Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Quản Lý Nuôi

Hướng dẫn thiết kế ao nuôi tôm công nghiệp đúng chuẩn

Thiết kế ao nuôi tôm công nghiệp là bước quan trọng, quyết  định đến 99% sự thành bài của vụ nuôi. Bài viết này sẽ hướng dẫn bà con cách thiết kế ao nuôi tôm mới nhất năm 2020, đang được nhiều hộ nuôi áp dụng cho năng suất cao.

Quy trình thiết kế ao nuôi tôm công nghiệp

1. Khảo sát mặt bằng ao nuôi tôm

Khảo sát mặt bằng là bước đóng vai trò quan trọng, giúp người nuôi dễ nhận định được những khó khăn và thuận lợi khi tiến hành thiết kế ao nuôi tôm công nghiệp.

  • Chọn vị trí ao nuôi đảm bảo an toàn, tiện lợi dễ dàng tháo cấp nước.
  • Mặt bằng phải phẳng, tạo điều kiện thuận lợi khi cải tạo ao.
  • Vị trí thuận tiện cho việc  chăm sóc, vận chuyển giai đoạn nuôi  sang ao tôm thương phẩm.
Thiết kế ao nuôi tôm công nghiệp

Mặt bằng ao nuôi đảm bảo bằng phẳng, vị trị địa lý thuận lợi

2. Chọn quy trình nuôi

Ở bài viết này, Dr.Tom sẽ hướng dẫn bà con thiết kế ao nuôi tôm công nghiệp vào quy trình nuôi tôm 2 giai đoạn công nghệ SERMI-BIOFLOC.

Loại 1:

  • 01 ao lắng thô, 01 ao sẵn sàng, 02 ao xử lý.
  • 02 ao ương: 100m2, 04 ao nuôi: 900m2.

+> Tỉ lệ sống: 85%

+>  Mật độ nuôi: 300 con/m2.

+> Địa điểm: Nơi có nguồn nước tốt, đường rộng và có điện.

Loại 2:

  • 1 ao lắng thô, 1 hệ thống xử lý, 2 ao sẵn sàng.
  • 1 ao ương: 300m2, 2 ao nuôi: 1200m2.

+> Tỉ lệ sống: 85%

+>  Mật độ nuôi: 300 con/m2.

3. Thiết kế ao nuôi tôm công nghiệp

— Một hệ thống ao nuôi cần được thiết kế đầy đủ ao lắng thô, ao sẵn sàng, ao xử lý, ao ương và ao nuôi tôm. Thiếu một trong những ao này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nước ao tôm.

— Ao ương thiết kế có mái che nhà kính đầy đủ là tốt nhất.

— Hệ thống ao nuôi phải đảm bảo có hệ thống xi phong tự động, hệ thống quạt nước và oxy dưới ao. Hầu hết các ao được thiết kế dạng tròn để dễ dàng gom chất thải. Lưu ý đặt quạt nước không quá mạnh để cho chất hữu cơ có thời gian lắng tụ và đặc biệt là oxy trong ao phải đầy đủ.

Xem chi tiết => Xi phong đáy ao là gì? Các loại hình xi phông phổ biến năm 2020

— Trong trường hợp ao nuôi bị nhiễm EHP thì bước khử trùng cần được thực hiện cẩn thận. Lựa chọn phương pháp khử trùng thích hợp cho lần nuôi tiếp theo. Dr.Tom khuyến cao, nên sử dụng NaOH nồng độ > 0.5N để khử trùng bể bê tổng hoặc bể lót bạt HDPE. Sử dụng CaO để khử trùng ao đất với tỉ lệ 0.5 – 1kg cho 1m2. Bên cạnh đó, cần tiến hành xét nghiệm PCR Pockit để xem tôm giống có bị nhiễm EHP không trước khi nuôi.

* Sơ đồ ao nuôi loại 1:

Mô hình ao nuôi tôm công nghiệp 

Mô hình ao nuôi tôm công nghiệp 02 ao ương: 100m2, 04 ao nuôi: 900m2

4. Quy trình xử lý nước

  • Đầu tiên nước được lấy từ sông lúc triều cường cao nhất đưa vào ao lắng thô qua lưới lọc để cho phù sa lắng tự nhiên.
  • Tại ao lắng thô ta sẽ bơm nước qua hệ thống xử lý nước nhanh và châm thuốc tím từ 5-10ppm theo máy định lượng châm trực tiếp vào đường ống.
  • Sau đó nước sẽ được chảy tràng qua ao xử lý qua túi lọc mịn và bơm clorine trực tiếp vào đường ống đ nồng độ 30ppm để diệt khuẩn (chú ý pH phải thấp)..
  • Kiểm tra nồng độ clorine nếu còn clorine ta có thể trung hòa bằng Natrithiosunfat đảm sau khi ổn sẽ cấp vào ao sẳn sàng qua lưới lọc sau đó xử lý EDTA nồng độ 5-10ppm để lắng tụ các kim loại nặng, tiếp tục xử lý các yếu tố môi trường như bằng Dolomit, soda lạnh (kiềm 180mg/l) khoáng chất cho phù đạt hàm lượng thích hợp cho tôm nếu nước để lâu mới cấp vào ao  nên diệt khuẩn lại bằng clorine nồng độ 2ppm sau đó mới sử dụng.
  • Sau khi đã xử lý nước phù hợp các chỉ tiêu môi trường nuôi tôm thẻ, tiến hành cấp vào ao ương qua hệ thống lọc than hoạt tính vì tôm giai đoạn nhỏ nên phải đảm bảo nước được sạch và khi khử clorine có thể sinh ra các phức hợp gây độc cũng như kim loại nặng nên lọc qua than hoạt tính một lần nữa. Sau đó cấy vi sinh và gây màu nước và tiến hành ương giống.
Hệ thống xử lý nước ao nuôi tôm công nghiệp

Hệ thống xử lý nước ao nuôi tôm công nghiệp

  • Các yếu tố môi trường
Yếu tố Khoảng thích hợp
Độ trong (cm) 30 – 45
Màu nước Vàng nâu,xanh nhạt
Độ mặn (‰) 10 – 25
Độ kiềm (mgCaCO3/L) 120-180
Ca Tùy theo độ mặn
Mg Tùy theo độ mặn
Kali Tùy theo độ mặn
Nhiệt độ oC 25-30
pH 7,5 – 8,5
CO2 (mg/L) 1 – 10
O2 (mg/L) 5 – 10
Độ cứng (mgCaCO3/L) 80 – 120
NH3/NH4 (mg/L) <0,1
NO2 Tùy theo độ mặn
H2S (mg/L) <0,03
Fe (mg/L) 0
Chlorophyll-a (ug/L) 50 – 200

Dự tính chi phí ao nuôi tôm công nghiệp

Dr.Tom sẽ hướng dẫn người nuôi hạch toán chi phí 01 ao nuôi cho mô hình nuôi loại 2:

+ 1 ao lắng thô, 1 hệ thống xử lý, 2 ao sẵn sàng.

+ 1 ao ương: 300m2, 2 ao nuôi: 1200m2.

Mật độ 300 con/m2
Diện tích 1.200 m2
Độ sâu 1.5 m
Thể tích 1.200 m3
Tổng Thả 360.000 pl
Tỉ lệ sống 85%
FCR 1.3
Tổng lượng thức ăn 13.260 kg
Thay nước 30%/ngày
Tổng lượng nước xử lý 32.400 khối
Số lượng thu 10.200 kg
Size Thu 30 con/kg
Gía 150.000 kg (size 30con/kg)
Doanh Thu 1.530.000.000
Chi Phí 530.060.000
Lợi Nhuận 999.940.000

Đây là cách tính chi phí cho một ao nuôi tôm công nghiệp. Tùy vào mô hình ao nuôi, diện tích các ao nuôi thương phẩm, mật độ thả mà chi phí và lợi nhuận sẽ khác nhau. Dr.Tom khuyến khích bà con áp dụng chuỗi sản phẩm Scienchain vào quá trình nuôi.
Nguồn : https://drtom.vn/

Thông tin về ký sinh trùng gây chậm lớn trên tôm – EHP

EHP là gì?

EHP là chữ viết tắt của cụm từ Enterocytozoon hepatopenaei, đó là một loại ký sinh trùng vi khuẩn nấm (fungal microsporidian parasite) gây nhiễm trùng gan tụy trên tôm sú (Penaeus monodon) và tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) ở Thái Lan và dẫn đến làm tôm chậm phát triển và có thể dẫn đến tình trạng nhiễm trùng mãn tính (một bệnh gọi là bệnh mãn tính có nghĩa là bệnh tiến triển kéo dài hoặc hay tái phát, thời gian bị bệnh thường rất lâu. Bệnh mãn tính không thể ngừa bằng vắc xin, không thể chữa khỏi hoàn toàn và cũng không tự biến mất). EHP cũng được biết đến tại các quốc gia có nuôi tôm như Brunei, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Philippines, Venezuela và Việt Nam.

Cơ chế nhiễm bệnh – vòng đời ký sinh trùng EHP

Tôm bị nhiễm bệnh do ăn phải bào tử ký sinh trùng EHP có trong nước ao nuôi, từ chất hữu cơ lắng tụ, do ăn thịt lẫn nhau hoặc từ thức ăn sống bị nhiễm sẵn EHP (chẳng hạn như giun nhiều tơ – polychaetes; động vật thân mềm – chẳng hạn như mực, Artemia đông lạnh, v.v. những loại thức ăn trên dược dùng nhiều trong các trại sản xuất giống).

Bên trong hệ thống gan tụy các bào tử EHP được kích hoạt, giải phóng sợi cực của chúng và tiêm trực tiếp bào tử ký sinh trùng vào tế bào. Các bào tử tăng sinh trong hệ thống gan tụy, trưởng thành và sau đó được giải phóng trở lại vào ruột làm tổn thương tế bào ruột. Sau đó các bào tử bong ra và theo phân thải ra môi trường ngoài.

Ảnh hưởng của EHP đến tốc độ tăng trưởng của tôm

EHP lây nhiễm vào các ống gan của tôm khiến các tế bào gan bị bong tróc và ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng tiêu hóa của tôm. Nếu tôm không thể tiêu hóa và cải thiện được tình trạng mô bị mất, tôm sẽ giảm cảm giác thèm ăn, ăn chậm và dẫn đến chậm tăng trưởng.

Nhận biết tôm bị nhiễm EHP bằng phương pháp cảm quan

Tôm bị nhiễm EHP có thể nhận biết bằng phương pháp cảm quan do có lớp biểu bì mỏng, cơ trắng do phản ứng với tình trạng stress vì nhiễm bệnh, có các đốm đen trên cuống mắt, trong mô cơ và dọc theo ruột sau.

EHP phát triển nhanh như thế nào?

  • Tốc độ phát triển nhanh hay chậm của bệnh EHP phụ thuộc nhiều vào việc quản lý trang trại, tần suất thay nước nhiều hay ít và chất lượng thức ăn.
  • Một trong những thách thức lớn nhất cho vấn đề lây nhiễm EHP là tại các trang trại sử dụng hệ thống tuần hoàn nước qua các ao. Điều này có nghĩa là nước nhiễm EHP được giữa lại để sử dụng cho trong hệ thống tuần hoàn.
  • Tôm sạch bệnh (SPF) bị nhiễm bệnh trong vòng 2 tuần khi sống chung với tôm bị nhiễm bệnh. Tôm có thể bị nhiễm bệnh trong vòng một tuần khi cho ăn tôm bị nhiễm EHP và trong vòng 15 ngày khi tiếp xúc với đất ao. Đối với ao đất không có hệ thống xả thải hoặc loại bỏ mùn bả hữu cơ tích tụ ở đáy ao, quá trình nhiễm trùng có thể diễn ra rất nhanh.
  • Kiểm tra PCR tôm post cho kết quả âm tính nhưng bầy tôm bị nhiễm 20-30% trong hệ gan tụy có thể bị bệnh phân trắng trong 65-79 ngày nuôi. Đối với kết quả PCR dương tính cùng với 50-60% nhiễm bệnh trong hệ gan tụy, khi chuyển vào ao có thể bị bệnh phân trắng trong vòng 30-44 ngày. Trường hợp kết quả PCR dương tính và cường độ cảm nhiễm cao từ 40-90% trong gan tụy có thể phát triển phân trắng trong vòng 14-20 ngày.

Làm cách nào để kiểm tra xem tôm có bị nhiễm EHP không?

  • Kiểm tra bằng kính hiển vi với độ phóng đại 100 với dầu soi đối với gan và ruột tôm
  • Kiểm tra gan tôm bằng phương pháp PCR tại các phòng thí nghiệm. Mẫu tôm có thể được cho vào ethanol (cồn) và gửi đến phòng thí nghiệm ngay sau đó.
  • Đối với tôm bố mẹ có thể kiểm tra phân tôm bằng phương pháp PCR.
  • Việc kiểm tra sức khỏe và tốc độ tăng trưởng của tôm nên được thực hiện thường xuyên bằng cả phương pháp cảm quan và xét nghiệm nhanh tại các phòng lab. Những dấu hiệu căn bản sau đây có thể giúp người nuôi dự đoán khả năng bầy tôm của mình đã nhiễm EHP:
    • Chậm lớn so với mức độ thông thường mà tôm có thể đạt được sau một thời gian nuôi nhất định.
    • Kém ăn, sức ăn không tăng sau nhiều ngày.
    • Số lượng giọt dầu trong gan giảm đáng kể.
    • Chậm lột xác và không lớn đáng kể sau lột xác.
    • Số lượng các ống gan bị xưng cũng có thể cho thấy tình trạng nhiễm bệnh đang ở mức độ nặng nhẹ như thế nào.

Làm cách nào để quản lý tốt và phòng tránh EHP?

  1. Đối với cơ sở nuôi tôm bố mẹ
  • Sử dụng thức ăn tươi sống đã được kiểm tra bằng PCR không bị nhiễm EHP.
  • Chỉ dùng tôm bố mẹ đã kiểm tra không nhiễm EHP
  1. Trong trại sản xuất giống
  • Ngâm bể và xử lý toàn bộ đường ống liên quan bằng dung dịch Sodium hydroxyt trong 3 giờ, sau đó để khô hoàn toàn trong vòng 07 ngày.
  • Việc nâng pH lên 9 có thể làm giảm đến 90% lượng bào tử EHP.
  • Thực hành an toàn sinh học một cách chặt chẽ
  • Kiểm tra bệnh trước khi thả vào các hệ thống ương nuôi trong các giai đoạn tiếp theo tại trại giống
  • Kiểm tra EHP thường xuyên tại các giai đoạn sản xuất gống.
  • Nếu tôm ăn ít hơn bình thường, hãy lấy mẫu và kiểm tra ngay EHP.
  • Sử dụng thức ăn chất lượng cao để tăng cường sức khỏe cho tôm
  1. Trong ao nuôi thịt
  • Đảm bảo sát trùng hiệu quả hệ thống cấp nước, bạt ao nuôi, nước cấp đầu vào và trang thiết bị dụng cụ trong hệ thống nuôi.
  • Chuẩn bị nước thời gian lâu hơn có thể làm giảm EHP.
  • Sử dụng giống tôm không nhiễm EHP được chắc chắn bằng các kiểm tra cảm quan và PCR.
  • Mua giống tôm tại các trại giống uy tín.
  • Loại bỏ vật chất hữu cơ, chất thải lắng tụ ra khỏi ao tôm một cách triệt để.
  • Nếu phát hiện bị nhiễn EHP hãy cho ăn thức ăn có hàm lượng protein dễ tiêu hóa cao và cho ăn ít hơn bình thường.
  • PAC có thể được dùng tại các ao lắng để giúp lắng tụ hữu cơ tốt và kéo theo việc giảm các bào tử EHP có trong nước.
  • Luôn sẵn sàng nước mới, sạch EHP để thay thế khi cần thiết.
  1. Giữa các chu kỳ nuôi (vụ nuôi)
  • Làm sạch đáy ao, loại bỏ hết mùn bả hữu cơ trong ao.
  • Sử dụng thuốc tím với liều lượng thấp nhất là 15 ppm (15kg/1.000 m3 nước) hoặc chlorine với liều lượng 40 ppm.
  • Đối với ao đất nên bón thêm với CaO với liều 6 tấn/ha để tăng pH từ 8 – 11 một cách nhanh chóng. Để thực hiện việc này, ao cần phơi khô trước, bón vôi, cày đáy ở độ sâu 10 – 12 cm để trộn đều vôi, sau đó cấp nước vào làm ẩm để kích hoạt vôi.
  • Xử lý nước trước khi thả với liều lượng 18g/m3 Calcium hypochlorite để loại bỏ giáp xác (nếu có)

Nguồn: “Fact sheet on Enterocytozoon hepatopenaei, a microsporidian parasite of shrimp” – enaca.org

Dịch bởi: KS. Nguyễn Thành Quang Thuận – VPAS JSC

“Hướng dẫn thực hành ATSH trong sản xuất, ương dưỡng giống tôm nước lợ”

 Đây là tài liệu được Tổng cục Thủy sản ban hành nhằm cung cấp kiến thức về thực hành ATSH cho các cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống tôm nước lợ; đồng thời, hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát các cơ sở này.

Theo đó, Tổng cục Thủy sản đã hướng dẫn cách nhận diện mối nguy gây mất ATSH trong sản xuất, ương dưỡng giống tôm nước lợ và một số yêu cầu ATSH đối với điều kiện các cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống tôm nước lợ.

Trong đó, về yêu cầu ATSH, các cơ sở ương sản xuất, ương dưỡng giống tôm nước lợ cần tuân thủ các yêu cầu về: lựa chọn địa điểm xây dựng cơ sở sản xuất, ương dưỡng; cơ sở hạ tầng của cơ sở sản xuất, ương dưỡng; khâu chuẩn bị thức ăn và bảo quản thức ăn cho tôm bố, mẹ và tôm giống; nhập kho, sử dụng và bảo quản các loại hóa chất, chế phẩm sinh học trong sản xuất, ương dưỡng giống tôm nước lợ; Yêu cầu về chương trình kiểm soát ATSH trong sản xuất, ương dưỡng; Phân công trách nhiệm kiểm soát ATSH trong sản xuất và ương dưỡng giống tôm nước lợ.

Tải thông tin chi tiết tài liệu “Hướng dẫn thực hành ATSH trong sản xuất, ương dưỡng giống tôm nước lợ”: Tại đây

Phương Ngọc – Thủy sản Việt Nam

Bùng phát dịch bệnh trên tôm

nhá tôm
Thời tiết nắng nóng kéo dài gây bất lợi cho tôm.

Hàng chục ha nuôi tôm nước lợ trên địa bàn Phú Yên bị bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp do thời tiết bất lợi, môi trường không đảm bảo…

Tôm bị bệnh đành thu non

Ông Nguyễn Văn Lâm, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và thú y Phú Yên, cho biết, từ đầu năm đến nay toàn tỉnh thả gần 870 ha tôm nước lợ.

Cụ thể, huyện Đông Hòa 255ha, huyện Tuy An 307ha và TX Sông Cầu 307ha. Tuy nhiên đã có hơn 45ha nuôi tôm thẻ chân trắng và tôm sú bị bệnh đốm trắng và hoại tử gan tụy cấp.

Ghi nhận tại vùng nuôi ở hạ lưu sông Bàn Thạch (Đông Hòa) ở vụ 1/2020, nhiều người nuôi bị thiệt hại do tôm bị bệnh.

Gia đình ông Trần Minh Chánh thả nuôi với diện tích khoảng 1,4 ha tôm chân trắng tại vùng nuôi thuộc thôn Đa Ngư, xã Hòa Hiệp Nam. Mặc dù đã cải tạo ao và chọn giống có nguồn gốc để thả, song tôm nuôi vẫn xảy ra dịch bệnh.

Ông Chánh cho biết, ban đầu thả giống do gặp thời tiết nắng nóng nên tôm chậm phát triển. Đến 1,5 tháng, tôm nuôi có dấu hiệu bị bệnh như bỏ ăn, bơi lờ đờ nên gia đình đã mua thuốc để điều trị. Song tôm bị bệnh không thuyên giảm, vẫn chết nhiều nên gia đình đành thu non.

“Vụ nuôi này gia đình tôi lỗ vốn hàng chục triệu đồng”, ông Chánh nói.

Hộ nuôi gần bên ông Chánh là gia đình ông Nguyễn Tuấn cũng bị thiệt hại do tôm bị bệnh. Ông Tuấn cho biết, gia đình thả hơn 1 ha tôm. Nuôi gần 2 tháng thì tôm bị bệnh rồi chết dần chết mòn. Thấy vậy, gia đình đành thu hoạch non, ước thiệt hại khoảng 50 triệu đồng.

Còn ông Nguyễn Bảy, một người nuôi tôm ở xã Hòa Tâm (Đông Hòa) cho biết, đa số người nuôi tôm vụ 1/2020 ở vùng nuôi hạ lưu sông Bàn Thạch đều không thành công. Bởi tôm nuôi không phát triển.

Gia đình ông Bảy có 2 ao, với tổng diện tích thả nuôi gần 1,6 ha. Nhưng sau 3 tháng thả nuôi thu hoạch chỉ hòa vốn, dù tôm không bị bệnh. Nguyên nhân có thể thời tiết bất lợi, nắng nóng kéo dài khiến tôm sinh trưởng và phát triển kém, chậm lớn.

Tại huyện Tuy An, từ đầu năm đến nay, người dân đã thả nuôi hơn 300ha tôm thẻ chân trắng và tôm sú. Tuy nhiên đến nay, hơn 26ha tôm tại vùng nuôi xã An Ninh Đông, An Ninh Tây và An Cư bị bệnh và mất trắng.

Phải tuân thủ khuyến cáo

Trước tình hình tôm bị bệnh, Chi cục Chăn nuôi và thú y đã tổ chức kiểm tra, hướng dẫn địa phương và người nuôi thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh. UBND tỉnh đã phân bổ 21 tấn hóa chất Sodium Chlorite 20% cho các địa phương để sát trùng phòng chống dịch bệnh trên thủy sản nuôi.


Cơ quan chức năng khuyến cáo người nuôi cần tuân thủ các quy định trong nuôi trồng thủy sản.

Về nguyên nhân xảy ra dịch bệnh trên tôm nuôi, ông Lâm cho rằng do thời tiết bất lợi, môi trường biến động làm sức đề kháng của thủy sản nuôi suy giảm, tạo điều kiện cho mầm bệnh xâm nhập gây bệnh.

Bên cạnh đó, môi trường nhiều vùng nuôi trên địa bàn bị suy thoái, ô nhiễm bởi chất thải hữu cơ tích tụ, tồn động trong vùng nuôi không được rửa trôi.

Ngoài ra, ý thức một số hộ nuôi còn kém, chưa có sự đoàn kết trong công tác bảo vệ môi trường, chưa quan tâm đến việc kiểm dịch con giống, chưa chấp hành các khuyến cáo của cơ quan quản lý chuyên ngành.

“Khi dịch bệnh xảy ra, nhiều hộ nuôi không báo cáo cho cơ quan chức năng mà tự ý thu hoạch và không xử lý mầm bệnh trước khi xả thải ra môi trường làm lây lan dịch bệnh”, ông Lân nói và cho biết thêm, hiện nay nhiều vùng nuôi có hệ thống công trình nuôi không đảm bảo yêu cầu về phòng chống dịch bệnh.

Hầu hết không có ao lắng, ao xử lý nước cấp, lấy nước trực tiếp từ ngoài vào ao nuôi, hệ thống cấp thoát nước chưa riêng biệt… cũng là một trong những nguyên nhân khiến dịch bệnh trên tôm nuôi diễn biến phức tạp.

Ông Nguyễn Tri Phương, PGĐ Sở NN-PTNT Phú Yên lưu ý các địa phương cần tăng cường tuyên truyền, vận động người nuôi thực hiện đúng các quy định trong nuôi trồng thủy sản. Đồng thời có khuyến cáo kịp thời để công tác phòng chống dịch bệnh cho thủy sản nuôi đạt hiệu quả.

Về phía Sở NN-PTNT đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc phối hợp với các địa phương tổ chức tập huấn cho người nuôi về công tác phòng chống dịch bệnh cho động vật thủy sản. Cũng như giám sát, nắm bắt thông tin tình hình dịch bệnh thủy sản để kịp thời hướng dẫn, hỗ trợ hóa chất sát trùng xử lý, khống chế dịch bệnh nhằm tránh lây lan…

Ngọc Chung – Kim Sơ Nông nghiệp Việt Nam

Dịch bệnh trên tôm nuôi diễn biến phức tạp

Tôm chết
Người nuôi tôm ở xã Hòa Hiệp Nam (huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên) kiểm tra và vớt tôm chết lên bờ để xử lý. Ảnh: ANH NGỌC

Từ đầu năm đến nay, diện tích thả nuôi tôm nước lợ trên địa bàn tỉnh gần 870ha chủ yếu ở các huyện Đông Hòa, Tuy An và TX Sông Cầu. Tuy nhiên, do thời tiết bất lợi, nắng nóng kéo dài và một số vùng nuôi không đảm bảo môi trường nên tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi diễn biến phức tạp.

Hiện Sở NN-PTNT phối hợp với các địa phương triển khai các giải pháp nhằm tránh lây lan và khuyến cáo người nuôi cần xử lý kỹ ao nuôi trước khi thả nuôi vụ 2/2020.

Hơn 45ha tôm nuôi bị bệnh

Vụ 1/2020, gia đình ông Trần Minh Chánh ở xã Hòa Hiệp Nam (huyện Đông Hòa), thả nuôi tôm với diện tích khoảng 1,4ha tại vùng nuôi thuộc thôn Đa Ngư, xã Hòa Hiệp Nam. Dù ông đã cải tạo, xử lý hồ nuôi rất kỹ và chọn mua con giống ở cơ sở có uy tín nhưng bệnh trên tôm nuôi vẫn xảy ra. Ông Chánh cho biết: Lúc mới thả tôm giống, thời tiết bất lợi làm tôm chậm phát triển. Đến khoảng một tháng rưỡi, tôm nuôi có dấu hiệu bị bệnh nên gia đình đã mua thuốc để điều trị. Tuy nhiên, tôm không khỏi bệnh mà bắt đầu chết dần nên phải thu hoạch tôm non. Vụ nuôi này chúng tôi lỗ vốn hơn 20 triệu đồng…

Còn theo ông Nguyễn Bảy, người nuôi tôm ở xã Hòa Tâm (huyện Đông Hòa), ở vùng nuôi hạ lưu sông Bàn Thạch (huyện Đông Hòa), đa số người nuôi tôm vụ 1/2020 đều không thành công, bởi tôm nuôi không phát triển. “Gia đình tôi thả nuôi 2 hồ với diện tích gần 1,6ha, nhưng sau gần 3 tháng nuôi đến khi thu hoạch chỉ hòa vốn, dù tôm nuôi không bị bệnh. Nguyên nhân có thể là thời điểm thả tôm giống gặp thời tiết bất lợi, sức đề kháng của tôm bị yếu nên tôm nuôi không lớn”, ông Bảy nói.

Tại huyện Tuy An, từ đầu năm đến nay, người dân địa phương này đã thả nuôi hơn 300ha tôm thẻ chân trắng và tôm sú. Do thời tiết bất lợi cộng với môi trường nước tại một số vùng nuôi không đảm bảo nên dịch bệnh trên tôm nuôi đã bùng phát tại một số vùng nuôi thuộc các xã An Ninh Đông, An Ninh Tây và An Cư. Đến nay, hơn 26ha tôm nuôi bị bệnh và mất trắng.

Ông Nguyễn Văn Lâm, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và thú y (Sở NN-PTNT) cho biết: Từ đầu năm đến nay, diện tích thả nuôi tôm nước lợ trên địa bàn tỉnh gần 870ha, trong đó huyện Đông Hòa 255ha, huyện Tuy An 307ha, TX Sông Cầu 307ha. Đến nay, ở Phú Yên đã có hơn 45ha nuôi tôm thẻ chân trắng và tôm sú bị bệnh (Tuy An 26,2ha, Đông Hòa 18,1ha, Sông Cầu 0,7ha). Các loại bệnh xảy ra trên tôm nuôi chủ yếu là đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp. Chi cục Chăn nuôi và thú y đã tổ chức kiểm tra tình hình dịch bệnh và công tác phòng chống tại các huyện, thị xã để đôn đốc, hướng dẫn địa phương và người nuôi thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh. UBND tỉnh đã phân bổ 21 tấn hóa chất Sodium Chlorite 20% cho các địa phương để sát trùng phòng chống dịch bệnh trên thủy sản nuôi.

Không để dịch bệnh lây lan

Theo ông Nguyễn Văn Lâm, nguyên nhân xảy ra dịch bệnh trên tôm nuôi là do thời tiết bất lợi, môi trường biến động làm sức đề kháng của thủy sản nuôi suy giảm, tạo điều kiện cho mầm bệnh xâm nhập gây bệnh. Mặt khác, hiện môi trường nhiều vùng nuôi ở Phú Yên bị suy thoái, ô nhiễm bởi chất thải hữu cơ tích tụ, tồn động trong vùng nuôi không được rửa trôi. Kết quả quan trắc môi trường của Trung tâm Giống nông nghiệp Phú Yên từ đầu năm đến nay cho thấy, các chỉ tiêu thủy lý, thủy hóa phản ánh mức độ ô nhiễm môi trường nước tại các vùng nuôi tôm nước lợ ở Phú Yên đều vượt ngưỡng giới hạn cho phép. Ngoài ra, hoạt động của các tổ cộng đồng nuôi tôm còn nhiều hạn chế, ý thức một số hộ nuôi còn kém, chưa có sự đoàn kết trong công tác bảo vệ môi trường, chưa quan tâm đến việc kiểm dịch con giống, chưa chấp hành các khuyến cáo của cơ quan quản lý chuyên ngành.

“Khi dịch bệnh xảy ra, nhiều hộ nuôi không báo cáo cho cơ quan chức năng mà tự ý thu hoạch và không xử lý mầm bệnh trước khi xả thải ra môi trường làm lây lan dịch bệnh. Thêm vào đó, hiện nay, nhiều vùng nuôi có hệ thống công trình nuôi không đảm bảo yêu cầu về phòng chống dịch bệnh, hầu hết không có ao lắng, ao xử lý nước cấp, lấy nước trực tiếp từ ngoài vào ao nuôi, hệ thống cấp thoát nước chưa riêng biệt… cũng là một trong những nguyên nhân khiến dịch bệnh trên tôm nuôi diễn biến phức tạp”, ông Lâm nói.

Ông Nguyễn Tri Phương, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT cho biết: Thời gian đến, các địa phương có nuôi thủy sản trên địa bàn tỉnh cần tăng cường tuyên truyền, vận động người nuôi thực hiện đúng các quy định trong nuôi trồng thủy sản và có khuyến cáo kịp thời để công tác phòng chống dịch bệnh cho thủy sản nuôi đạt hiệu quả. Sở NN-PTNT đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc phối hợp với các địa phương tổ chức tập huấn cho người nuôi về công tác phòng chống dịch bệnh cho động vật thủy sản; giám sát, nắm bắt thông tin tình hình dịch bệnh thủy sản để kịp thời hướng dẫn, hỗ trợ hóa chất sát trùng xử lý, khống chế ổ dịch triệt để, tránh lây lan. Đồng thời, các đơn vị này tiếp tục phối hợp với các địa phương tổ chức kiểm tra, kiểm soát giống thủy sản nhập về địa phương, xử lý nghiêm các trường hợp con giống không rõ nguồn gốc, không có giấy chứng nhận kiểm dịch và xét nghiệm bệnh. Con giống trước khi thả nuôi phải được kiểm dịch, xét nghiệm bệnh nguy hiểm, người nuôi cần khai báo khi thủy sản nuôi bị dịch bệnh và thực hiện tốt các quy định về phòng chống dịch bệnh. Các địa phương cần có biện pháp xử lý nghiêm đối với các trường hợp xả thải ao nuôi thủy sản bị bệnh ra môi trường mà chưa xử lý làm lây lan dịch bệnh.

ANH NGỌC Báo Phú Yên

Hệ vi sinh đường ruột của tôm bị bệnh

Tôm bệnh.
Tôm bệnh.

Đặc điểm hệ vi sinh vật đường ruột của tôm bị bệnh.

Những năm qua tình hình dịch bệnh trên tôm xuất hiện ngày càng nhiều do thời tiết thay đổi thất thường tôm thường mắc một số bệnh như đốm trắng, hoại tử gan tụy, đỏ thân, bệnh còi, bệnh phân trắng cũng đã gây thiệt hại nặng nề đến kinh tế của người nuôi.

Trên thế giới một số nghiên cứu đã được tiến hành trên đối tượng là hệ vi khuẩn đường ruột trong tôm thẻ chân trắng. Thành phần vi khuẩn đã được làm sáng tỏ bởi nhiều nhóm nghiên cứu (Qiao et al., 2017; Suo et al., 2017)  trong đó có sự thay đổi về thành phần vi khuẩn trong ruột tôm qua các giai đoạn sinh trưởng (Huang et al., 2014) và so sánh về thành phần vi khuẩn giữa mẫu ruột tôm bệnh và tôm thường (Yang et al., 2016). Kết quả của các nghiên cứu đã chỉ ra sự biến động, thay đổi về trật tự sắp xếp của các nhóm chiếm ưu thế.

Hệ vi khuẩn đường ruột là một hệ sinh thái phức tạp với nhiều chức năng đối với vật chủ. Sự ổn định của hệ vi khuẩn đường ruột ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và sức khoẻ của hệ miễn dịch. Ngược lại, trong quá trình phát triển của sinh vật chủ, hệ vi khuẩn đường ruột cũng chịu sự tác động dẫn tới thay đổi cấu trúc về thành phần và mức độ đa dạng theo độ tuổi của vật chủ (Fraune, Bosch, 2010; Li et al., 2017). Do đó, nỗ lực khám phá thành phần và mức độ đa dạng của các hệ vi khuẩn đường ruột là cần thiết để có thể hiểu được mối liên hệ cũng như sự tương tác giữa hệ vi khuẩn đường ruột với sức khoẻ, sức sinh trưởng cũng như trong các giai đoạn phát triển khác nhau của vật chủ.

Bên cạnh đó, rất nhiều các phương pháp đã được áp dụng trong nghiên cứu về thành phần hệ vi khuẩn như thư viện tạo dòng phân tử và phương pháp điện di biến tính (PCR- DGGE). Tuy nhiên các phương pháp này đã cho thấy nhược điểm về khả năng đánh giá tổng thể thành phần một hệ vi khuẩn. Trên cơ sở đó phương pháp giải trình tự thế hệ mới đã được phát triển để khắc phục những nhược điểm của phương pháp truyền thống trong việc nghiên cứu đồng thời các hệ vi khuẩn phức tạp dựa trên vùng gen 16S rRNA (Glenn, 2011; Sun et al., 2014).

Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá thành phần vi khuẩn trong ruột tôm thẻ chân trắng ba tháng tuổi giữa các đầm nuôi tôm bị bệnh, đầm nuôi tôm sinh trưởng kém và đầm nuôi tôm khoẻ mạnh. Kết quả của nghiên cứu này sẽ giúp dự đoán một số tác nhân có khả năng gây bệnh trên tôm thẻ chân trắng.

Mẫu tôm thẻ chân trắng nuôi tại các đầm nuôi bán thâm canh, là mẫu tôm tại 3 đầm nuôi 3 tháng tuổi được thu tại xã Lịch Hội Thượng (huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng) vào tháng 11 năm 2015 bao gồm: đầm nuôi bị bệnh chưa rõ nguyên nhân (ST4) , đầm nuôi tôm sinh trưởng kém (ST3), và đầm nuôi tôm khoẻ mạnh (ST1)

Từ kết quả so sánh trình tự gen 16S rRNA của các mẫu ruột tôm thu được tại các đầm nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) và nhóm đối chứng là một mẫu ruột tôm thu tại đầm nuôi tôm sú (Penaeus monodon) (ST-PM) và một mẫu mô cơ của tôm thẻ chân trắng (Mô cơ) với ngân hàng cơ sở dữ liệu (16S rRNA) Green genes, thành phần vi khuẩn trong ruột tôm các đầm nuôi tôm thẻ chân trắng đã được làm sáng tỏ.

Thông qua các kết quả phân tích đã làm chỉ ra thành phần và mức độ đa dạng của hệ vi khuẩn trong ruột tôm thẻ chân trắng giữa ba đầm nuôi tôm thẻ chân trắng sau 3 tháng nuôi. Các ngành chiếm ưu thế bao gồm Proteobacteria (49,3–57,4 %), Firmicutes (15,6–34,4%), Bacteroidetes (0,1–16,9%) trên tổng số toàn bộ các ngành có trong các mẫu ruột tôm thẻ chân trắng nghiên cứu. Rhizobium (0,4–26,1%), Vibrio (0–22,3%), Spongiimonas (0–16,7%) là các chi chiếm ưu thế trên tổng số các chi có trong các mẫu nghiên cứu. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, ở mức độ ngành, Fusobacterium (10%) là ngành được xếp vào nhóm tác nhân gây bệnh đã được tìm thấy chủ yếu trong mẫu ruột tôm ở đầm nuôi tôm thẻ chân trắng bị bệnh (ST4) so với hai mẫu ruột tôm thẻ chân trắng trong đầm tôm sinh trưởng kém (ST3) (0%) và đầm tôm thẻ chân trắng sinh trưởng bình thường (ST1) (0,6%).

Kết quả phân tích cũng góp phần dự đoán sự có mặt của các tác nhân có khả năng gây bệnh trên trên tôm ở mẫu ruột tôm bị bệnh (ST4) bao gồm: ngành Fusobacterium, chi Vibrio.

Các kết quả này chỉ ra rằng hệ vi khuẩn trong các mẫu tôm bị bệnh đã bị mất đi sự cân bằng giữa nhóm vi khuẩn có lợi và nhóm vi khuẩn có hại. Sự xuất hiện nhiều hơn của các nhóm vi khuẩn có khả năng gây bệnh được xem có sự liên quan tới sự mắc bệnh và gây chết trên tôm. Kết luận này phù hợp với kết quả phân tích biểu đồ Venn và phân tích mối tương quan giữa các mẫu thông qua biểu đồ PCA giữa mẫu bệnh ST4 và các mẫu còn lại.

Theo Trần Trung Thành, Nathan Bott, Lê Hoàng Đức, Đặng Thị Hoàng Oanh, Nguyễn Trung Nam, Chu Hoàng Hà – Tạp chí Công nghệ Sinh học .

NH Tổng Hợp

Tôm giống Đồng bằng sông Cửu Long: Mua 1 con, tặng 1/2 con!

Giống tôm thẻ
Giống tôm thẻ.

Dù chậm hàng tháng trời so với vụ tôm năm trước, nhiều người nuôi tôm lớn tại Đồng bằng sông Cửu Long vẫn chưa dám xuống giống tôm do thời tiết nắng nóng và xâm nhập mặn, khiến nhiều doanh nghiệp lo ngại nguy cơ thiếu tôm nguyên liệu.

Nhiều doanh nghiệp sản xuất tôm giống lần đầu tiên áp dụng chiêu thức khuyến mãi “Mua 1 tặng 1” với con giống nhưng vẫn không tiêu thụ được do người nuôi rất thận trọng với thời tiết, nhất là khi chính quyền địa phương cảnh báo rủi ro khi xuống giống tôm.

Tôm giống: “Mua 1, tặng 1”

Cả năm ao nuôi công nghiệp đã được cải tạo xong, nhưng ông Nguyễn Văn Mai (huyện Trần Đề, Sóc Trăng) vẫn chưa mạo hiểm mua con giống thả nuôi dù đã trễ hơn một tháng so với vụ trước, do thời tiết vẫn đang rất nắng nóng. “Nhiều người nuôi tôm cũng đang nóng ruột nhưng thời tiết này mà thả giống là quá nguy hiểm” – ông Mai cho biết.

Cách đó không xa, ao tôm của ông Mai Văn Thạnh cũng chưa được thả giống, dù mọi thứ đã sẵn sàng và đại lý bán con giống ngày nào cũng thúc hối cùng cam kết “khuyến mãi sâu”. Đã nuôi tôm gần 15 năm, nhưng đây là lần đầu tiên ông Thạnh thấy doanh nghiệp cung ứng con tôm giống có khuyến mãi “lạ đời” như hiện nay.

“Những năm trước, nhà cung cấp giống khuyến mãi hạ giá một vài đồng/con. Còn bây giờ, mua một con tặng nửa con, có công ty còn một tặng một. Người nuôi tôm vẫn muốn hạ giá chứ đừng khuyến mãi hình thức này, thả giống dày không hay” – ông Thạnh nói.

Bà Quách Thị Thanh Bình, phó chi cục trưởng Chi cục Thủy sản tỉnh Sóc Trăng, cho biết do sản xuất thành công với lượng con giống nhiều, trong khi người nuôi đang rất dè dặt thả giống nên các nhà sản xuất tôm giống tung chiêu khuyến mãi.

“Sóc Trăng mới thả nuôi tôm được khoảng 5.000ha, chiếm hơn 10% diện tích. Người dân rất thận trọng, đủ điều kiện mới thả giống” – bà Bình cho biết.

Nhiều người nuôi tôm tại Bến Tre cũng rất dè dặt khi xuống giống tôm vụ mới, do nguồn nước bị xâm nhập mặn khiến các vùng nuôi tôm nước lợ bị ảnh hưởng theo.

Ông Nguyễn Văn Lý (xã An Quy, huyện Thạnh Phú, Bến Tre) cho biết độ mặn lý tưởng để thả tôm khoảng 8-10 phần ngàn. Cao lắm cũng chỉ 12 phần ngàn nhưng hiện nay mọi nguồn nước ở đây đã vượt quá 20 phần ngàn.

“Nếu muốn nuôi lúc này phải pha loãng với nước ngọt cho giảm độ mặn mới dám thả giống nhưng sẽ rất tốn kém nên cứ treo vuông một thời gian để độ mặn giảm rồi tính tiếp” – ông Lý nói.

Tại các vùng chuyên nuôi tôm ở Bến Tre như huyện Ba Tri, huyện Bình Đại…, người dân cũng thả con giống rất ít. Xen lẫn giữa một vuông đang sục oxy là 2, 3 vuông đang bị trơ đáy, hệ thống cánh quạt tạo oxy nằm chỏng chơ hai bên bờ.

Nhiều nguy cơ thiếu nguyên liệu

Ông Hồ Quốc Lực, tổng giám đốc Công ty CP thực phẩm Sao Ta, nhận định vụ tôm năm nay nhiều thách thức, khó khăn. Ngoài tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, yếu tố đầu vào mọi thứ đều tăng, nắng nóng, hạn mặn khiến người nuôi nản lòng.

Theo ông Lực, lâu nay người nuôi tôm quen nguồn nước mặn thấp, nay mặn tăng đột ngột nên trở tay ứng phó chưa kịp.

Kinh nghiệm nuôi tôm công nghệ cao nhiều năm nên ông Lực nhận định độ mặn cao, kết hợp nắng nóng đã tác động đến hệ sinh thái, có một số bệnh trên tôm, mùa lạnh mới có, bây giờ xuất hiện luôn trong mùa nóng nắng.

“Nếu tiến độ thả nuôi chậm, người dân đắn đo chưa mạnh dạn thì nguy cơ thiếu nguyên liệu chế biến phục vụ xuất khẩu sẽ xảy ra” – ông Lực nhận định.

Ông Võ Quan Huy, chủ tịch Hiệp hội tôm Mỹ Thanh, cho biết chưa khi nào người nuôi tôm lại thận trọng thả giống như lúc này. “Sự thận trọng này cần thiết. Với diễn biến nước mặn cao như hiện nay, những hộ nuôi tôm hạ tầng kỹ thuật chưa tới không dám lấy nước vào, chưa nói chi phí xử lý nước tốn kém” – ông Huy nói.

Bà Quách Thị Thanh Bình cho rằng nắng nóng, hạn mặn tập trung trong tháng 4. Theo bà Bình, khi nắng nóng, độ mặn quá cao gặp nhau, cộng thêm chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm làm cho tôm dễ bị sốc nhiệt, mẫn cảm với các bệnh khác.

Ông Lương Minh Quyết, giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Sóc Trăng, cho biết đã khuyến cáo người dân không thả nuôi mật độ dày. “Địa phương đã kết hợp các viện, trường chuyển giao, tập huấn kỹ thuật phòng ngừa bệnh trên tôm trong giai đoạn nắng hạn, nước mặn cao” – ông Quyết cho biết.

Khuyến cáo người dân không vội xuống giống

Ông Nguyễn Văn Buội, phó giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Bến Tre, cho biết trước tình hình thời tiết bất lợi và thị trường đang có sự biến động, ngành nông nghiệp địa phương đã khuyến cáo người nuôi tôm nên chậm thả giống, rải đều chứ không thả tập trung vào một thời điểm để tránh rủi ro. Theo ông Buội, Bến Tre hiện có khoảng 35.000ha diện tích tôm nước lợ nhưng đến nay người dân mới chỉ thả giống khoảng 30%.

Về mặt giá cả, giá tôm cũng đang giảm. Dù đang mùa “thấp điểm” thu hoạch tôm nhưng giá tôm nguyên liệu có xu hướng giảm thời gian gần đây, với mức giảm từ 10.000-20.000 đồng/kg so với mức giá đầu tháng. Theo ông Hồ Quốc Lực, việc thu mua cũng như chế biến và xuất khẩu của doanh nghiệp vẫn diễn ra bình thường. Tuy nhiên, đây không phải là thời điểm tiêu thụ tôm mạnh, các nước nhập khẩu chưa có nhu cầu lớn. “Phải từ tháng 5 trở đi, thị trường xuất khẩu sẽ ấm dần” – ông Lực nói.

KHẮC TÂM – MẬU TRƯỜNG Tuổi Trẻ