trắng 4.671ha, tôm sú 6.150ha), trong đó diện tích nuôi tôm công nghiệp chiếm 5,83% so với diện tích nuôi tôm thâm canh của cả nước; sản lượng đạt 13.930 tấn. Địa phương tiếp tục xác định tôm nước lợ là đối tượng nuôi trồng chủ lực”, ông Oanh nói.

Định hướng phát triển diện tích nuôi tôm sú trên cả nước, giai đoạn 2021-2021 đạt trên 750.000 ha (nuôi tôm sú sinh thái, hữu cơ, quảng canh cải tiến, tôm lúa đạt 540.000ha; nuôi tôm sú bán thâm canh, thâm canh đạt 60.000ha; nuôi tôm thẻ chân trắng đạt 150.000ha). Trong đó vùng ĐBSCL chiếm 88% cả nước. Tổng sản lượng ước đạt 1.100.000 tấn.

Hội thảo là nơi trao đổi kinh nghiệm, thông tin giữa các nhà khoa học, cơ quan quản lý và cộng đồng doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức nuôi tôm sú. Đồng thời là cầu nối đề xuất các chính sách, giải pháp xây dựng và phát triển mô hình nuôi tôm sú bền vững.

ANH THẮNG Nông nghiệp Việt Nam

Mỹ đẩy mạnh xuất khẩu tôm hùm sang Việt Nam

Tôm hùm alaska
Tôm hùm là một trong những sản phẩm hải sản Mỹ được xuất khẩu chính sang Việt Nam

Ngành tôm hùm Mỹ đang tìm cách mở rộng thị trường xuất khẩu để bù đắp cho những thiệt hại của thị trường Trung Quốc và Việt Nam được xem là một trong những thị trường triển vọng của ngành hàng này.

Thông tin từ Hiệp hội thủy sản Việt Nam cho biết xuất khẩu tôm hùm Mỹ sang Trung Quốc giảm mạnh trong năm nay do thuế quan mới áp đặt, khiến hoạt động kinh doanh loài này chuyển hướng sang các thị trường khác.

Tính đến hết tháng 6/2019, Mỹ xuất khẩu chưa đến 2,2 triệu pound, tương đương 1 triệu kg tôm hùm sang Trung Quốc.

Trong khi đó, quốc gia này đã xuất khẩu gần 12 triệu pound trong cùng kì năm 2018. Như vậy, xuất khẩu tôm hùm Mỹ sang Trung Quốc trong 6 tháng đầu năm 2019 đã giảm hơn 80% so cùng kì.

Ngược lại, tại Canada, xuất khẩu tôm hùm sang Trung Quốc tính đến hết tháng 6/2019 đạt gần 33 triệu pound, gần bằng khối lượng xuất khẩu trong năm 2018. Giá trị xuất khẩu tôm hùm của Canada đạt gần 200 triệu USD tính đến hết tháng 6/2019 và gần như sẽ vượt xa tổng giá trị xuất khẩu 223 triệu USD trong năm 2018.

Tính đến hết tháng 6/2019, xuất khẩu của Mỹ ước tính dưới 19 triệu USD, giảm hơn 70 triệu USD so với cùng kì năm 2018.

Thực tế ngành tôm hùm Mỹ đang tìm cách mở rộng thị trường nội địa và thị trường quốc tế để bù đắp cho những thiệt hại của thị trường Trung Quốc.

Do đó, không chỉ tăng trưởng tại Canada, ngành tôm hùm Mỹ còn nhắm tới thị trường Việt Nam khi cho rằng nhu cầu của người Việt về hải sản cũng như tiềm năng ở thị trường Việt Nam đối với mặt hàng tôm hùm là rất lớn.

Theo số liệu của Tổng Lãnh Sự Quán Mỹ tại TP HCM, tôm hùm là một trong những sản phẩm hải sản Mỹ được xuất khẩu chính sang Việt Nam đạt giá trị xuất khẩu là 25 triệu USD trong năm 2018.

Để hải sản Mỹ và đặc biệt là tôm hùm Mỹ có thể tiếp cận nhiều hơn đến người tiêu dùng Việt Nam, Hiệp Hội Seafood Export USA – Northeast đã triển khai chiến lược “Thưởng thức tôm hùm Mỹ” và một trong những chuỗi nhà hàng lớn nhất tại Việt Nam là Redsun đã được lựa chọn trở thành đối tác độc quyền để giới thiệu sản phẩm này.

Theo đó, ngày 29/11, tại TP HCM, Tập đoàn ẩm thực Redsun ITI cùng Hiệp hội Xuất khẩu Hải sản Vùng Đông Bắc nước Mỹ, chính thức đưa tôm hùm Mỹ đến với người tiêu dùng Việt thông qua các hệ thống nhà hàng KING BBQ, TASAKI BBQ, MEIWEI.

Tôm hùm được giới thiệu tại các nhà hàng Việt Nam. Ảnh: Như Huỳnh.

Bà Marie Damour, Tổng Lãnh Sự Quán Mỹ tại TP HCM cho biết Tập đoàn Redsun tiếp tục nhập khẩu số lượng lớn thực phẩm và nông sản Mỹ. Chỉ tính riêng năm nay, Redsun đã nhập khẩu thịt bò và thịt gia cầm từ Mỹ với trị giá gần 6,5 triệu USD.

Việc thu mua các sản phẩm của Mỹ của Redsun không chỉ mang đến các loại thức phẩm chất lượng cho khách hàng mà còn giúp nông dân và chủ trang trại Mỹ và cụ thể với mặt hàng tôm hùm là giúp cho ngành đánh bắt và nuôi tôm hùm của Mỹ.

“Chúng tôi có thể chia sẻ loại hải sản tươi ngon này với người tiêu dùng trên khắp thế giới  bởi nguồn cung dồi dào và bền vững. Trên thực tế, luật pháp bảo vệ các nguồn tôm hùm như yêu cầu tôm hùm phải đạt đến một kích thước tối thiểu mới được khai thác và nghiêm  cấm bắt tôm hùm cái đang mang trứng.

Đây là một số trong những điều luật đầu tiên được thực thi ở bất kì đâu trên thế giới nhằm bảo vệ các nguồn thuỷ sản”, Tổng Lãnh Sự Quán Mỹ tại TP HCM cho hay.

Hiện lượng tôm hùm Mỹ xuất khẩu chủ yếu vào thị trường Liên minh châu Âu (EU), Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, còn Việt Nam chỉ nhập một lượng khá nhỏ trong các thị trường nói trên.

Tuy nhiên, sau khi Mỹ có xung đột thương mại với Trung Quốc, cùng với việc các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sang Việt Nam, lượng tôm hùm, hải sản của Mỹ về Việt Nam dự kiến sẽ gia tăng nhanh chóng.

Như Huỳnh Kinh tế tiêu dùng