Bạn tìm thông tin gì?

Blog

Tổng quan một số quy trình công nghệ nuôi tôm tiên tiến nhất hiện nay

Tổng quan một số quy trình công nghệ nuôi tôm tiên tiến nhất hiện nay

Công nghệ nuôi tôm không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Bên cạnh những công nghệ nuôi tôm siêu thâm canh mật độ cao, một số công nghệ nuôi tôm mới dựa vào nguồn thức ăn tự nhiên hoặc sử dụng hoàn toàn thức ăn có nguồn gốc từ thực vật đang được ứng dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Bài viết này trình bày tổng quan về một số đặc điểm kỹ thuật cơ bản của các công nghệ nuôi tôm tiến tiến nhất hiện nay.

Copefloc: Công nghệ nuôi tôm mới sử dụng hoàn toàn thức ăn tự nhiên

Copefloc là một thuật ngữ dùng để chỉ một công nghệ nuôi tôm mới đang phát triển mạnh tại Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam và nhiều quốc gia khác. Copefloc = Copepods + Biofloc là một công nghệ nuôi tôm sử dụng copepods (giáp xác chân chèo), các hạt biofloc và các động vật thân mềm sống đáy (giun nhiều tơ,…) như là một nguồn thức ăn chính yếu cho tôm nuôi và hoàn toàn không sử dụng thức ăn chế biến (thức ăn viên công nghiệp). Hệ thống nuôi tôm theo công nghệ copefloc có nhiều thuận lợi như: thiết kế vận hành đơn giản, ít rủi ro, chi phí nuôi thấp do không tốn tiền thức ăn cho tôm, tốc độ tăng trưởng của tôm rất cao, lợi nhuận thu được cao, không gây ô nhiễm môi trường. Một số đặc điểm nổi bật của hệ thống này là: ao nuôi không cần lót bạt, không cần cống trung tâm để siphon đáy ao, hoàn toàn khép kín và không thay nước, không sử dụng bất kỳ loại hóa chất diệt khuẩn và xử lý nước nào, không sử dụng kháng sinh, không cần bổ sung khoáng chất, không cần ương tôm 30 ngày trước khi thả xuống ao nuôi, và đặc biệt là không sử dụng thức ăn công nghiệp, tôm sử dụng hoàn toàn thức ăn tự nhiên có trong ao nuôi.

Sau khi lấy nước vào ao nuôi từ ao lắng (nước được xử lý, lắng lọc ở ao lắng trong một thời gian dài) đến khi đạt độ sâu từ 1.2 – 1.5 m, tiến hành gây nuôi copepods, các loài phiêu sinh động vật, giáp xác nhỏ khác (krill) và động vật thân mềm sống đáy (barnacle, giun nhiều tơ, các loài hai mảnh vỏ, và các loài động vật thân mềm sống đáy khác) bằng cách dùng cám gạo lên men với chế phẩm sinh học (probiotics). Tuyệt đối không cung cấp nguồn copepods hay các sinh vật khác từ bên ngoài vào ao nuôi để tránh trường hợp chúng mang mầm bệnh vào ao nuôi, tất cả các loài thức ăn tự nhiên có trong hệ thống nuôi tự nó sẽ phát triển khi có các điều kiện thích hợp. Cám gạo được cho vào trong chậu (bể) lớn để tiến hành lên men bằng cách cho nước ao nuôi và chế phẩm sinh học vào và sụt khí mạnh trong 24 – 48 giờ. Sau đó cho hỗn hợp cám gạo lên men vào trong túi vải dài (dạng giống như ống bơm nước), chuyển xuống ao nuôi và thường xuyên đảo túi vải để dịch cám gạo lên men với probiotic lan tỏa khắp ao nuôi. Ao nuôi được sụt khí liên tục trong thời gian từ 7 – 10 ngày trước khi thả giống tôm. Sử dụng cám gạo lên men ban đầu với liều lượng khoảng 300 kg hoặc 30 ppm trên 1 hecta để gây tạo thức ăn tự nhiên trong ao. Cám gạo lên men sẽ là nguồn thức ăn cho copepod, động vật thân mềm và các loài sinh vật khác trong ao. Khuyến cáo mật độ tôm nuôi trong mô hình này là dưới 50 con/m2. Ở mật độ nuôi này, tôm có thể phát triển tốt, hạn chế cạnh tranh về thức ăn tự nhiên. Thả nuôi với mật độ cao hơn sẽ dẫn đến việc cạnh tranh về thức ăn, dẫn đến thiếu thức ăn, chất lượng nước ao nuôi bị biến động, chất thải (phân tôm) nhiều có thể dẫn đến hình thành khí độc và phát sinh mầm bệnh.

Nuôi tôm sử dụng thức ăn có nguồn gốc từ thực vật lên men

Đây là quy trình nuôi tôm dựa trên công nghệ copefloc, nhưng trong quá trình nuôi có bổ sung thêm các loại thức ăn lên men có nguồn gốc thực vật hoặc bổ sung thức ăn chế biến (thức ăn công nghiệp). Ưu điểm của công nghệ nuôi này là tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên có trong ao, bổ sung các loại thức ăn lên men có nguồn gốc thực vật như cám gạo hay đậu nành lên men với chế phẩm sinh học hoặc có bổ sung thêm thức ăn công nghiệp giúp giảm giá thành sản xuất (giảm chi phí thức ăn), tôm tăng trọng nhanh, nuôi được mật độ cao hơn mô hình copefloc.

                                    Cho tôm ăn đậu nành lên men (Ảnh: Aquamimicry Vietnam)
Trong mô hình này, ao nuôi thường có diện tích lớn khoảng từ 0,5 đến 1 ha/ao. Mật độ nuôi từ 30-100 con/m2. Sau khi cải tạo ao nuôi đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật, sử dụng cám gạo nghiền mịn với liều lượng 400-500 kg (50 ppm) lên men với chế phẩm sinh học sau 24-48 giờ bổ sung vào ao nuôi (giống như đã trình bày trong mục nuôi tôm theo công nghệ copefloc) và sụt khí liên tục để kích thích sự phát triển của phiêu sinh động vật, động vật đáy… trong ao tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm. Tiếp tục bổ sung cám gạo lên men hàng ngày với liều lượng 30-50 kg/ha đến khi độ trong đạt 30-50 cm. Tiếp tục sụt khí và duy trì hàm lượng oxy hòa tan >5 ppm, pH từ 7.5-8.0 cho đến khi thả giống.

Tiếp tục duy trì bổ sung cám gạo lên men hàng ngày với liều lượng như trên trong suốt quá trình nuôi. Sau khi thả giống được khoảng 5 ngày, bổ sung đậu nành lên men với liều lượng 1-3 kg/100.000 tôm post. Cho tôm ăn đậu nành lên men theo trọng lượng cơ thể tôm (từ 1-5%, tùy theo trọng lượng tôm) 3 lần/ngày, kết hợp với bổ sung cám gạo lên men trong suốt quá trình nuôi. Có thể bổ sung thức ăn công nghiệp 1-2 lần/ngày, tùy theo mật độ nuôi và nhu cầu của tôm. Nếu bổ sung thêm thức ăn công nghiệp, phải giảm số lần cho tôm ăn đậu nành lên men và liều lượng cám gạo lên men bổ sung hàng ngày.

Nuôi tôm theo qui trình 3 pha (three-phase) trong ao

Hệ thống nuôi tôm 3 pha được phát triển bởi công ty Công ty Grupo Granjas Marinas, Honduras. Điểm nhấn trong quy trình công nghệ này là hệ thống nuôi luân trùng (rotifer) và giáp xác chân chèo (copepod) với qui mô lớn kết hợp với ao ương tôm và ao nuôi thương phẩm để giúp rút ngắn chu kỳ nuôi và gia tăng năng suất tôm lên đáng kể mà không phụ thuộc vào các nguồn protein khác từ thức ăn nhân tạo.

                                   Phiêu sinh động vật-nguồn dinh dưỡng tự nhiên tốt nhất cho tôm nuôi
Hệ thống nuôi tôm 3 pha của họ bao gồm một ao ương nuôi tôm trung tâm, hệ thống raceway (hệ thống thông dòng nước, hệ thống nuôi nước chảy) nuôi rotifer và copepod, và tôm sau khi ương sẽ được chuyển sang ao nuôi thương phẩm có diện tích lớn hơn. Hệ thống này có thể sản xuất tôm đạt trọng lượng 15-16 g/con trong thời gian 8 tuần, tốc độ tăng trưởng hàng tuần đạt 4.2 g/con, với tỷ lệ sống trung bình đạt 74%. Trước mắt, công ty đã đưa vào hoạt động 400 ha ao nuôi cũ và đang có kế hoạch xây dựng thêm 700 ha vào năm 2015.

Hệ thống nuôi nhiều pha này không những làm gia tăng hiệu quả sản xuất mà còn mở ra một cơ hội mới góp phần bảo vệ môi trường nhờ vào việc sử dụng thức ăn tự nhiên. Một lượng sinh khối rất lớn của phiêu sinh động vật giàu dinh dưỡng có thể được sản xuất trong thời gian ngắn dùng làm thức ăn thay thế thức ăn nhân tạo cho tôm, góp phần gia tăng tính bền vững và lợi nhuận cho người nuôi tôm.

Công nghệ nuôi tôm raceway siêu thâm canh nhiều tầng (super-intensive stacked raceway) 

Đối với công nghệ nuôi tôm siêu thâm canh trong hệ thống raceway truyền thống, tôm được nuôi trong những bể nước hình chữ nhật,  các bể được bố trí nằm kề liền nhau và chúng được bố trí trong phòng lớn. Hệ thống này có nhược điểm là cần một không gian rất lớn để có thể sản xuất ra lượng tôm lớn và giá thành sản phẩm cao hơn so với tôm nhập khẩu. Để khắc phục những nhược điểm của hệ thống raceway truyền thống, tiến sỹ Addison L. Lawrence, một nhà khoa học tại Phòng Thí Nghiệm Nghiên Cứu Nuôi Trồng Hải Sản Texas AgriLife đã có một ý tưởng tuyệt vời là xếp chồng các bể raceway lên với nhau. Hệ thống này được gọi là nuôi tôm raceway siêu thâm canh nhiều tầng (super-intensive stacked raceway).

                Tiến sỹ Lawrence (người bên trái) bên hệ thống raceway nhiều tầng (Ảnh: nytimes.com)
Hiện nay, Royal Caridea, một công ty sản xuất thủy sản mới thành lập đã mua bản quyền cấp phép hệ thống này trên toàn thế giới và đã khởi công xây dựng một cơ sở sản xuất ứng dụng công nghệ nuôi này vào năm 2012. Tiến sĩ Lawrence dự đoán rằng, trong thời gian tới, mỗi khu vực đô thị lớn “sẽ có một trang trại nuôi tôm giống với mô hình này” và sẽ không còn nhiều lý do để dựa vào nguồn tôm nhập khẩu nữa.

Công nghệ semi-biofloc trong nuôi tôm thâm canh

Hệ thống nuôi tôm thay nước nhiều thường duy trì được chất lượng nước tốt, tuy nhiên do vấn đề an toàn sinh học và môi trường nên người nuôi đã quan tâm nhiều hơn đến việc ứng dụng các công nghệ nuôi tôm không thay nước như biofloc. Để ứng dụng thành công công nghệ biofloc, người nuôi cần phải đáp ứng cùng lúc rất nhiều yếu tố như thả tôm với mật độ cao, hệ thống sục khí và đảo nước thích hợp và đủ công suất (25-30 hp/ha), điều chỉnh đúng tỉ lệ C:N (>15), hệ thống kiểm soát ao nuôi đúng và chặt chẽ. Từ những khó khan trên, nhiều người nuôi tôm ở Indonesia đã chuyển sang công nghệ nuôi đơn giản hơn biofloc gọi là semi-biofloc hay còn gọi là hệ thống lai (hybrid) kết hợp giữa sinh vật tự dưỡng và dị dưỡng (autotrophic and heterotrophic organism).

Đặc điểm của hệ thống này là tạo ra môi trường cân bằng, với khoảng 30-40% sinh vật tự dưỡng chủ yếu là tảo Chlorella (autotrophs) và 60-70% sinh vật dị dưỡng (heterotrophs) chủ yếu là các chủng Bacillus. Sinh khối floc sẽ được duy trì kiểm soát thông qua việc bón định kỳ chế phẩm sinh học (probiotic), CaCO3, MgCO3 và chất hữu cơ. Mật độ tảo được kiểm soát bằng cách điều chỉnh và duy trì tỷ lệ N:P = 25:1, điều chỉnh hệ vi sinh vật dị dưỡng bằng cách bổ sung chế phẩm sinh học (Bacillus) và các nguồn carbohydrate. Ao nuôi được cải tạo trước khi thả giống 20 ngày nhằm thiết lập ổn định hệ sinh vật tự dưỡng và dị dưỡng (tảo và vi khuẩn có lợi). Các yếu tố chất lượng nước cần quan tâm bao gồm màu nước, pH, độ kiềm, thành phần tảo và vi khuẩn trong ao. Hệ thống sụt khí hiệu quả, đảm bảo duy trì hàm lượng oxy hòa tan >4 ppm, định kỳ siphon đáy ao để loại bỏ chất thải. Độ trong duy trì từ 25-30 cm.

Công nghệ biofloc trong nuôi tôm thâm canh

Công nghệ biofloc được Giáo sư Yoram Avnimelech khởi xướng ở Israel và do Robins McIntosh thực hiện đầu tiên trong nuôi tôm thương phẩm ở Belize, Indonesia.

Hệ thống biofloc được phát triển để nâng cao khả năng kiểm soát môi trường trong nuôi trồng thủy sản. Thông thường, nuôi tôm với mật độ cao cần phải có một hệ thống xử lý chất thải. Hệ thống biofloc cho phép các chất thải hữu cơ và quần thể vi sinh vật tồn tại trong ao nuôi. Thông qua quá trình xáo trộn nước và sụt khí để duy trì sự hiện diện của các hạt floc, chất lượng nước được đảm bảo. Công nghệ BFT là giải pháp giải quyết 2 vấn đề: (1) Loại bỏ các chất dinh dưỡng chuyển hóa vào sinh khối vi khuẩn dị dưỡng xử lý nước ao nuôi, (2) Sử dụng Biofloc làm thức ăn bổ sung tại chỗ cho đối tượng nuôi. Do đó, BFT làm giảm chi phí thức ăn và được coi là giải pháp để phát triển bền vững ngành nuôi trồng thủy sản quy mô công nghiệp.

Yêu cầu về năng lượng điện cho sụt khí và đảo nước của hệ thống biofloc vượt xa các hệ thống nuôi thông thường và hầu hết các hệ thống nuôi tuần hoàn. Hệ thống ao nuôi tôm sử dụng công nghệ biofloc cần cung cấp sụt khí với công suất khoảng 25-30 hp/ha. Tỷ lệ sụt khí cao như thế không thể áp dụng cho các ao đất không lót bạt vì sẽ gây nên xói mòn đất, do đó hầu hết các ao nuôi theo công nghệ biofloc đều có lót bạt hoặc đáy bằng bê-tông. Công nghệ biofloc không khuyến cáo cho những khu vực nuôi có nguồn điện không ổn định và giá điện cao.

Trong hệ thống biofloc, yếu tố quan trọng trong kiểm soát ammonia là tỷ lệ C:N thêm vào thông qua thức ăn hay các nguồn khác. Một loại thức ăn có hàm lượng protein khoảng 30-35% có tỷ lệ C:N tương ứng thấp, chỉ khoảng 9-10:1. Gia tăng tỷ lệ C:N thêm vào khoảng 12-15:1 để kiểm soát hàm lượng ammonia thông qua các vi sinh vật dị dưỡng. Tỷ lệ C:N thấp có thể được kiểm soát bằng cách bổ sung các nguồn nguyên liệu có tỷ lệ C:N cao hoặc gia tăng tỷ lệ C:N bằng cách dùng thức ăn có hàm lượng protein thấp. Ammonia được hấp thụ nhanh chóng bởi vi khuẩn sau khi bổ sung carbohydrate. Kiểm soát ammonia bằng vi khuẩn dị dưỡng thường ổn định và bền vững hơn so với tảo hay quá trình tritrate hóa.

Có rất nhiều nguồn nguyên vật liệu có thể dùng để cung cấp carbohydrate vào hệ thống biofloc, bao gồm bột ngũ cốc, mật đường, bã mía, cỏ khô băm nhỏ (chopped hay) hay các nguồn khác. Để kiểm soát nồng độ ammonia thông qua con đường vi khuẩn dị dưỡng, carbohydrate bổ sung phải thực hiện theo tỷ lệ cho ăn. Đối với mỗi kg thức ăn có hàm lượng protein 30-38% thêm vào hệ thống, cần cung cấp 0.5-1 kg carbohydrate.

Quản lý hệ thống nuôi theo công nghệ biofloc không đơn giản, đòi hỏi những kỹ thuật tương đối phức tạp cần thiết để đảm bảo cho hệ thống hoạt động tốt và đạt năng suất cao.

Công nghệ ương nuôi tôm siêu thâm canh trong hệ thống nước chảy (raceway)

Kỹ thuật raceway xuất phát từ các quốc gia Nam Mỹ (Mexico, Ecuador, Honduras, Mỹ, Guatemala…), phát triển mạnh từ năm 2008 khi dịch bệnh EMS/AHPND bùng phát mạnh tại các quốc gia này. Công nghệ này được ứng dụng rộng rãi trong nuôi tôm, đặc biệt là phổ biến trên nuôi tôm thẻ chân trắng. Mục tiêu quan trọng của công nghệ nuôi raceway là giúp gia tăng lợi nhuận trên cùng đơn vị diện tích và trên cùng khoảng thời gian nhờ vào khả năng xoay vòng ngắn; tận dụng tối đa đặc tính sinh học vượt trội của tôm thẻ chân trắng, đặc biệt là khả năng tăng trưởng bù; tính an toàn sinh học cao giúp giảm thấp rủi ro và gia tăng khả năng thành công của vụ nuôi.

Theo kết quả nghiên cứu của tiến sỹ Tzachi Samocha và cộng sự tại Phòng thí nghiệm Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản AgriLife ở Corpus Christi, Texas; hệ thống nuôi raceway có thể sản xuất được hơn 9 kg tôm thẻ chân trắng trên mỗi mét khối nước với mật độ nuôi lên đến 530 con/m3 nước. Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) trung bình thấp, khoảng 1-1,2; tốc độ tang trưởng hàng tuần của tôm nuôi đạt 1,3 g/tuần. Ngoài ra, hệ thống này giúp giảm chi phí sản xuất tôm từ 5 USD/pound xuống còn khoảng 2 USD/pound. Thời gian nuôi thương phẩm chỉ mất 3 tháng, cho phép sản xuất được 4 vụ/bể/năm. Hệ thống nuôi khép kín đã ngăn chặn thành công sự bộc phát của virus, và tỷ lệ chết được giữ dưới 0,5% mỗi tuần.

Công nghệ nuôi này yêu cầu trình độ quản lý kỹ thuật cao, đặc biệt là phải đảm bảo hàm lượng oxy hòa tan (DO) của hệ thống phải ở mức tốt nhất. Do không thay nước (chỉ bổ sung khoảng 1% tổng lượng nước mỗi ngày để bù đắp cho lượng nước bay hơi), hệ thống raceway chứa dày đặc các hạt biofloc chứa vi khuẩn và vi tảo trong môi trường hạn chế thay nước. Đây cũng là nguồn dinh dưỡng quan trọng làm thức ăn cho tôm.

Đây là hệ thống cần đầu tư ban đầu lớn, cần trình độ quản lý, kỹ thuật cao để có thể nuôi đạt kết quả tốt nhất.

Công nghệ nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kính

Hiện nay, mô hình nuôi tôm trong nhà kính đang lan rộng ở ĐBSCL do kiểm soát được vấn đề dịch bệnh, ô nhiễm môi trường và ít rũi ro hơn các mô hình nuôi khác. Nuôi tôm trong nhà kính chi phí đầu tư ban đầu khá cao. Tổng chi phí đầu tư cho 1 ha khoảng 10 tỉ đồng, gồm xây nhà bao phủ các ao nuôi tôm, xây tường xung quanh ao nuôi, lót bạt dưới đáy ao, lắp đặt hệ thống quạt, oxy đáy, hệ thống cho tôm ăn tự động, …

Nhờ mô hình đầu tư khá hiện đại và khép kín nên có thể thả nuôi thâm canh với mật độ khá cao. Trung bình mật độ thả nuôi từ 200 – 290 con/m2, tôm sau 100 – 105 ngày thả nuôi là có thể thu hoạch, tôm đạt kích cỡ từ 30 – 33 con/kg, năng suất đạt khoảng 60-90 tấn/ha. Tôm nuôi trong nhà kính có nhiều ưu điểm như dễ kiểm soát các yếu tố môi trường (nhiệt độ), tôm nuôi tăng trưởng khá nhanh, đặc biệt là tôm thương phẩm sau thu hoạch bóng và đẹp nên được các công ty chế biến tôm xuất khẩu thu mua với giá cao so với thị trường.

                        Hệ thống ao nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kính (Ảnh: Aquanetviet.com)
Do tôm thả nuôi với mật độ cao nên hệ thống dàn quạt và ô xy đáy phải hoạt động liên tục 24/24 giờ. Theo đó, định kỳ 5 ngày phải cấy vi sinh một lần và hàng tuần phải kiểm tra sự tăng trưởng của tôm để điều chỉnh lượng thức ăn, môi trường nước kịp thời. Điều đặc biệt là nuôi tôm trong nhà kính không cần thay nước, nguồn nước có thể được tận dụng để thả tôm nuôi những vụ tiếp theo. Do đó, người dân sẽ chủ động được khâu xử lý nước thải trong môi trường nuôi tôm – một vấn đề bức thiết lâu nay mà không có giải pháp khắc phục. Ngoài ra, để quản lý tốt môi trường ao nuôi định kỳ 3 – 4 ngày phải siphon đáy ao một lần, làm sạch môi trường nuôi tạo ra sản phẩm nuôi sạch đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường xuất khẩu.

Tóm lại, hiện nay có rất nhiều quy trình công nghệ nuôi tô khác nhau; mỗi công nghệ có ưu điểm, nhược điểm và mức độ đầu tư khác nhau. Tuỳ theo điều kiện thực tế mà người nuôi có thể cân nhắc lựa chọn công nghệ nuôi phù hợp để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.

Nguồn: aquanetviet.com

Xuất khẩu tôm vẫn trên đà giảm

Xuất khẩu tôm sang nhiều thị trường chính giảm sâu, khiến kim ngạch xuất khẩu tôm trong 2019 giảm, khó đạt được kế hoạch đề ra.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Vệt Nam (VASEP), sau khi giảm trong tháng 9/2019, XK tôm Việt Nam trong tháng 10 tiếp tục giảm, tuy nhiên mức giảm đã chậm hơn so với tháng 9. Kim ngạch XK tôm trong 10 tháng đạt 2,8 tỷ USD, giảm 6,4% so với cùng kỳ năm ngoái.

XK tôm Việt Nam sang thị trường EU- thị trường nhập khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam tăng trưởng dương duy nhất trong tháng 7, các tháng còn lại đều tăng trưởng âm. Trong 10 tháng năm nay, XK tôm sang EU đạt 580,8 triệu USD, giảm 19,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong 3 thị trường nhập khẩu chính tôm Việt Nam trong khối EU (Anh, Hà Lan, Đức), XK sang Anh và Hà Lan giảm 2 con số, lần lượt 15,5% và 37,6%, XK sang Đức giảm 5,6%.

Theo VASEP, EU chiếm khoảng 31% tổng nhập khẩu tôm thế giới và chiếm 21% XK tôm của Việt Nam. Nếu biết tận dụng ưu đãi thuế quan từ Hiệp định EVFTA giữa Việt Nam và EU, áp dụng hiệu quả quy tắc xuất xứ, XK tôm Việt Nam sang EU sẽ có cơ hội gia tăng từ năm 2020. Tuy nhiên, XK sang thị trường này trong nửa cuối năm chưa thể phục hồi.

Mỹ vẫn là thị trường nhập khẩu tôm lớn thứ 2 của Việt Nam sau EU, chiếm 19,7% tổng giá trị XK tôm của Việt Nam. XK tôm Việt Nam sang Mỹ tăng trưởng dương trong 4 tháng từ tháng 5 đến tháng 8, giảm trong tháng 9/2019 và tăng trưởng dương trở lại trong tháng 10/2019. XK tôm sang Mỹ trong 10 tháng đạt 548,2 triệu USD, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm ngoái.

Nhu cầu nhập khẩu tôm của Mỹ từ Việt Nam đã tích cực hơn nhờ tồn kho giảm trong khi Mỹ cũng đang có xu hướng giảm nhập khẩu từ Ấn Độ, Thái Lan và giảm mạnh nhập khẩu từ Trung Quốc.

Mỹ là thị trường nhập khẩu tôm chân trắng lớn nhất Việt Nam. Về cơ cấu XK tôm Việt Nam sang Mỹ, tôm chân trắng chiếm tỷ trọng lớn 83,3%, tôm sú chỉ chiếm 12,6%. 9 tháng đầu năm nay, XK tôm chân trắng sống/tươi/đông lạnh sang Mỹ tăng 42% so với cùng kỳ năm ngoái.

Kết quả khả quan về thuế chống bán phá giá tôm Việt Nam vào Mỹ trong POR 13 đã góp phần tạo động lực cho các DN XK tôm của Việt Nam sang thị trường này. XK tôm Việt Nam sang Mỹ dự kiến tăng khoảng 5% trong quý cuối năm nay.

XK tôm Việt Nam sang Trung Quốc trong tháng 10/2019 đạt 56,3 triệu USD, tăng 20,4%. Đây là mức tăng trưởng tốt nhất trong số 6 thị trường nhập khẩu tôm chính của Việt Nam. Tính tới tháng 10 năm nay, XK tôm sang thị trường này đạt 438,6 triệu USD, tăng 8,7%.

Đầu năm 2019, Trung Quốc siết chặt thương mại đường biên mậu đồng thời Trung Quốc cũng tăng mạnh NK tôm từ Ecuador và Ấn Độ, khiến XK tôm Việt Nam sang Trung Quốc những tháng đầu năm sụt giảm.

Kể từ tháng 5/2019 đến nay, nhu cầu nhập khẩu tôm của Trung Quốc từ Việt Nam cao hơn, doanh nghiệp cũng đã bắt kịp yêu cầu thị trường nên XK tôm Việt Nam sang thị trường này đã liên tục đạt được các mức tăng trưởng dương.

XK tôm Việt Nam sang Trung Quốc từ nay đến cuối năm dự kiến vẫn duy trì đà tăng trưởng do nhu cầu nhập khẩu tôm từ Trung Quốc vẫn cao để phục vụ Tết Nguyên đán.

Theo nhận định của VASEP, XK tôm có chiều hướng khả quan hơn tại các thị trường Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản vào những tháng cuối năm khi lượng tồn kho giảm. Tuy nhiên, XK sang thị trường EU những tháng cuối năm chưa thể phục hồi. Cạnh tranh về giá tôm vẫn là áp lực lớn đối với doanh nghiệp XK tôm Việt Nam cả năm 2019 dự kiến đạt khoảng 3,4 tỷ USD, giảm 4% so với năm 2018.

Tính chi phí nuôi như thế nào hiệu quả (phần 2)

Các bác thường tính chi phí nuôi như thế nào, có như thế này ko:

Sau mỗi đợt thu hoạch, chúng ta thường xem lại toàn bộ qui trình nuôi, thực tế trong thời điểm thu tỉa cách tốt nhất để biết được lơi nhuận là có một hệ thống sổ sách chặt chẽ để nắm bắt được chi phí nuôi trên đầu con nhanh chóng.
Xem bảng để thấy được các hạng mục ảnh hưởng đến giá nuôi của con tôm cho DOC 50

Tổng chi phí nuôi cho DOC 50 ngày rơi vào từ 83,000 VND đến 89,000 VND trong đó tỷ lệ của các mục sẽ là:
Tôm giống: 7%
Thức ăn: 35%
Xử lý / thuốc: 32%
Lương: 8%
Điện: 14%
Vật tư khác (vận chuyển, công nhật): 4%

Giá bán tôm 50 con ngày hôm đó : 122,000 VND
Vậy lợi nhuận sẽ là 30% hoặc thấp hơn nếu trong bất cứ chỉ số nào chúng ta không chỉnh kịp thời.

Tôm hùm nhập tăng giá vù vù, tôm hùm Việt bán ra với mức giá thấp

Gần về cuối năm, giá tôm hùm Alaska nhập khẩu và tôm hùm Việt Nam đều tăng cao. Tuy nhiên, người nuôi tôm hùm thương phẩm tại nhiều địa phương ven biển cho rằng mức giá bán hiện nay vẫn thấp so với công sức và chi phí bỏ ra.

Nếu như khoảng 1 tháng trước đây, giá tôm hùm Alaska nhập khẩu dao động từ 950.000 – 1.100.000 đồng/kg với tất cả các size từ 0,5kg – 5kg thì hiện giá loại tôm này đã tăng 100.000 – 200.000 đồng/kg, lên 1.050.000 – 1.250.000 đồng/kg.

Trao đổi với chị Thanh Thủy, nhân viên tại một công ty nhập khẩu hải sản Canada tại Hà Nội, chị cho biết, khoảng 1 tháng trước đây giá tôm hùm Alaska công ty chị để cho các đại lý là 900.000 đồng/kg tất cả các size, thì hiện nay giá là 1.010.000 đồng/kg, còn bán lẻ ra ngoài là 1.060.000 đồng/kg.

Tôm hùm nhập tăng giá vù vù, tôm hùm Việt bán ra với mức giá thấp - 1

Càng về cuối năm giá tôm hùm Alaska càng tăng cao

“Từ giờ đến Tết giá tôm hùm Alaska sẽ còn tăng cao. Giá thay đổi theo mỗi đợt hàng về, nhưng chắc sẽ tăng lên khoảng 100.000 – 200.000 đồng/kg nữa. Hiện bên Trung Quốc đang tăng cường nhập khẩu tôm hùm Alaska với số lượng lớn, nhiều khi không có hàng để lấy. Mỗi tuần công ty tôi nhập 2 đợt, mỗi đợt không dưới nửa tấn, mà vừa rồi đợt Quốc khánh Trung Quốc còn không nhập được cân nào. Đợt Tết dương lịch sắp tới phải cạnh tranh gay gắt với bên Trung Quốc, không biết có nhập được hàng không nữa, trong khi nhiều đại lý ở các tỉnh đã đặt hàng số lượng lớn từ bây giờ. Vì vậy, giá tôm hùm Alaska từ nay đến cuối năm chỉ tăng chứ không giảm”, chị Thủy cho biết.

Trong khi giá tôm hùm nhập khẩu tăng cao thì giá tôm hùm thương phẩm trong nước cũng tăng, nhưng người nuôi tôm hùm tại nhiều địa phương ven biển cho rằng mức giá này vẫn thấp so với công sức và chi phí bỏ ra.

Trao đổi với chị Thu Nga, một người bán tôm hùm thương phẩm tại Phú Yên, chị cho biết giá tôm hùm xanh hiện chị bán cho khách lẻ là 900.000 đồng/kg size 2-3 lạng; 1,1 triệu/kg size 4-5 lạng và gần 2 triệu/kg size 1kg đổ lên.

Tôm hùm nhập tăng giá vù vù, tôm hùm Việt bán ra với mức giá thấp - 3

Tôm hùm Việt tăng giá, nhưng vẫn thấp hơn giá cùng kỳ năm ngoái 200.000- 300.000 đồng/kg

“Mấy hôm nay tôm hùm bắt đầu lên giá, size từ 1kg trở lên trước chỉ 1,3 triệu/kg thì giờ đã lên gần 2 triệu/kg rồi. Các size khác tăng từ 100.000 – 200.000 đồng/kg. Sắp tới giá tôm sẽ còn tăng nữa”, chị Nga cho biết.

Tuy nhiên, theo chị Nga, hầu như người nuôi tôm hùm thương phẩm tại Phú Yên không nuôi tôm lâu vì các thương lái không mua tôm size từ 4 lạng trở lên, hoặc nếu mua sẽ ép giá xuống thấp, trong khi càng nuôi lâu thì chi phí thức ăn sẽ càng tăng cao.

Chính vì vậy, tôm hùm cứ được 2-3 lạng là người nuôi thu hoạch hết để bán. Lượng tôm size từ 1kg trở lên rất hiếm. “Giá tôm hùm đang tăng, nhưng vẫn thấp hơn năm ngoái từ 200.000 – 300.000 đồng/kg, không bõ gì so với công sức và chi phí bỏ ra!”, chị Nga nhận định.

Khảo sát giá tôm hùm xanh tại các cửa hàng hải sản tại Hà Nội, size từ 0,2 – 0,89kg/con được bán với giá 1,5 – 1,7 triệu/kg; size từ 0,9 – 1,15 kg/con giá từ 2 – 2,350 triệu/kg; size 1,16 – 1,69kg/con giá 2,5 – 2,7 triệu/kg; size 1,7 – 2kg giá từ 3 – 3,2 triệu/kg.

Xử lý nước thế nào hiệu quả

Cách xử lý nước trước khi thả tôm giống an toàn
Thứ hai – 29/05/2017 15:38
Xử lý nước trước khi thả tôm rất quan trọng vì chỉ cần xử lý không đúng cách có thể ảnh hưởng cả vụ nuôi, cách xử lý nước trước khi thả tôm phải tuần tự hợp lý mới có thể giúp giống phát triển an toàn, khỏe mạnh.

Tại sao phải xử lý nước trước khi thả tôm?
– Vì Mầm bệnh gây hại còn xót lại ở vụ nuôi trước đó có thể gây hại cho tôm giống

– Mầm bệnh từ nguồn nước được cấp vào ao nuôi nếu không xử lý sẽ vô cùng nguy hiểm.

– Bên cạnh đó việc xử lý nước còn tạo nguồn thức ăn tự nhiên giúp tôm phát triển nhanh chóng trong giai đoạn đầu, giảm chi phí thức ăn từ đó tăng lợi nhuận.

Xử lý mầm bệnh trong nước ao nuôi
– Bước 1: Cấp nước vào ao lắng qua túi lọc bằng vải dày nhằm loại bỏ rác, ấu trùng, tôm, cua, còng, ốc, côn trùng, cá tạp. Để lắng 3 – 7 ngày.

– Bước 2: Kích thích trứng tôm, ốc, côn trùng, cá tạp nở thành ấu trùng bằng cách chạy quạt nước liên tục 2 – 3 ngày.

chay quat nuoc de au trung no

– Bước 3: Sử dụng Chlorine nồ độ 20-30 ppm (20-30kg/1.000m3 nước) để diệt tạp, diệt khuẩn nước ao lắng vào buổi sáng (khoảng 8h) hoặc buổi chiều ( khoảng 16h). Ngoài ra có thể sử dụng một số hoá chất có thể dùng để diệt tạp, diệt khuẩn nước:

+ Thuốc tím (KMnO4): 20 – 50 kg/ha, tạt đều khắp ao và để ít nhất sau 24 giờ mới gây màu nước.

+ BKC (Benzalkonium Chlorinde) ≥ 50%: là 3 – 5ppm (30 – 50kg/ha).

+ Hợp chất Iodine ≥ 10%: 1 – 3 lít/1.000 m3 nước.

Lưu ý: Chỉ sử dụng một trong các hoá chất: hoặc thuốc tím, hoặc Chlorine , hoặc BKC, hoặc Iodine. Nếu sử dụng Chlorine để diệt trùng thì trước đó từ 3 – 5 ngày không nên sử dụng vôi vì vôi làm tăng pH, giảm khả năng diệt trùng của Chlorine.

– Bước 4: Quạt nước liên tục trong 10 ngày để phân hủy dư lượng Chlorine. Kiểm tra dư lượng chlorine trong nước bằng thuốc thử.

– Bước 5: Thả cá rô phi vào ao chứa: 50kg cá rô phi đơn tính, cở cá 50gr/con/3.000m2.

– Bước 6: Lấy nước từ ao chứa đã được xử lý vào ao nuôi qua túi lọc.

Lưu ý:

+ Đối với ao chứa duy trì nuôi cá rô phi liên tục trong suốt quá trình.

+ Không lấy nước vào ao khi: (1) nước ngoài kênh/mương có nhiều váng bọt, màng nhầy, nhiều phù sa; (2) nguồn nước nằm trong vùng có dịch bệnh; (3) nước có hiện tượng phát sáng vào ban đêm.

Gây màu nước trong ao trước khi thả giống.
– Ở bước này bà con có thể xem bài viết cách gây màu nước trong ao nuôi tôm để gây màu nước phù hợp cho sự sinh trường và phát triển của tôm giống.

Chúc bà con xử lý nước trước khi thả tôm thành công và có vụ nuôi thắng lợi!

Trung Quốc miễn thuế bột cá, tôm giống bố mẹ của Mỹ

Trung Quốc sẽ miễn thuế sản phẩm bột cá và tôm giống bố mẹ của Mỹ trong đợt miễn thuế đầu tiên kể từ khi cuộc chiến thương mại giữa hai quốc gia diễn ra.

Theo thông báo của Hội đồng nhà nước Trung Quốc, từ ngày 17/9/2019, Trung Quốc sẽ miễn thuế bổ sung đối với hai sản phẩm NK này cùng với 14 hàng hóa khác của Mỹ trong vòng 1 năm. Động thái này được đưa ra khi các cuộc đàm phán thương mại giữa 2 cường quốc kinh tế đang được khởi động lại trong thời gian này.

Theo số liệu của Hải quan Trung Quốc, Trung Quốc đã NK 102.731 tấn bột cá Mỹ, trị giá 160 triệu USD trong năm 2017. Do đó, Mỹ trở thành nhà cung cấp nguyên liệu lớn thứ 3 của Trung Quốc sau Peru và Việt Nam.

Hai sản phẩm được miễn thuế: bột cá và tôm bố mẹ được giao dịch thương mại với các mã HS lần lượt là 23012010 và 03063610.

Bột cá là một thành phần được sử dụng trong thức ăn chăn nuôi. Ngoài ra, bột cá cũng là một thành phần trong thức ăn thủy sản. Tôm bố mẹ Hawaii được các trại giống tôm nuôi để sản xuất hậu ấu trùng và sẽ được nuôi ở các trang trại nuôi tôm của Trung Quốc.

Việc miễn thuế bột cá là tin vui cho các công ty khai thác Alaska, nơi sản xuất bột cá trắng từ thịt vụn cá minh thái, cá tuyết, cá bơn và các loại cá thịt trắng khác. Cá nhà sản xuất bột cá trắng phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường Trung Quốc, nơi sản phẩm này được tiêu thụ nhiều bởi những người nuôi cá chình. Trong khi đó, các nhà sản xuất bột cá đỏ từ cá mòi dầu khai thác ở bờ biển phía Đông của Mỹ có nhiều thị trường tiêu thụ thay thế hơn.

Theo thông báo của Hội đồng Nhà nước Trung Quốc, các nhà NK Trung Quốc đã nộp thuế có thể nộp đơn xin hoàn trả trong 6 tháng tới. Hội đồng Nhà nước cho biết thuế quan ban đầu được ban hành để đáp trả “Cuộc điều tra theo điều 301” của Mỹ