Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Các loại tôm

Tôm hùm rớt giá dịp Tết, người nuôi lỗ tiền tỷ

Thịt heo, bò, gà đều tăng giá dịp Tết nhưng giá tôm hùm liên tục giảm khiến hàng trăm hộ dân ở Khánh

Đây là diễn biến bất thường bởi những năm trước, giá tôm luôn tăng vào dịp gần Tết. Chưa kể năm nay, các thực phẩm khác như thịt heo, bò, gà đều tăng mạnh.

Ba tháng trước, giá tôm hùm ở Khánh Hòa giao động từ 700.000 đồng đến 1,2 triệu/kg. Nhưng đến giữa tháng 12/2019, giá tôm liên tục giảm, chỉ còn 550.000 đến 1,1 triệu đồng/kg. Nhiều người không dám trữ hàng vì sợ lỗ thêm.

Tôm hùm rớt giá dịp Tết, người nuôi lỗ tiền tỷ
Tôm hùm ở Khánh Hòa liên tục rớt giá dịp cận Tết. Ảnh: A.Bình.

Theo các hộ nuôi tôm hùm xanh tại phường Cam Linh, TP Cam Ranh, có ngày giá tôm thương phẩm giảm từ 5.000 đến 10.000 đồng/kg.

“Nếu giữ nguyên giá như trong năm 2019 thì chúng yên tâm, còn nay giá rớt liên tục, nhiều người vì sợ lỗ nên đã bán tôm trong bè cho dù chưa đến tuổi”, ông Nguyễn Ngọc Thanh, người nuôi tôm ở Cam Ranh, nói.

Giá tôm xuống thấp trong khi tôm giống đắt đỏ, công thợ và thức ăn cũng tăng cao. Sau 8-9 tháng chăm sóc, hộ nuôi ít cũng lỗ vài trăm triệu, còn nhiều thì lên đến cả tỷ đồng.

Theo thống kê, trên địa bàn TP Cam Ranh có khoảng 45.000 ô lồng nuôi tôm hùm. Thời gian qua số hộ nuôi tôm tiếp tục tăng nhưng thu nhập từ nghề này không còn ổn định như trước.

Giá tôm hùm giảm khiến người nuôi lâm vào nợ nần. “Một trong những nguyên nhân giá tôm giảm là do chính sách siết xuất khẩu tôm bằng đường tiểu ngạch sang Trung Quốc”, ông Lê Xuân Hoàng, Chủ tịch Hội nông dân TP Cam Ranh, cho biết.

Một lý do khác là năm nay sản lượng tôm hùm thịt ở các tỉnh Nam Trung Bộ tăng cao do không bị ảnh hưởng mưa bão. Nguồn cung dồi dào khiến giá bán tôm hùm thấp hơn mọi năm.

(Theo Zing)

 

6 quốc gia dẫn đầu nuôi tôm thẻ chân trắng

(Thủy sản Việt Nam) – Theo báo cáo Công ty đầu tư công nghệ nuôi trồng thủy sản Hatch, Indonesia, Ấn Độ, Ecuador, Việt Nam, Thái Lan và Trung Quốc là 6 quốc gia dẫn đầu trong ngành công nghiệp nuôi tôm thẻ chân trắng xét về sản lượng.

Indonesia

Theo Bộ Hàng hải và Thủy sản Indonesia (MMAF), sản lượng tôm nước này  năm 2015 đạt 535.000 tấn. Còn theo FAO (2018), sản lượng tôm của Indonesia đã đạt 637.555 tấn trong năm 2016, đưa Indonesia trở thành nhà sản xuất tôm lớn thứ 2 trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Indonesia đang đặt mục tiêu sản lượng tôm đạt 600.000 tấn vào năm 2020. Ngành công nghiệp tôm của Indonesia bắt đầu vào cuối những năm 1980, khởi đầu ở Đông Java. Tôm thẻ chân trắng đã được giới thiệu ở Indonesia vào năm 2002. Hiện, tôm thẻ chân trắng chiếm hơn 75% tổng sản lượng tôm của nước này và việc nuôi tôm trải dài khắp đất nước, từ Sumbawa đến phía Đông và Nam Sumatra, đến phía Tây Kalimanta, Sulawesi và Maluka đến phía Bắc.

 

Ấn Độ

Số liệu của World’s Top Exports hồi tháng 5/2019 cho biết, Ấn Độ là nước xuất khẩu tôm lớn nhất thế giới, đạt giá trị thương mại 4,4 tỷ USD, chiếm 25,4% thị trường toàn cầu và gần gấp đôi so với quốc gia xếp thứ hai (Ecuador 2,9 tỷ USD). Sự tăng trưởng thần kỳ này bắt nguồn từ việc chuyển dịch sang nuôi tôm thẻ chân trắng, loài có khả năng nuôi ở mật độ cao, nuôi ngắn, sức sống tốt và khả năng kháng bệnh hiệu quả. Từ những năm 2000, sau khi tôm sú bị dịch bệnh hoành hành, tôm thẻ chân trắng và phần nào đó là tôm càng xanh trở thành đối tượng nuôi phổ biến và chiếm vị thế dẫn đầu trong ngành thủy sản Ấn Độ. Dù vậy, việc tăng trưởng quá nóng dẫn đến nhiều mặt trái. Ấn Độ đang đặt mục tiêu đạt 1 triệu tấn tôm vào năm 2020. Tuy nhiên, theo dự báo mới nhất tại GOAL 2019, sản lượng tôm của nước này dự kiến vẫn ổn định ở dưới mức 600.000 tấn.

Tôm thẻ chân trắng đang là đối tượng nuôi chính tại nhiều quốc gia – Ảnh: Net Zero Enterprises

Ecuador

Nuôi tôm bắt đầu ở Ecuador gần 50 năm trước. Các trang trại nuôi tôm đầu tiên được thành lập ở phía Nam và kể từ đó đến nay, diện tích nuôi tôm của nước này đã đạt gần 220.000 ha. Ecuador hiện là nhà sản xuất tôm thẻ chân trắng lớn thứ 3 thế giới và lớn nhất ở Nam Mỹ. Sản lượng tôm của Ecuador cũng tăng trưởng liên tục, từ 115.000 tấn năm 1998 lên 246.000 tấn năm 2017 và 500.000 tấn năm 2018. Sandro Coglitore, Giám đốc điều hành Omarsa – một trong những nhà xuất khẩu tôm lớn của Ecuador cho biết, sản lượng tôm Ecuador dự kiến đạt ít nhất 640.000 tấn trong năm 2019, cao hơn Ấn Độ.

 

Trung Quốc

Trung Quốc là nước xuất khẩu tôm lớn thứ 2 về khối lượng, sau Thái Lan và lớn thứ 3 về giá trị trên toàn cầu. Trung Quốc quyết tâm đáp ứng nhu cầu và chất lượng của cả thị trường quốc tế và trong nước. Sản xuất tôm thẻ chân trắng đã đóng góp vào lượng protein động vật, tạo việc làm, tăng thu nhập cho các hộ gia đình. Nhiều nhà đầu tư và người nuôi trồng thủy sản đang hy vọng về tiềm năng của lĩnh vực tôm nuôi ở Trung Quốc vì thị trường tiêu thụ nội địa rộng lớn. Sản lượng tôm của Trung Quốc ngày càng tăng; đặc biệt là tôm thẻ chân trắng. Sản lượng tôm thẻ chân trắng của nước này đã tăng từ 605.259 tấn năm 2002 lên 1.672.246 tấn năm 2016.

 

Thái Lan

Nuôi tôm bán thâm canh ở Thái Lan bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ trước và đã được thay thế bởi nuôi tôm thâm canh vào năm 1987. Tôm sú là loài ưa chuộng vì sự sẵn có các trại sản xuất giống và khả năng tăng trưởng nhanh của tôm sú trong điều kiện nuôi bán thâm canh. Tuy nhiên, năm 2002, Hội chứng tôm sú tăng trưởng chậm (MSGS) đã tấn công ngành nuôi tôm công nghiệp, khiến sản lượng hàng năm giảm khoảng 36%. Đây là dịch bệnh tôm nghiêm trọng nhất trong lịch sử nuôi tôm Thái Lan, kết thúc việc mở rộng nuôi tôm sú thâm canh và đưa tôm thẻ chân trắng vào nuôi trong những năm 2003 – 2004. Tôm thẻ chân trắng hợp với khí hậu nhiệt đới của Thái Lan và nhanh chóng thích nghi hệ thống nuôi thâm canh khép kín. Vậy nhưng, sự bùng phát của Hội chứng tôm chết sớm (EMS) cuối tháng 8/2011 đã khiến sản lượng tôm Thái Lan sụt giảm mạnh; đến nay gần như chưa thể hồi phục lại sản xuất như trước đây.

 

Việt Nam

Tôm thẻ chân trắng được đưa vào Việt Nam từ năm 2001, nuôi ở mức độ thử nghiệm. Đến năm 2006, Bộ NN&PTNT cho phép nuôi tôm thẻ chân trắng từ Quảng Bình đến Bình Thuận; năm 2008, được nuôi ở các tỉnh phía Nam. Cả diện tích và sản lượng tôm thẻ chân trắng của Việt Nam tăng đều qua các năm. Theo Tổng cục Thủy sản, 10 tháng đầu năm 2019, diện tích nuôi tôm nước lợ của Việt Nam đạt 713.402 ha, tăng 0,1% so cùng kỳ 2018; trong đó diện tích thả nuôi tôm chân trắng là 99.740 ha. Sản lượng thu hoạch tôm nước lợ đạt 600.874 tấn, tăng 4,4% so cùng kỳ 2018, sản lượng là 386.701 tấn, vượt mạnh so với con tôm sú.

>> Báo cáo của Hatch cũng cho biết, tôm thẻ chân trắng đang được nuôi ở 36 quốc gia, đạt giá trị sản xuất cao nhất trong ngành nuôi trồng thủy sản với trị giá 26,7 tỷ USD.

Phương Ngọc

Nguồn : http://thuysanvietnam.com.vn/

Virus gây bệnh Hemocyte tôm (SHIV)

Virus gây tử vong nghiêm trọng ở tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương ở Trung Quốc

Các triệu chứng lâm sàng của L. vannamei đã thử thách với virut ánh kim tiềm năng so với các nhóm đối chứng. (a) Hình dạng bên ngoài của tôm. (b) Phần của gan tụy.

Một loại virut óng ánh mới được phát hiện gây bệnh nặng và tỷ lệ tử vong cao ở tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương ( Litopenaeus vannamei ) ở Chiết Giang, Trung Quốc, đã được xác minh và đặt tên tạm thời là virut óng ánh tôm (SHIV).

Các động vật bị ảnh hưởng trải qua các đợt chết hàng loạt và biểu hiện teo gan với màu nhạt dần, dạ dày trống rỗng và ruột và vỏ mềm. Kết quả xét nghiệm bằng kỹ thuật phản ứng chuỗi polymerase (PCR) cho thấy các mẫu âm tính với các loại virus tôm đã biết khác nhau, bao gồm WSSV, IHHNV, VPAHPND, YHV và TSV11.

Các triệu chứng lâm sàng của nhiễm trùng SHIV bao gồm mất màu nhẹ trên bề mặt và cắt gan tụy, dạ dày và ruột rỗng, vỏ mềm ở tôm bị nhiễm bệnh một phần và cơ thể hơi đỏ ở một phần ba cá nhân. Những triệu chứng này không giống với các triệu chứng do nhiễm iridovirus được cho là khác ở các loài tôm penaeid khác, tôm serestid hoặc tôm hùm nước ngọt.

Các phần mô học tiết lộ rằng căn bệnh này có thể là do nhiễm virus nghi ngờ với các triệu chứng gây bệnh rõ ràng, không phù hợp với đặc điểm mô bệnh học của nhiễm trùng với bất kỳ loại virus đã biết hoặc bệnh hoại tử gan cấp tính (AHPND). Sử dụng các công nghệ giải trình tự DNA thông lượng cao, chúng tôi đã xác định rằng một loại virut ánh kim tiềm năng có trong một mẫu và phân tích phát sinh gen của hai protein không hỗ trợ loại virut óng ánh này – được đặt tên tạm thời là virut óng ánh tôm (SHIV) đến bất kỳ chi được biết đến của họ Iridoviridae.

Thử thách và kiểm tra mô bệnh học

Chúng tôi đã tiến hành các thử nghiệm thử thách thông qua tiêm bắp xâm lấn hoặc chế độ không xâm lấn bao gồm nhiễm trùng ngược hoặc nhiễm trùng os  có thể truyền thành công một tác nhân truyền nhiễm có thể lọc từ L. vannamei sang động vật khỏe mạnh và gây ra các triệu chứng lâm sàng và thay đổi bệnh lý tương tự, chứng minh rằng virus này là tác nhân gây bệnh.

Hình 1: Tỷ lệ tử vong tích lũy của L. vannamei trong nhiễm trùng thực nghiệm. Hai nhóm tôm đã được thử thách với dịch lọc chiết xuất mô bằng cách tiêm xen kẽ (im) hoặc rửa ngược hậu môn (rg). Một nhóm tôm khác đã được thử thách thông qua mỗi lần khử trùng (mỗi os). Các nhóm đối chứng được xử lý theo cách tương tự với PPB-Bộ đệm của anh ta trong nhóm im (c) và nhóm rg (c), hoặc được nuôi bằng thức ăn tôm trong nhóm trên mỗi os (c). Tỷ lệ tử vong tích lũy được hiển thị dưới dạng phương tiện dữ liệu từ ba lần lặp lại cho mỗi nhóm thử nghiệm (mỗi lần lặp lại bao gồm 30 cá nhân).

Phép lai tại chỗ (ISH) là một kỹ thuật phân tử cho thấy vị trí của các chuỗi axit nucleic cụ thể trong các mô hoặc trên nhiễm sắc thể – đây là giai đoạn quan trọng để hiểu quy định, tổ chức và chức năng của gen.

Hình 2: ISH sử dụng đầu dò digoxigenin có nhãn 279 bp đối với virut óng ánh tế bào máu tôm trên các phần mô học của L. vannamei. (a) – (d) mô tạo máu, mang, gan tụy và periopod trong mẫu dương tính SHIV, tương ứng; (e) – (h) mô tạo máu, mang, gan tụy và periopod trong mẫu âm tính SHIV, tương ứng. Trong (a) – (d), các tín hiệu màu xanh đã được quan sát thấy trong tế bào chất của các tế bào máu của mô tạo máu, mang, xoang của gan tụy và periopod. Trong (e) – (h), không thấy tín hiệu lai nào trên cùng các mô của L. vannamei âm tính SHIV ngoại trừ một số tín hiệu không đặc hiệu trên lớp biểu bì. Bar, lần lượt là 10 am (a và b), 20 m (c và d) và 50 m (eTHER h).

Kiểm tra mô bệnh học của các mô mẫu cho thấy các thể vùi basophilic và pyknosis trong mô tạo máu và tế bào máu trong mang, gan tụy, periopod và cơ. Sử dụng kỹ thuật giải trình tự metagenomics của virus (từ vật liệu di truyền được phục hồi trực tiếp từ các mẫu môi trường), chúng tôi đã thu được một phần trình tự mà chúng tôi hiểu là iridoviridae tiềm năng. Và các phân tích phát sinh học bằng cách sử dụng chuỗi axit amin của các protein chính đã tiết lộ rằng đây là một loại virut ánh kim mới nhưng không thuộc về năm chi được biết đến của Iridoviridae.

Hình 3: Đặc điểm mô bệnh học của Davidson’s acid-formalin-acetic acid (AFA) đã cố định mẫu L. vannameiin 20141215 (a, c, e và d). Mũi tên đen cho thấy các vùi basophilic trong khi mũi tên trắng cho thấy các hạt nhân karyopyride. (a) nhuộm Haematoxylin và eosin (H & E) của mô tạo máu; (b) nhuộm H & E của mang; (c) nhuộm H & E của xoang ở gan tụy và (d) nhuộm H & E của periopod. Thanh, 10 m.

Sau khi so sánh các đặc điểm hình thái, sinh lý và phát sinh của các mẫu của chúng tôi với các loại virut óng ánh khác, chúng tôi tạm thời gán tác nhân căn nguyên là virut ánh kim hemocyte tôm (SHIV), có thể gây ra bệnh virut hemocyte tôm (SHIVD). Chúng tôi đề xuất một chi mới của Iridoviridae, Xiairidovirus , có nghĩa là virut ánh kim tôm.

Quan điểm

Thông qua phân lập, tái nhiễm và đặc tính mô bệnh học, chúng tôi đã tiết lộ rằng SHIV là một loại vi-rút mới trong họ Iridoviridae và là mầm bệnh của L. vannamei . Chúng tôi đã phát triển thêm một xét nghiệm ISH và phương pháp PCR lồng nhau để phát hiện cụ thể SHIV.

Các kết quả nghiên cứu của chúng tôi nhấn mạnh sự cần thiết của các chuyên gia về sức khỏe động vật thủy sản và nông dân có kinh nghiệm trong ngành nuôi tôm để chú ý hơn đến SHIV và thực hiện các biện pháp hiệu quả hơn để ngăn chặn dịch bệnh và thiệt hại kinh tế do SHIV gây ra.

Nguồn : https://sinhhoctomvang.vn

Ảnh hưởng của độ mặn lên hiệu quả sử dụng thức ăn và tiêu hao oxy của tôm sú

Tôm sú
Tôm sú.

Nghiên cứu tìm hiểu ảnh hưởng của độ mặn lên thời gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn, độ tiêu hóa (thức ăn, đạm, năng lượng) và tiêu hao oxy cơ sở của tôm sú cần thiết.

Tôm sú (Penaeus monodon) là đối tượng nuôi quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam thì tôm nuôi chủ yếu ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tôm sú được xác định là đối tượng quan trọng trong cơ cấu các đối tượng nuôi thủy sản ở vùng nước lợ.

Theo nhiều tác giả thì độ mặn thích hợp cho nuôi tôm sú từ 15-25‰ (Padlan, 1982). Tuy nhiên, trong quá trình mở rộng diện tích nuôi thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long một số nơi người dân đã tiến hành nuôi tôm sú trong những vùng nhiễm mặn theo mùa với mô hình phổ biến là luân canh tôm sú (mùa khô) và lúa (mùa mưa) đạt hiệu quả được khá cao. Ngược lại, một số nơi khác người nuôi tôm sú phải gặp trở ngại do sự gia tăng cao độ mặn trong suốt mùa khô.

Độ mặn có vai trò khá quan trọng đối với sự phát triển của nghề nuôi tôm sú nói chung, Tuy nhiên, sống trong môi trường nước cơ thể tôm còn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi điều kiện môi trường thông qua sự tác động lên các phản ứng sinh lý, làm ảnh hưởng đến sự phát triển và tỷ lệ sống của tôm nuôi.

Nghiên cứu về ảnh hưởng của độ mặn lên các chỉ tiêu sinh lý về tiêu hóa và hô hấp được nghiên cứu (Rosas et al., 2001). Các nghiên cứu của Carefoot (1990) cho thấy quá trình tiêu hóa thức ăn có ảnh hưởng đến các thông số trao đổi chất, đặc biệt là khả năng tiêu hao oxy. Mặt khác, Cho et al. (1994) có nhận xét là khả năng tiêu hóa thức ăn của đối tượng nuôi có liên quan mật thiết đến hiệu quả kinh tế và việc kiểm soát ô nhiễm môi trường. Vì vậy, việc tìm hiểu ảnh hưởng của độ mặn lên thời gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn, độ tiêu hóa (thức ăn, đạm, năng lượng) và tiêu hao oxy cơ sở của tôm sú cần thiết.

Phương pháp thí nghiệm

Các thí nghiệm được thực hiện trên tôm sú giống (10±2 g) ở các độ mặn 3‰, 15‰, 25‰ và 35‰. Thời gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn của tôm sú được tiến hành trên bể nhựa 1 m3 , dạ dày tôm được thu sau khi cho tôm ăn lúc 20 và 40 phút và 1, 2, 3, 4 và 5 giờ, mỗi nhịp thu 10 tôm ở mỗi độ mặn để xác định lượng thức ăn, thời gian tôm sử dụng và tiêu hóa hết thức ăn trong dạ dày.

Độ tiêu hóa thức ăn, đạm và năng lượng của tôm được tiến hành trên bể composite 0,5m3 với phương pháp bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên và lặp lại ba lần. Xác định độ tiêu hóa được thực hiện thông qua thức ăn có chất đánh dấu o-xit crom (Cr2O3).

Tiêu hao oxy của tôm được xác định bằng hệ thống hô hấp kế với 10 cá thể tôm được đo riêng biệt ở mỗi độ mặn trong 24 giờ

Kết quả

Độ mặn có ảnh hưởng đến thời gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn và tiêu hao oxy cơ sở của tôm sú. Ở độ mặn 3‰, sau khi cho ăn 20 phút khối lượng thức ăn trong dạ dày tôm đạt giá trị lớn nhất là 0,028 g. Khi tôm sống ở độ mặn mà cơ thể phải điều hòa áp suất thẩm thấu (3‰ và 35‰) thì lượng thức ăn tôm sử dụng nhiều hơn khi sống ở độ mặn mà tôm ít phải điều hòa áp suất thẩm thấu (15‰ và 25‰). Lượng thức ăn lớn nhất trong dạ dày tôm ở độ mặn 3‰ và 35‰ tương ứng là 0,028 g và 0,025 g, trong khi đó lượng thức ăn lớn nhất trong dạ dày của tôm ở các độ mặn 15‰ và 25‰ là 0,023 g và 0,021 g.

Tổng thời gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn ở dạ dày tôm ở độ mặn 3‰ từ 3-4 giờ sau cho ăn và ở các độ mặn 15, 25 và 35‰ là tương đương nhau từ 4-5 giờ sau cho ăn.

Độ tiêu hóa (thức ăn, đạm và năng lượng) của tôm sống trong môi trường có độ mặn 3‰ thấp hơn có ý nghĩa so với các độ mặn 15, 25 và 35‰

Tiêu hao oxy cơ sở của tôm ở độ mặn 3‰ là thấp nhất so với các độ mặn còn lại 15, 25 và 35‰) và thấp có ý nghĩa so với ở độ mặn 25‰.

Tôm sú có khả năng điều chỉnh hoạt động sinh lý của cơ thể để thích nghi với độ mặn thấp tới 3‰, khi nuôi tôm ở độ mặn thấp cần tăng tần suất cho tôm ăn trong ngày nhiều hơn ở độ mặn cao.

Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tôm sú có khả năng điều chỉnh hoạt động sinh lý cơ thể nhằm hạn chế sự mất năng lượng để thích nghi với độ mặn thấp. Khi nuôi tôm ở độ mặn thấp thì cần tăng tần suất cho tôm ăn trong ngày nhiều hơn ở độ mặn cao.

Theo Đoàn Xuân Diệp , Đỗ Thị Thanh Hương  và Nguyễn Thanh Phương.

Nguồn :https://tepbac.com/

Hai nữ tiến sỹ theo đuổi nuôi tôm vi sinh

Nuôi tôm bằng chế phẩm sinh học (chất vi sinh) đảm bảo an toàn sinh học là xu hướng hiện đại đang lan rộng ở nước ta.

vi-sinh175612967
Tiến sỹ Mai Thi với tôm nuôi bằng chế phẩm sinh học.

NNVN giới thiệu hai gương mặt điển hình nghiên cứu và thực hiện nuôi tôm bằng chế phẩm sinh học cần được phổ biến rộng.

Sản xuất vi sinh bản địa

Từ ngày 11/11/2019, chế phẩm sinh học của Tập đoàn Thủy sản Minh Phú được lưu hành toàn quốc, sau gần một năm sử dụng thành công trên mấy trăm héc-ta nuôi tôm của Tập đoàn.

Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất Chế phẩm Sinh học của Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, Tiến sỹ Mai Thi cho biết: “Chế phẩm của chúng tôi đạt 1012 CFU/ml, tức là trong một mi-li-lít có nghìn tỷ con vi khuẩn có lợi, không thua các nước tiên tiến”.

Tiến sỹ Mai Thi giải thích: Nuôi tôm bằng chế phẩm sinh học là phương thức nuôi tôm an toàn sinh học, không dùng kháng sinh, không sử dụng thuốc hóa học, con tôm có chất lượng như tôm sinh thái (tôm – rừng, tôm – lúa). Bởi vì trong tự nhiên có rất nhiều loài vi khuẩn, có lợi lẫn có hại và thường tồn tại cân bằng, nhưng nếu loài có hại vượt trội sẽ gây ô nhiễm môi trường, sinh ra dịch bệnh.

Thời gian qua, quá trình phát triển nuôi tôm đã đưa ra môi trường nhiều chất thải cùng biến đổi khí hậu làm chất lượng nước suy giảm, dịch bệnh xảy ra và khi tôm bị bệnh, lại sử dụng kháng sinh kéo dài gây thêm bất lợi cho môi trường, còn tăng mức độ kháng thuốc của vi khuẩn có hại trong hệ tiêu hóa của con tôm, kết quả là dịch bệnh lan tràn.

Còn dùng chế phẩm sinh học trong xử lý ô nhiễm môi trường, cũng theo Tiến sỹ Mai Thi là tăng các loài vi khuẩn có lợi để đưa môi trường trở về trạng thái cân bằng. Tiến sỹ Mai Thi và cộng sự nghiên cứu ruột nhiều con vật như sùng đất, giun… để tuyển chọn vi khuẩn có lợi làm chế phẩm. Những vi khuẩn này là vi khuẩn bản địa nên khỏe hơn vi khuẩn trong chế phẩm nhập ngoại, vòng đời dài và còn có thể phục tráng khi bị thoái hóa.

Tiến sỹ Mai Thi trước đây ở một cơ quan của tỉnh Sóc Trăng từng chủ trì nghiên cứu chế phẩm sinh học được nhiều giải thưởng và từ tháng 4/2019, về Tập đoàn Thủy sản Minh Phú xây dựng Công ty TNHH Sản xuất Chế phẩm Sinh học. Vừa xây dựng cơ sở vật chất vừa tuyển chọn nhân sự, sau 3 tháng, sản xuất được mẻ chế phẩm đầu tiên, sử dụng nuôi 3ha tôm sú ở xã Thạnh Thới Thuận (Trần Đề, Sóc Trăng) đạt kết quả tốt.

Lập tức, công suất nâng lên để sử dụng cho 700ha nuôi tôm thẻ chân trắng của Tập đoàn ở tỉnh Kiên Giang. Vì nhà máy sản xuất ở tỉnh Hậu Giang, cứ được 500kg chế phẩm sinh học là Tiến sỹ Mai Thi đem lên xe chở về Kiên Giang, đưa vào phòng thí nghiệm pha chế theo yêu cầu sử dụng cho từng ao nuôi và từng lứa tôm. Kết quả nâng cao được chất lượng tôm, hạ giá thành sản xuất.

Khi được lưu hành toàn quốc, Công ty TNHH Sản xuất Chế phẩm Sinh học Minh Phú có 12 chế phẩm, gồm 4 chế phẩm xử lý ô nhiễm môi trường và 8 chế phẩm nuôi tôm.

Hiện nay, việc sử dụng chế phẩm sinh học nuôi tôm trên diện tích của Tập đoàn Thủy sản Minh Phú đã có đội ngũ kỹ sư thành thạo, còn Tiến sỹ Mai Thi tập trung đưa đến ao tôm của đông đảo nông dân đang liên kết xây dựng vùng nguyên liệu với Tập đoàn. Tiến sỹ Mai Thi tâm sự: “Tôi sẽ đồng hành cùng nông dân làm giàu”.

Nghiên cứu sử dụng vi sinh

Tiến sỹ Lê Thị Hải Yến ở Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển của TCty Cổ phần Sản xuất Kinh doanh Vật tư và Thuốc thú y (Vemedim) lại có nhiều nghiên cứu về sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm.

23-46-49-3112192175621665
Tôm nuôi bằng chế phẩm sinh học, khi chế biến có màu đỏ đẹp.

Tiến sỹ Hải Yến giải thích, chế phẩm sinh học dùng trong nuôi tôm có hai nhóm: Chế phẩm sinh học cho xử lý môi trường và chế phẩm sinh học hỗ trợ hệ tiêu hóa tôm. Các chế phẩm sinh học có thể ở dạng lỏng hoặc hạt, bột mịn có chứa các thể vi sinh vật hữu ích.

Vai trò của chế phẩm sinh học trong hỗ trợ hệ tiêu hóa cho tôm, theo Tiến sỹ Hải Yến, có kích thích miễn dịch đường tiêu hóa của tôm, tiết ra các hợp chất chống lại vi khuẩn gây bệnh và còn cạnh tranh dinh dưỡng, cạnh tranh nơi cư trú với vi khuẩn có hại khiến vi khuẩn có hại không phát triển được. Sử dụng chế phẩm sinh học bằng cách đưa vào cơ thể tôm như bổ sung thức ăn, ngâm, bổ sung vào ao nuôi; sử dụng thường xuyên hoặc định kỳ đều là những quy trình chặt chẽ có tính quyết định thành công nuôi tôm an toàn sinh học.

Đặc biệt, các chế phẩm sinh học được sản xuất từ các lợi khuẩn bản địa luôn có ưu thế về sự thích nghi và là ưu tiên lựa chọn của người nuôi tôm. Tiến sỹ Hải Yến giải thích cụ thể: “Trong nhiều trường hợp, các lợi khuẩn trong chế phẩm sinh học không thích nghi với môi trường bản địa, cho nên dù sản phẩm được chứng minh là hiệu quả tại quốc gia đã sản xuất ra chúng nhưng lại phát triển chậm hoặc chết ngay khi đưa vào môi trường ao nuôi tại Việt Nam nên không tạo được tác dụng như mong muốn”. Do đó, trong sử dụng chế phẩm sinh học để nuôi tôm, ngoài thời điểm, liều lượng và thời hạn thì sự thích nghi đóng vai trò quyết định thành công.

“Tóm lại, chế phẩm sinh học chỉ có kết quả tốt và đạt được như kỳ vọng trong trường hợp ao nuôi được quản lý tốt và dùng các chủng vi sinh vật đã thông qua chọn lọc kỹ lưỡng, phù hợp với môi trường bản địa”, Tiến sỹ Hải Yến nhấn mạnh.

SÁU NGHỆ

Nguồn :https://nongnghiep.vn/

Hy hữu ngư dân Anh bắt được tôm hùm xanh siêu quý hiếm

Tôm hùm màu xanh dương là loài vật vô cùng quý hiếm với xác suất 1/2.000.000, vậy mà một ngư dân ở Anh đã 2 lần bắt được con vật này.

Một ngư dân ở Devon Coast (Anh) vừa bắt được một con tôm hùm xanh dương quý hiếm và đặt tên nó là Lary. Sau đó, ông đã thả nó xuống biển.

Theo các ngư dân ở Anh, bắt được tôm hùm xanh thể hiện sự may mắn, hạnh phúc. Vì vậy họ sẽ thả chúng xuống biển chứ không chế biến thành món ăn. Người ngư dân cho biết: “Hy vọng một lúc nào đó có ai bắt được Lary cũng sẽ làm như tôi”.

Hy hữu ngư dân Anh bắt được tôm hùm xanh siêu quý hiếm - Ảnh 1
Hy hữu ngư dân Anh bắt được tôm hùm xanh siêu quý hiếm - Ảnh 2

Con tôm hùm quý hiếm màu xanh dương có tên là Lary mà người ngư dân ở Anh đã bắt được.

Được biết, người ngư dân nói trên đã làm nghề đánh bắt hải sản hơn 50 năm và đây là lần đầu ông bắt được con tôm hùm màu lam đậm.

Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng kỳ lạ trên được các nhà khoa học giải thích là do khiếm khuyết di truyền khiến loài sinh vật này sản xuất quá mức một loại protein cụ thể.

Cách đây không lâu, ông Wayne Nickerson phát hiện một con tôm hùm xanh ở vịnh Cape Cod (Mỹ). Con tôm hùm nặng 0,9kg. Đây là lần hai, ông Wayne bắt được tôm hùm xanh như vậy.

Lần trước đó ông bắt được tôm hùm xanh là năm 1990. Sau đó, ông Wayne không bán con tôm hùm xanh mà gửi đến một thủy cung ở địa phương để tiếp tục bảo tồn.

Hy hữu ngư dân Anh bắt được tôm hùm xanh siêu quý hiếm - Ảnh 3

Con tôm hùm màu xanh của ông chủ nhà hàng ở Mỹ.

Một chủ nhà hàng ở thị trấn Eastham (Mỹ) cũng đã tình cờ phát hiện một con tôm hùm màu xanh dương trong lô hàng hải sản khi mua về. Sau khi trưng bày con vật tại nhà hàng khoảng 1 tuần, ông đã tặng nó cho thủy cung St. Louis với hy vọng khi thấy con vật này, thế hệ trẻ sẽ trân trọng biển cả hơn.

Minh Khôi (T/h)

Nguồn : https://www.doisongphapluat.com/