Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Quản Lý Nuôi

Virus lạ trên tôm có gây nguy hiểm đến sức khỏe con người?

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn yêu cầu ngăn chặn loài virus mới có tên là Decapod iridescent virus 1 (DIV1) có nguy cơ xâm nhiễm vào Việt Nam.

Không để virus “lạ” xâm nhập phá hoại ngành tôm

Theo mạng lưới các Trung tâm nuôi trồng thủy sản vùng châu Á-Thái Bình Dương (NACA), loài virus mới có tên là Decapod iridescent virus 1 (DIV1) đã gây thiệt hại cho ngành nuôi tôm tại Trung Quốc trong những năm gần đây.

Thứ trưởng Bộ NNPTNT Phùng Đức Tiến cho biết, hiện nay, chưa có thông tin về bệnh do virus DIV1 xuất hiện ở Việt Nam, tuy nhiên, để chủ động phòng chống, ngăn chặn bệnh do DIV1 xâm nhập vào nước ta, Bộ NNPTNT đã có văn bản đề nghị Thường trực Ban chỉ đạo 389 quốc gia chỉ đạo, đôn đốc Ban chỉ đạo 389 của các tỉnh biên giới trong việc ngăn chặn, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp nhập lậu, vận chuyển, buôn bán trái phép tôm giống, tôm thương phẩm, thức ăn tươi sống cho thủy sản.

Chỉ đạo Ban chỉ đạo 389 cấp tỉnh phối hợp chặt chẽ, chủ động chia sẻ thông tin, dữ liệu với các cơ quan thú y các cấp; phối hợp chỉ đạo tổ chức triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh động vật thủy sản theo quy định của pháp luật hiện hành.

Thành lập các đoàn công tác của Ban chỉ đạo 389 quốc gia trực tiếp đến các địa bàn trọng điểm để hướng dẫn, đôn đốc và kiểm tra việc tổ chức triển khai đồng bộ các biện pháp ngăn chặn, chấm dứt tình trạng vận chuyển trái phép tôm giống, tôm thương phẩm, thức ăn tươi sống cho thủy sản vào Việt Nam.

UBND các tỉnh nêu chỉ đạo UBND các cấp, các sở, ngành liên quan tăng cường công tác phối hợp liên ngành, kiểm soát chặt chẽ việc vận chuyển qua biên giới đối với tôm giống, tôm thương phẩm, thức ăn tươi sống cho thủy sản; xử lý nghiêm các trường hợp vận chuyển trái phép.

Các cơ quan Công an, Bộ đội Biên phòng, Quản lý thị trường tăng cường công tác nắm tình hình, kiểm soát, ngăn chặn, xử lý các địa điểm tập kết, thu gom tôm giống, tôm thương phẩm, thức ăn tươi sống cho thủy sản nhập lậu qua biên giới để vận chuyển đi tiêu thụ.

Bộ NNPTNT đề nghị UBND các tỉnh Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên quan tâm chỉ đạo thực hiện các nội dung nêu trên.

Virus “lạ” nguy hiểm như thế nào?

Theo Bộ NNPTNT, virus DIV1 được phát hiện lần đầu tiên vào năm 2014 trên mẫu tôm càng đỏ tại tỉnh Phúc Kiến, tôm thẻ chân trắng tại tỉnh Chiết Giang và tôm càng xanh tại một số tỉnh của Trung Quốc.

Hiệp hội Thủy sản Việt Nam cũng đưa ra thông tin, các nhà khoa học tại Học viện Khoa học thủy sản Trung Quốc lần đầu tiên phát hiện loại virus này trên tôm chân trắng Thái Bình Dương tại tỉnh Zhejiang vào tháng 12.2014. Nhưng khi đó, DIV1 không thu hút sự chú ý của cộng đồng nuôi tôm, mặc dù đã có lo ngại rằng virus có nguy cơ lây lan trên khắp cả nước. Tới năm 2018, virus bắt đầu xuất hiện ở các trại tôm và cơ sở nhân giống tại 11 tỉnh, thành.

Đến tháng 2.2020, bệnh xuất hiện trở lại ở tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) và đã gây ảnh hưởng cho khoảng 1/4 diện tích nuôi tôm ở tỉnh này khi lây nhiễm cho tôm ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng và đã được phát hiện gây bệnh trên một số loài tôm biển, tôm nước lợ và tôm nước ngọt.

Hiện nay đã phát hiện một số loài cảm nhiễm virus DIV1 gồm: Tôm càng đỏ, tôm thẻ chân trắng, tôm càng xanh, tôm hùm đất (tôm hùm nước ngọt), tôm càng sông (hay tôm chà) và tôm gai.

Về đường truyền lây chưa xác định được rõ, tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho biết, giun nhiều tơ (sử dụng làm thức ăn cho tôm bố mẹ, tôm hoang dã) cũng bị nhiễm virus DIV1 và là nguồn bệnh có khả năng làm lây truyền virus gây bệnh trên tôm.

Hiện nay chưa có thông tin virus này có gây nguy hiểm cho người.

VŨ LONG- https://laodong.vn/

Ngăn chặn virus mới trên tôm

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa có văn bản gửi Thường trực Ban Chỉ đạo quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; UBND các tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên về việc tăng cường quản lý thủy sản vận chuyển qua biên giới.

Chú thích ảnh
Nông dân thu hoạch tôm càng xanh. Ảnh: Lê Sen/TTXVN

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thông tin từ mạng lưới các Trung tâm nuôi trồng thủy sản vùng châu Á – Thái Bình Dương (NACA), loài virus mới có tên là Decapod iridescent virus 1 (DIV1) đã gây thiệt hại cho ngành nuôi tôm tại Trung Quốc trong những năm gần đây.

Virus DIV1 được phát hiện lần đầu tiên vào năm 2014 trên mẫu tôm càng đỏ tại tỉnh Phúc Kiến, tôm thẻ chân trắng tại tỉnh Chiết Giang và tôm càng xanh tại một số tỉnh của Trung Quốc. Tháng 2/2020, bệnh xuất hiện trở lại ở tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc và đã gây ảnh hưởng cho khoảng 1/4 diện tích nuôi tôm ở tỉnh này. Virus lây nhiễm cho tôm ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng và đã được phát hiện gây bệnh trên một số loài tôm biển, tôm nước lợ và tôm nước ngọt.

Hiện nay, đã phát hiện một số loài cảm nhiễm virus DIV1 bao gồm: tôm càng đỏ, tôm thẻ chân trắng, tôm càng xanh, tôm hùm đất hay tôm hùm nước ngọt, tôm càng sông hay tôm chà và tôm gai. Loài cua Cà ra và cua bờ sọc hay cua bờ cũng được ghi nhận bị nhiễm virus qua thực nghiệm (tiêm virus vào cơ) nhưng chưa được xác nhận là loài cảm nhiễm với vi rút.

Tôm sú hoang dã ngoài tự nhiên vùng biển Ấn Độ Dương cũng được báo cáo là dương tính với virus DIV1. Trong thực tế, phân bố của virus DIV1 trên thế giới có thể rộng hơn nhiều do chưa được điều tra cụ thể. Về đường truyền lây chưa xác định được rõ, tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho biết giun nhiều tơ (sử dụng làm thức ăn cho tôm bố mẹ, tôm hoang dã) cũng bị nhiễm virus DIV1 và là nguồn bệnh có khả năng làm lây truyền virus gây bệnh trên tôm.

Hiện nay, chưa có thông tin về bệnh do virus DIV1 xuất hiện ở Việt Nam, tuy nhiên, để chủ động phòng chống, ngăn chặn bệnh do virus DIV1 xâm nhập vào nước ta, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị Thường trực Ban chỉ đạo 389 quốc gia chỉ đạo, đôn đốc Ban chỉ đạo 389 của các tỉnh biên giới trong việc ngăn chặn, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp nhập lậu, vận chuyển, buôn bán trái phép tôm giống, tôm thương phẩm, thức ăn tươi sống cho thủy sản.

Thường trực Ban chỉ đạo 389 quốc gia chỉ đạo Ban chỉ đạo 389 cấp tỉnh phối hợp chặt chẽ, chủ động chia sẻ thông tin, dữ liệu với các cơ quan thú y các cấp; phối hợp chỉ đạo tổ chức triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh động vật thủy sản theo quy định của pháp luật hiện hành.  Đồng thời thành lập các đoàn công tác của Ban chỉ đạo 389 quốc gia trực tiếp đến các địa bàn trọng điểm để hướng dẫn, đôn đốc và kiểm tra việc tổ chức triển khai đồng bộ các biện pháp ngăn chặn, chấm dứt tình trạng vận chuyển trái phép tôm giống, tôm thương phẩm, thức ăn tươi sống cho thủy sản vào Việt Nam.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đề nghị UBND các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên chỉ đạo UBND các cấp, các Sở, ngành tăng cường phối hợp liên ngành, kiểm soát chặt chẽ việc vận chuyển qua biên giới đối với tôm giống, tôm thương phẩm, thức ăn tươi sống cho thủy sản; xử lý nghiêm các trường hợp vận chuyển trái phép.

Các cơ quan công an, bộ đội biên phòng, quản lý thị trường tăng cường việc nắm tình hình, kiểm soát, ngăn chặn, xử lý các địa điểm tập kết, thu gom tôm giống, tôm thương phẩm, thức ăn tươi sống cho thủy sản nhập lậu qua biên giới để vận chuyển đi tiêu thụ.

Bích Hồng (TTXVN)

Tôm càng đực hay cái loại nào mang lại hiệu quả cao hơn

Tại sao lại có nơi nuôi tôm càng đực và có nơi nuôi toàn tôm càng cái. Tại sao lại có sự khác nhau như vậy liệu có yếu nào tác động đến vậy mô hình nào hiệu quả hơn tôm càng đực có vượt trội hơn tôm càng cái và ngược lại.

ẢNH MINH HỌA

Israel phát triển kỹ thuật nuôi tôm càng xanh toàn cái, thích hợp nuôi mật độ cao hơn nuôi toàn đực.

Tôm càng xanh toàn đực là kỹ thuật đang được áp dụng rộng rãi nhằm cải thiện tốc độ sinh trưởng và kích cỡ thu hoạch. Tuy nhiên nuôi tôm càng xanh toàn đực chỉ phù hợp với diện tích rộng, hình thức nuôi xen canh, quảng canh. Để phát triển nuôi tôm càng xanh có hiệu quả cao hơn, các nhà khoa học Israel đã nghĩ đến hướng phát triển ngược lại: là nuôi tôm càng xanh toàn cái.

Nghiên cứu cho thấy rằng đối với tôm càng xanh, việc nuôi tôm toàn cái là một phương pháp bền vững để sản xuất một vụ tôm thành công và đồng nhất. Quần thể tôm càng xanh toàn cái có kích thước đồng đều và ít hung dữ, phù hợp để phát triển mô hình nuôi quy mô công nghiệp với diện tích nhỏ và mật độ cao.

Quần thể tôm càng toàn cái được tạo ra bằng kỹ thuật di truyền, tác động ngược dòng quá trình sinh sản tạo ra sự thay đổi ở tôm cái sinh sản khiến chúng sinh ra tôm chỉ có giới tính cái. Nhiễm sắc thể xác định giới tính của tôm càng xanh hoạt động theo cách tương tự ở người: có tín hiệu nhiễm sắc thể (nghĩ là nhiễm sắc thể X/Y) được quyết định bởi một cơ quan tạo ra hormone kiểm soát sự phát triển của giới tính đực và cái. Nhưng không giống như ở con người, tôm càng xanh cái cũng có thể ảnh hưởng đến sự phát triển giới tính của thế hệ tiếp theo.

Sử dụng đặc điểm di truyền giới tính của tôm càng xanh, các nhà khoa học tiến hành lấy một số tế bào từ cơ quan sản xuất hormone ở tôm đực, sau đó tiêm vào tôm cái non, hormone sẽ khiến chúng phát triển thành con đực nhưng về mặt di truyền vẫn là con cái. Giống như tôm đực tự nhiên, chúng có thể giao phối bình thường với những con cái khác, con của các cặp tôm này sẽ phát triển thành tôm cái bất kể chúng mang nhiễm sắc thể nào, quần thể tôm toàn cái có đặc điểm tăng trưởng nhanh, kích thước lớn vượt trội và đồng đều. Kỹ thuật này liên quan đến một số thao tác đáng kể về sinh học, vì vậy sản phẩm có thể không được xem là thuần tự nhiên. Tuy nhiên, không giống như những thực phẩm biến đổi gen, quá trình sản xuất tôm càng xanh giống sinh ra đàn con đơn tính không làm cho vật liệu di truyền tự nhiên của tôm bị ảnh hưởng, vì vậy an toàn khi dùng làm thực phẩm.

Các nhà khoa học cũng sử dụng kỹ thuật tương tự để phát triển công nghệ song song tạo ra tôm giống có khả năng sinh ra tôm toàn đực. Dù là nuôi tôm càng xanh toàn đực hay toàn cái thì quần thể tôm càng xanh đơn tính giúp loại bỏ sự cạnh tranh giữa những con đực, khắc phục các vấn đề tôm hao hụt và tốc độ tăng trưởng chậm. Loại bỏ các tác nhân kích thích các hành vi hung hăng cũng làm giảm căng thẳng, giúp tôm tập trung sử dụng dinh dưỡng cho quá tăng trưởng. Điều này có thể cải thiện sản lượng tới 45%, nghĩa là có thể tăng 50 – 60% thu nhập cho người nuôi.

Lựa chọn nuôi tôm càng xanh toàn đực hay toàn cái còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: hình thức nuôi, trình độ phát triển kỹ thuật hỗ trợ, vốn đầu tư ban đầu… Đánh giá sơ bộ, mô hình nuôi tôm càng xanh toàn đực thích hợp nuôi mật độ thấp, ít đầu tư với hình thức xen canh, quảng canh. Trong khi đó, nuôi tôm càng xanh toàn cái phù hợp mô hình thâm canh, mật độ dày với vốn đầu tư cao hơn.

Hoài An

Nguồn: tepbac

Người nuôi tôm đổi đời nhờ áp dụng công nghệ hiện đại

Hiện nay nhiều người nuôi tôm đang áp dụng công nghệ mới vào nuôi trồng và mang lại hiệu quả kinh tế khá cao.

Nuoi tom cong nghe hien dai (3)

Nuôi tôm công nghệ hiện đại.

Phát triển bền vững

Nhơn Trạch (Đồng Nai) xưa nay được biết đến là vùng nuôi tôm chủ lực của tỉnh Đồng Nai và hằng năm tôm đã giúp cho rất nhiều gia đình có thu nhập ổn định, phát triển kinh tế. Trước đây người nuôi tôm chủ yếu canh tác theo cách truyền thống, đỡ công chăm sóc, đỡ chi phí đầu tư nhưng rủi ro cao, dịch bệnh khiến tôm chết hàng loạt, thất thu. Vì vậy hiện nay ngành chức năng đang vận động, khuyến khích, hướng dẫn người nuôi áp dụng khoa học kỹ thuật vào nuôi trồng để mang lại hiệu quả tốt nhất.

Theo thống kê tổng sản lượng thủy sản nuôi và khai thác của Đồng Nai trong năm 2019 đạt trên 64.000 tấn còn trong năm 2020 cũng đã tăng thêm rất nhiều. Từ cuối 2019 đến nay người nuôi thủy sản trong đó có tôm đã bắt đầu tìm tòi chủ động áp dụng khoa học – kỹ thuật vào nuôi trồng. Điều này giúp tăng sản lượng nuôi trên cùng diện tích mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Thu hoach tom (1)

Người nuôi tôm ở Nhơn Trạch cho biết nếu nuôi tôm theo cách truyền thống thì thường mỗi năm sẽ chỉ nuôi được một vụ tôm. Doanh thu sẽ nằm ở mức khoảng 1/2 so với số vốn chi ra trong quá trình nuôi. Nuôi tôm theo cách truyền thống (nuôi trong ao đất, lấy nước từ sông,…) ngày càng không đảm bảo an toàn cho tôm, tôm dễ mắc dịch bệnh do ô nhiễm nguồn nước. Trái lại việc nuôi tôm theo công nghệ mới, mỗi năm có thể nuôi được từ 2-3 vụ nhưng chi phí bỏ ra ban đầu khá cao khiến cho nhiều người vẫn e dè việc chuyển đổi. Riêng ngành chức năng đang cố gắng vận động, tuyên truyền với mong muốn bà con chuyển hướng nuôi công nghệ cao, vừa tránh rủi ro vừa tăng năng suất, thu nhập, ổn định cuộc sống.

Nuoi tom cong nghe hien dai (2)

Nuôi tôm giúp cho rất nhiều gia đình có thu nhập ổn định.

Hiệu quả kinh tế cao

Bà Hoàng Thị Thu người nuôi tôm tại huyện Nhơn Trạch cho biết gia đình bà hiện vẫn nuôi tôm theoi cách truyền thống nhưng trừ mọi chi phí sẽ không còn lãi. Nuôi truyền thống công chăm sóc cũng không nhiều, chỉ cần thả giống và chờ đến ngày thu hoạch nhưng do hiện nay nguồn nước bị ô nhiễm khiến dịch bệnh tăng cao, tôm chết rất nhiều.

“Tính ra nuôi truyền thống nếu êm xuôi thì vẫn có lãi nhưng nếu gặp dịch bệnh hoặc nước ô nhiễm thì mùa đó mất trắng, ôm nợ. Khoảng 2 năm trước do người ta khai thác cát dưới sông quá nhiều nên nước đục lắm, bơm vào đủng tôm làm tôm chết hết. Năm đó gia đình tôi mất trắng cả vụ tôm, không còn đồng nào lại phải vay ngân hàng để đổ con giống mới. Nhờ trời mấy năm nay khá ổn nên hiện vẫn bám trụ được nhưng có lẽ xuất xong lứa này có chút vốn tôi sẽ đổi sang nuôi tôm công nghệ cao. Nếu giữ mãi cách truyền thống có khi mất luôn nhà cửa”, bà Thu nói.

Thu hoach tom (3)

Nhiều hộ dân đã chuyển đổi sang nuôi tôm công nghệ cao.

Ông Huy Phi đã áp dụng nuôi tôm công nghệc cao nói rằng hiện giờ nguồn nước không như ngày xưa, ô nhiễm hơn hẳn nên nếu không hiểu biết không có kinh nghiệm thì sẽ khó mà sống chung với tôm được.

“Từ ngày nuôi tôm thâm canh trong nhà lưới theo quy trình CPF (ao nuôi được lót đáy bạt và phủ lưới) rất hiệu quả. Ao nuôi hiện đại là công nghệ mới trong nuôi tôm nên khá hứng thú. Với cách nuôi hiện đại này đòi hỏi sự đồng bộ từ khâu chọn con giống sạch, chất lượng đến tuân thủ đúng quy trình xử lý nguồn nước đầu vào, sử dụng vi khuẩn có lợi cạnh tranh với vi khuẩn có hại.

Đặc biệt, ao nuôi được thiết kế để các chất thải, chất bẩn tập trung lắng xuống khu trũng ở đáy ao, người nuôi vệ sinh hằng ngày và hút các chất bẩn ra khỏi ao nuôi nên hạn chế được rủi ro dịch bệnh cho con tôm”, ông Phi chia sẻ.

Thu hoach tom (2)

Thu hoạch tôm nuôi.

Về vấn đề này lãnh đạo huyện Nhơn Trạch cho biết Nhơn Trạch là vùng chuyên nuôi tôm của Đồng Nai (nước lợ) còn các vùng khác ở Đồng Nai chỉ nuôi nhỏ lẻ. Hiện toàn huyện Nhơn Trạch có khoảng 1.900 ha diện tích mặt nước nuôi thủy sản. Trong đó gần 1.600 ha nuôi thủy sản nước lợ trong đó số lượng hộ nuôi tôm truyền thống còn khá nhiều. Riêng nuôi tôm công nghệ thì có khoảng 31 hộ với 66 ha.

Với mô hình này, nông dân có thể nuôi liên tục từ 3-4 vụ/năm, mật độ nuôi dày hơn gấp nhiều lần so với cách nuôi truyền thống. Theo đó, năng suất trung bình của các hộ ứng dụng công nghệ cao đạt 15 tấn/ha/vụ, doanh thu bình quân 2 tỷ đồng/ha.

Hải Sơn – Tùng Duy – https://www.phapluatplus.vn/

Giải pháp giảm chất thải ao nuôi tôm

TTCT (Litopenaeus vannamei) được nuôi phổ biến ở Việt Nam; nhưng với hình thức nuôi thâm canh và siêu thâm canh mật độ cao như hiện nay đã tạo ra lượng chất thải lớn gây ô nhiễm môi trường. Do đó, việc giảm lượng chất thải, và xử lý chất thải còn lại ở cuối vụ nuôi là vấn đề cần được quan tâm.

Chất thải chính phát sinh trong nuôi tôm

Nuôi tôm thâm canh thường phát sinh các loại chất thải như nước thải, bùn thải, chất thải rắn trên bờ. Lượng phát thải thường phụ thuộc vào mức độ thâm canh, quy trình công nghệ áp dụng và khả năng quản lý ao nuôi của người nuôi. Đặc điểm kỹ thuật và chất thải từ một số công nghệ nuôi tôm thâm canh điển hình tại Việt Nam được tóm tắt như sau.

Các giải pháp chính nhằm giảm chất thải

Sử dụng cá rô phi

Sử dụng cá rô phi để xử lý chất thải hữu cơ trong ao nuôi tôm là giải pháp phù hợp cho các hộ nuôi tôm thâm canh có trên 2 ao. Trong hệ thống nuôi, sử dụng 1 ao nuôi tôm, dùng chế phẩm sinh học để thay thế hóa chất trong xử lý chất hữu cơ và khí độc dưới đáy ao; một ao nuôi rô phi để xử lý nước thải từ ao nuôi tôm chuyển sang, nước sau khi cá rô phi xử lý được cấp ngược trở lại ao nuôi tôm.

Sử dụng chế phẩm sinh học

Hiện nay các hộ nuôi tôm đã sử dụng nhiều loại chế phẩm sinh học khác nhau để xử lý nước và xử lý bùn đáy ao nuôi. Chế phẩm sinh học đã góp phần rất lớn vào việc xử lý chất thải hữu cơ trong ao nuôi tôm, đồng thời hỗ trợ cho tôm tiêu hóa tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn.

Loại bỏ chất thải giúp giảm rủi ro và nâng cao năng suất cho vụ nuôi Ảnh: CTV

Ao nuôi lót bạt sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý chất thải cho bùn thải tốt, chủ yếu chất thải gồm phân tôm, vỏ tôm lột xác, xác tảo, có một phần nhỏ (dưới 2%) dư lượng hóa chất (vôi, dolomite) xử lý môi trường, không lẫn đất từ bờ và đáy ao. Hình thức nuôi tôm trong ao đất sử dụng chế phẩm sinh học có diện tích nuôi khoảng 27.461 ha, lượng bùn thải khoảng 290.991 tấn/năm (chiếm khoảng 29%). Bùn thải có dư lượng hóa chất xử lý đáy ao nuôi và chất thải từ nuôi tôm như phân tôm, vỏ tôm lột xác, xác tảo (chiếm 15 – 20%) và lẫn với đất từ bờ và đáy ao (chiếm khoảng 80 – 85%)

Quản lý chất lượng thức ăn và tỷ lệ cho ăn

Thức ăn chiếm gần 80% giá thành nuôi tôm, nên đây là giải pháp được nghiên cứu nhiều nhất cả trong và ngoài nước. Việc kiểm soát thức ăn trong NTTS nhằm tránh lãng phí, giúp thủy sản phát triển nhanh và giảm ô nhiễm môi trường.

Kiểm soát sử dụng hóa chất và kháng sinh

Hiện nay, hình thức nuôi tôm trong ao đất có sử dụng hóa chất và kháng sinh là chính có diện tích nuôi khoảng 52.081 ha tạo ra lượng bùn thải khoảng 551.880 tấn/năm (chiếm khoảng 55%). Bùn thải chứa hóa chất xử lý đáy ao nuôi, dư lượng kháng sinh trị bệnh và chất thải từ nuôi tôm như phân tôm, vỏ tôm lột xác, xác tảo và lẫn với đất lở từ bờ và đáy ao, chiếm khoảng 80 – 85%.

Các cơ sở nuôi tôm ở Việt Nam hiện đã ý thức được việc giảm dần sử dụng hóa chất để xử lý môi trường, cải tạo ao nuôi và hạn chế việc sử dụng kháng sinh trị bệnh. Mặc dù người nuôi đã biết các kỹ thuật để giảm dư lượng kháng sinh trong tôm, ví dụ ngừng sử dụng hóa chất, kháng sinh vài tuần trước khi thu hoạch, để giảm nguy cơ ATTP; nhưng hóa chất và kháng sinh tồn tại trong nước và bùn thải sẽ tạo ra vi khuẩn kháng kháng sinh trong môi trường. Do vậy, lựa chọn các hình thức nuôi và công nghệ nuôi giúp người nuôi từ bỏ thói quen sử dụng hóa chất, kháng sinh là rất quan trọng.

Ứng dụng công nghệ nuôi

Nuôi tôm siêu thâm canh, ít thay nước đã được nuôi thành công tại Việt Nam trong khoảng 5 năm gần đây; tuy nhiên, đến nay diện tích nuôi theo hình thức này còn thấp (khoảng 1% diện tích nuôi tôm của cả nước). Khối lượng bùn thải khoảng 6.021 tấn/năm (chiếm khoảng dưới 1%). Bản chất của nuôi tôm siêu thâm canh, ít thay nước là bổ sung vào nước ao nuôi một lượng carbon (thông thường là mật rỉ đường hoặc bột mỳ) để tổng lượng carbon/nitơ trong nước nuôi đạt tỷ lệ từ 12/1 trở lên (thức ăn cho tôm chỉ đạt tỷ lệ C/N giao động trong khoảng 9/1), khi có tỷ lệ C/N >12/1 sẽ là điều kiện tốt cho nhóm vi khuẩn có chức năng chuyển hóa các chất gốc nitơ thành protein và gom các chất lơ lửng trong nước (tảo, hữu cơ, vi khuẩn, động vật phù du …) thành viên làm thức ăn cho tôm, qua đó giảm chất thải trong ao nuôi tôm. Chất lượng bùn thải từ hình thức nuôi này tốt. Chất thải chủ yếu gồm phân tôm, vỏ tôm lột xác, xác tảo, có một phần nhỏ (dưới 1%) dư lượng hóa chất (vôi, khoáng) xử lý môi trường trong quá trình nuôi chiếm 100%; không lẫn đất từ bờ và đáy ao. Nuôi tôm theo công nghệ siêu thâm canh, ít thay nước là giải pháp giảm khối lượng bùn và nâng cao chất lượng bùn tốt nhất so với các công nghệ nuôi hiện nay.

>> Chất thải sinh ra trong quá trình nuôi là yếu tố quan trọng cần được xem xét và xử lý đúng kỹ thuật, đặc biệt là trong nuôi tôm thâm canh; vì vậy cần một chiến lược quản lý chất thải có hệ thống trong đó bao gồm xử lý, xả bỏ và tái chế nhằm quản lý nuôi tôm bền vững.

Nguyễn Hà – http://www.thuysanvietnam.com.vn/

Vì sao tôm bố mẹ của C.P. Group có chất lượng tốt nhất thế giới?

CPF-Turbo G19: Giống tôm thẻ chân trắng của C.P những năm qua luôn duy trì được sức hút, trở thành sự lựa chọn số 1 của người nuôi tôm do có thể nuôi được kích cỡ lớn 15 – 20 con/kg, tôm nhanh lớn, sức đề kháng mạnh, tỷ lệ sống cao. Vậy điều gì đã làm nên sự khác biệt này để giúp C.P vượt xa so với các đối thủ khác?

Chương trình chọn lọc tôm  bố mẹ của Tập đoàn C.P.

Tập đoàn C.P. Thái Lan đã có tầm nhìn từ rất sớm về sự phát triển của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng. C.P đã có những bước đi tiên phong trong việc chọn lọc tôm thẻ chân trắng khi thành lập Trung tâm cải tiến di truyền tôm (Shrimp Genetic Improvement Center) vào năm 2002.

Chương trình chọn lọc gen với quy mô lớn và ứng dụng những công nghệ hiện đại tân tiến nhất trong lĩnh vực công nghệ sinh học. Nguồn tôm bố mẹ đượcchọn từ nhiều vùng địa lý trên khắp thế giới, tập trung vào các tiêu chí như:

+ Tăng tỷ lệ sống

+ Sức đề kháng mạnh

+ Tốc độ lớn nhanh

+ Tôm sạch bệnh

Từ các nguồn này, tôm được phân lập và nuôi theo dõi theo từng gia đình để tránh quan hệ họ hàng, cận huyết.

Sau đó, ở mỗi thế hệ sẽ chọn lọc ra cá thể ưu tú nhất trong những gia đình cho kết quả tốt nhất để lưu trữ lại và chọn lọc tiếp ở thế hệ sau.

Hiện tại, tôm giống C.P đã được chọn lọc tới thế hệ thứ 19. Do đó các đàn tôm giống của C.P được phân phối dưới tên thương mại là CPF-Turbo G19.

Việc Tập đoàn C.P.Thái Lan khởi động chương trình chọn lọc di truyền tôm thẻ chân trắng từ rất sớm đã giúp phân tách và lưu trữ được những gen thuần chủng và ưu tú nhất. Bên cạnh đó với điểm mạnh về công nghệ sinh học và di truyền học cùng các trang thiết bị hiện đại đã giúp Tập đoàn C.P. Thái Lan đạt được các thành công to lớn trong việc sản xuất giống tôm thẻ chân trắng. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà C.P trở thành tôm giống tốt nhất trên thế giới.

Trung tâm nghiên cứu phát triển tôm bố mẹ của Tập đoàn C.P tại Thái Lan

Tại Việt Nam, tôm giống CPF-Turbo G19 do Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam sản xuất và phân phối được sản xuất từ nguồn tôm bố mẹ nhập khẩu độc quyền 100% từ tập đoàn C.P. Thái Lan. Kế thừa kết quả của thành tựu gần 20 năm chọn lọc và gia hóa, tôm giống CPF-Turbo G19 có tốc độ lớn nhanh, sức đề kháng mạnh, nuôi được kích cỡ lớn 15 – 20 con/kg.

Sử dụng tôm giống (PL12) để nuôi thành tôm bố mẹ có được không?

Theo Tiến sĩ Robin McIntosh, chuyên gia nghiên cứu tôm bố mẹ hàng đầu trên thế giới, ông dẫn chứng thời điểm của năm 2000 – 2001 ngành nuôi tôm thẻ chân trắng trên thế giới khi ấy, chủ yếu là tại Trung Quốc đã từng gặp rất nhiều khó khăn, vụ mùa thất bại, tôm chậm lớn và đến nay ngành nuôi tôm Trung Quốc vẫn chưa thể gượng nổi. Nguyên nhân được cho là xuất phát từ việc không quản lý được nguồn tôm giống khi tôm bố mẹ được lấy từ các ao đầm và trại giống để nuôi dưỡng thành tôm bố mẹ rồi cho đẻ lại. Việc làm này là hết sức nguy hiểm do các vấn đề có thể kể tới như:

+ Tôm bị nhiễm mầm bệnh trong quá trình nuôi.

+ Tôm nuôi làm bố mẹ bị cận huyết hoặc có quan hệ họ hàng.

+ Tôm giống sản xuất ra khi nuôi dễ có khả năng mang sẵn mầm bệnh, tôm còi cọc, chậm lớn.

Từ chuyến công tác của Tổng cục Thủy sản vào đầu tháng 12/2019 tại Công ty Charoen Pokphand Foods Public Company Limited (C.P. Group) đã đưa ra các kết luận đánh giá cao về chương trình sản xuất tôm bố mẹ của C.P hoàn chỉnh từ cơ sở hạ tầng, điều kiện an toàn sinh học cho đến đội ngũ nhân sự đào tạo bài bản, đáp ứng điều kiện xuất khẩu tôm bố mẹ sang Việt Nam. Việc kiểm soát các bệnh nguy hiểm theo đúng khuyến cáo của OIE (cơ quan quốc tế về dịch bệnh động vật).

Nếu tại Việt Nam, tôm sú có thể coi là ví dụ tiêu biểu nhất để minh chứng cho sự suy thoái chất lượng nguồn tôm giống do tôm bố mẹ bị cận huyết, dẫn đến tôm bị còi cọc chậm lớn, nhiễm bệnh nguy hiểm. Về khía cạnh chuyên môn, nuôi gia hóa tôm tôm bố mẹ là một quá trình hết sức phức tạp, khó khăn, đòi hỏi khả năng áp dụng an toàn sinh học ở mức cao nhất, phải chủ động được năng lực tầm soát và kiểm tra dịch bệnh. Nuôi gia hóa tôm bố mẹ dường như chỉ phù hợp cho những tập đoàn lớn, có năng lực tài chính mạnh vì là đây một quá trình lâu dài hàng chục năm mới cho ra kết quả, nó tốn nhiều rất thời gian công sức, tiền bạc, đòi hỏi nguồn lực đầu tư rất lớn cho các trung tâm nghiên cứu, trang thiết bị hiện đại, nhân lực tay nghề cao, chuyên gia giỏi…

Nguyễn Long An -http://www.thuysanvietnam.com.vn/

Giải pháp tổng hợp kiểm soát bệnh EMS, EHP và WFD ở tôm

Những năm gần đây, tình hình dịch bệnh ở tôm nuôi diễn biến ngày càng phức tạp; bên cạnh những bệnh nguy hiểm do virus gây ra, các bệnh có sự kết hợp của nhiều tác nhân gây bệnh như EMS, EHP và WFD ngày càng phổ biến. Đặc điểm dịch tễ của những bệnh này là lây lan rất nhanh, phát triển phức tạp và khó kiểm soát. Vì vậy, hậu quả gây ra là rất nghiêm trọng.

Các bệnh chính

Hội chứng hoại tử gan tụy cấp (EMS/AHPNS)

EMS/AHPND trên  tôm nước lợ hiện đang là một trong những bệnh nguy hiểm khiến tôm chết hàng loạt trong khoảng thời gian rất ngắn. Tổ chức Thú y Thế giới (OIE) đã công bố tác nhân gây bệnh hoại tử gan tụy cấp trên tôm là dòng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus mang gen độc (Vp AHPND). Các dòng vi khuẩn gây bệnh này mang plasmid chứa gen mã hóa cho độc tố vi khuẩn. AHPNS được công bố tại Trung Quốc, Việt Nam vào năm 2010, Malaysia (2011), Thái Lan (2012), Mexico (2013) và Philippine (2014). Bệnh có tính chu kỳ, xuất hiện mạnh vào đầu mùa nóng (tháng 4 – 6 hàng năm). Các yếu tố môi trường như nồng độ chất dinh dưỡng cao trong nước ao, nhiệt độ nước cao và độ mặn thấp, ít hoặc không trao đổi nước, tích tụ trầm tích giàu hữu cơ do thức ăn thừa và phân tôm trong ao… được cho là các yếu tố gia tăng sự xuất hiện của dịch bệnh (OIE, 2019).


Tôm bị hoại tử gan

Bệnh thường xảy ra trong 45 ngày nuôi đầu, thậm chí có thể xảy ra ngay khi thả tôm giống vào ao nuôi trên cả hai đối tượng tôm sú và TTCT. Dấu hiệu của tôm bị AHPNS ở giai đoạn sớm là gan tụy có màu từ nhạt đến trắng và bị teo, dẫn đến có thể làm giảm kích thước của cơ quan này từ 50% trở lên. Trong giai đoạn cuối của bệnh, các vệt hoặc đốm đen do sự tích lũy melanin từ hoạt động của tế bào máu xuất hiện trong gan tụy. Tỷ lệ chết ở các ao nuôi tôm bị ảnh hưởng có thể đạt tới 100% trong vài ngày sau khi xảy ra bệnh.

Bệnh vi bào tử trùng (EHP)

Bệnh vi bào tử trùng Microsporidian trên tôm do ký sinh trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) gây ra, được phát hiện lần đầu vào năm 2009, tại Thái Lan  (Tourtip et al. 2009. J. Invertebr. Pathol. 102: 21-29). Khi tôm bị nhiễm bệnh, bằng mắt thường khó nhận biết; khi tôm đạt 2 – 3 g/con, có xu hướng giảm ăn, đường ruột và gan tụy kém, có xu hướng mềm vỏ. Bệnh không gây chết tôm hàng loạt như hoại tử gan tụy cấp nhưng lại khiến tôm chậm lớn do EHP ký sinh trong hệ thống ống gan tụy, ruột và làm cho tôm không hấp thụ được chất dinh dưỡng, tôm gầy yếu, giảm sản lượng và gây thiệt hại kinh tế cho người nuôi. Có thể chỉ đạt 3 – 5 g/con sau 90 – 100 ngày nuôi.

Bệnh phân trắng (WFD)

Nghiên cứu mới nhất về bệnh phân trắng trên TTCT (Penaeus vannamei) (T12/2016). Vibrio là tác nhân chính gây ra bệnh phân trắng ở tôm. Thực tế chứng minh, tôm bị nhiễm EHP dễ có nguy cơ bị phân trắng và ngược lại. Diễn biến của tôm bị bệnh phân trắng thường được phân loại theo hai hướng: Có thể hồi phục được (chỉ có Vibrio) và không thể phục hồi (kết hợp EHP), đây là sự kết hợp nguy hiểm. Là loại bệnh khá phổ biến và thường gặp ở tôm từ giai đoạn tôm được 40 – 50 ngày tuổi trở lên.

Giải pháp kiểm soát

Trên thực tế, chưa có giải pháp nào được khẳng định là đem lại hiệu quả trị bệnh cao; vì vậy, những giải pháp được đưa ra dưới đây được coi là những giải pháp hữu hiệu nhất hiện tại nhằm ngăn ngừa và kiểm soát dịch bệnh EMS/AHPND, EHP và WFD.

Kiểm soát tôm bố mẹ: Để đảm bảo tôm bố mẹ không nhiễm EMS, EHP và WFD trước khi đưa vào sản xuất giống. Người nuôi nên kiểm tra con giống, xét nghiệm trước khi thả nuôi. Hiện nay, công cụ phát hiện EMS, EHP và WFD trong mẫu tôm bằng phương pháp PCR đang được ứng dụng rộng rãi, người nuôi có thể lấy mẫu phân, gan tụy tôm hoặc tôm post để gửi đi kiểm tra.

Sử dụng vaccine: Thử nghiệm vaccine tế bào vô hoạt bằng formaline cho thấy đối với tôm cỡ 5 – 7 g/con có khả năng sinh kháng thể với chủng Vibrio parahemolyticus gây bệnh AHPND  (Hirono và cs, 2016). Tuy nhiên, hiện nay chưa có loại vaccine thương mại nào cho bệnh này được công bố. Vì vậy, liệu pháp vaccine vẫn là một câu hỏi mở trong việc kiểm soát bệnh này (OIE).

Sử dụng thảo dược: Lavandula latifolia, Pinus sylvestris, Jasminum officinale, Citrus limon, Prunus avium, Violaodorata, Gardenia jasminoides, Cocos nucifera, Rosa damascene và Eucalyptus globulus để sản xuất một loại dầu trộn với thức ăn có tác dụng diệt Vibrio parahemolyticus gây bệnh hoại tử gan tụy cấp (Kumar và cs, 2016). Khi tôm đã nhiễm AHPND nếu sử dụng thảo dược này, tỷ lệ sống có thể đạt được trên 50%.

Sử dụng chế phẩm sinh học: Gồm các loài vi sinh là Lactobacillus casei, Saccharomyces cerevisiae, và Rhodopseudomonas palustris cho thấy có khả năng ức chế Vibrio parahemolyticus gây bệnh AHPND  sau 48 giờ (Pinoargote và Ravishankar, 2018).

Dùng hệ sợi nấm Pycnoporus sanguineus: Sử dụng hệ sợi nấm Pycnoporus sanguineus trong hệ thống nuôi tôm có khả năng loại bỏ 99% vi khuẩn V. Parahaemolyticus (Trần Minh Long và Phạm Thị Hoa, 2018).

Quản lý tốt ao nuôi: Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO, 2016) đã khuyến cáo người nuôi cần đảm bảo an toàn sinh học và thực hành nuôi tôm tốt: Lựa chọn tôm giống không mang mầm bệnh AHPND; Sử dụng thức ăn hợp lý, không để thức ăn dư thừa trong ao nuôi; Thiết kế trang trại và ao nuôi tôm đảm bảo an toàn sinh học (sử dụng ao có diện tích nhỏ hơn, lót bạt bờ và đáy ao, thiết kế hệ thống xi phông đáy ao); Tăng diện tích ao chứa nước và thực hiện các biện pháp khử trùng, tiêu diệt động vật mang mầm bệnh ở ao chứa nước; Không sử dụng liều Chlorine quá cao để xử lý nước trước khi nuôi; Không thả tôm với mật độ quá cao vào giai đoạn nhiệt độ cao; Gièo ương tôm ở ao nhỏ trước khi thả ra ao nuôi thương phẩm; Dùng chế phẩm sinh học để chuẩn bị nước trước khi bơm vào ao nuôi; Kiểm soát các yếu tố môi trường và mầm bệnh định kỳ.

Xử lý khi tôm nhiễm bệnh EMS, WFD

Cần giảm lượng thức ăn cho ăn (50%, 3 –  5 ngày). Thay nước, xi phông thật kỹ, giảm mật độ tảo. Tăng 200% lượng vi sinh sử dụng trong nước – thức ăn, 200% chất bổ sung ngừa bệnh (acid hữu cơ, monoglyceride).

Thức ăn ủ men như sau:

Ủ vi sinh yếm khí: 100 L nước ngọt, 5 – 7 kg mật đường, 1 – 2 cám gạo, 1 – 2 kg các loại tinh bột/đạm khác: đậu nành, bột bắp, 200 g premix/khoáng, 100 – 200 g vi sinh xử lý nước. Ủ yếm khí 24 giờ. Đủ xử lý cho 10.000 m3 nước mỗi ngày (ao đất), 2.500 m3/ngày (ao bạt), 500 m3/ngày (ao dèo).

Ủ vi sinh hiếu khí: 100 L nước ngọt, 2 – 3 kg mật đường, 0,5 – 1 kg cám gạo, 0,5 – 1 kg bột bắp, bột đậu nành, 200 g khoáng/premix, 100 – 200 g vi sinh xử lý nước. Sục khí mạnh trong 24 tiếng. Đủ xử lý cho 10.000 m3 nước mỗi ngày (ao đất), 2.500 m3/ngày (ao bạt), 500 m3/ngày (ao dèo).

Lên men đậu nành: 10 L nước nấu sôi, 3 kg đậu nành xay bể/nhuyễn, 150 g mật đường. Nấu sôi và khuấy nhẹ trong 15 phút. Để nguội, trộn với 100 – 200 ml nước khóm tươi, 15 – 50 g vi sinh đường ruột. Cho ăn trực tiếp 5 – 10% nhu cầu thức ăn hoặc trộn trực tiếp vào thức ăn và cho ăn sao 30 phút. Có thể thay thế 10 – 15% thức ăn trong trường hợp tôm bị phân trắng hay EMS. Dinh dưỡng của đậu nành làm Vibrio không phát triển được; Làm sạch đường ruột tôm; Tăng cường lượng vi sinh, enzyme đường ruột, kích thích miễn dịch.

TS. Đoàn Quốc Khánh