Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Công Nghệ Nuôi Mới

Công nghệ nuôi tôm phát triển vũ bão

Ngành nuôi tôm nước lợ đang phát triển mạnh mẽ công nghệ cao từ phần mềm quản lý, ứng dụng vi sinh đến quy trình kỹ thuật để có sản phẩm đáp ứng nhu cầu các thị trường với hiệu quả bền vững.

Phần mềm quản lý

Người nuôi tôm nhiều nơi đã khá quen thuộc với iQuatic, phần mềm phân tích đầu tiên trong ngành tôm tập trung hóa các nguồn đa dữ liệu vào một nền tảng đám mây. Quá trình nuôi tôm nước lợ phải xử lý khối lượng thông tin khổng lồ, vượt quá mọi khả năng của phương pháp thủ công mà chỉ có thể đạt hiệu quả với phần mềm tích hợp 4.0 và iQuatic đã hỗ trợ điều đó.

Chuyên gia của iQuatic cho biết, các dữ liệu như kích thước tôm, hàm lượng oxy hòa tan trong ao và chu kỳ mặt trăng được đưa vào mô hình để giải quyết những câu hỏi khó khăn nhất. Chẳng hạn, sinh khối hiện tại của trại là bao nhiêu? Sau 3, 7, 10 tuần nữa sinh khối là bao nhiêu? Khi nào là thời điểm thu hoạch tốt nhất?

12-33-20_2212191
Nhà máy xử lý nước trong nuôi tôm công nghệ cao thích ứng với biến đổi khí hậu của Tập đoàn Việt – Úc.

Những câu hỏi trên được iQuatic hỗ trợ trả lời. Đồng thời còn hỗ trợ nâng cao các giá trị chuyên sâu giúp người nuôi tôm ra quyết định nhằm cải thiện kết quả thu hoạch, giảm chi phí đầu vào và vận hành hiệu quả hơn.

Khi hiểu biết về sinh khối ao tôm sẽ xây dựng chương trình cho tôm ăn để đạt được kích cỡ tôm mục tiêu, tối đa hóa sản lượng tôm thu hoạch, khuyến cáo ngày thu hoạch tốt nhất. Với nhiều dữ liệu hơn được cập nhật vào iQuatic, các mô hình phân tích sẽ giúp tối ưu hóa chi phí nuôi để đạt được và duy trì lợi nhuận tốt, sản xuất bền vững.

Phần mềm nâng cao hiệu quả quản lý dữ liệu, ghi lại cả dữ liệu định tính và định lượng bằng các thiết bị di động. Tự động thu thập dữ liệu, kết thúc thời kỳ nhập dữ liệu thủ công. Cho phép truy cập từ xa 24 giờ vào tất cả dữ liệu trang trại để đưa ra quyết định tức thì.

Người nuôi tôm có thể quan sát được những gì đang diễn ra ở trại tôm, phân tích dữ liệu tích hợp với cái nhìn sâu sắc chưa từng có về trang trại, ra các quyết định dựa vào khoa học. Đây là công nghệ mới nhất quản lý trang trại nuôi tôm.

Đặc biệt, màn hình với giao diện thân thiện cung cấp các thông tin thời gian thực. Còn có thể hiển thị bản đồ ao với các báo động bằng màu sắc cho các tiêu chí được xác định bởi người nuôi. Đây cũng là cơ sở truy xuất nguồn gốc giống, theo dõi và ghi lại tất cả các di chuyển của con tôm trong trang trại kể từ khi giao hàng từ trại giống.

Phần mềm iQuatic cho phép xây dựng các mô hình phân tích với khối lượng lớn và nhiều loại dữ liệu được lưu trữ, phân tích một cách an toàn theo các nguyên tắc và quy tắc nghiêm ngặt nhất của sự tôn trọng ẩn danh và bảo mật. Những mô hình đó sẽ giúp mỗi người dùng xác định chiến lược sản xuất bền vững tốt và phù hợp nhất.

Công nghệ vi sinh

Ông Nguyễn Văn Điểm ở huyện Cù Lao Dung (Sóc Trăng) thả 420.000 post vào ao đất diện tích 2.200m2, sau 70 ngày thu hoạch tôm cỡ 60 con/kg, lãi 200 triệu đồng.

Cũng như ông Điềm, ông Trần Chí Cường ở xã Vĩnh Hậu, huyện Hòa Bình (Bạc Liêu) nuôi tôm thắng lợi nhờ áp dụng công nghệ vi sinh đột phá.

Đây là phương pháp nuôi tôm “nói không với kháng sinh” mà sử dụng những chế phẩm bổ sung là vi sinh, khoáng chất, vitamin, dinh dưỡng…

Bên cạnh giảm chi phí sản xuất như sử dụng nhân công hiệu quả, thiết kế mô hình tối ưu, chọn thức ăn, chọn nguồn tôm giống, quản lý thức ăn để giảm giá thành sản xuất. Tất cả đưa đến cho người nuôi tôm chủ động hơn trong khâu phòng bệnh.

Bởi vì diễn biến trong ao nuôi tôm thường biến chuyển rất nhanh, nếu xử lý không đúng cách và phòng ngừa chủ động thì việc khắc phục hậu quả là phức tạp, rủi ro cao.

Đơn vị cung cấp vi sinh là Công ty Cổ phần Vi sinh ứng dụng, đại diện Công ty là bà Bùi Thị Huỳnh Hoa cho hay: “Chúng tôi đã thành công trong việc tuyển chọn được chủng vi khuẩn có khả năng diệt Vibrio harveyi gây bệnh phát sáng và vibrio parahaemolyticus gây bệnh hoại tử gan tụy”.

Bà giải thích, người nuôi tôm trước nay rất bị động, lúng túng khi ao nuôi xảy ra sự cố. Xử lý thường được bà con áp dụng: Khi tôm bị bệnh gan, ruột, rớt lai rai, bỏ ăn thì dùng kháng sinh diệt khuẩn, dùng hóa chất cắt tảo và hạn chế khí độc. Không chủ động khống chế nên lúng túng và xử lý theo sự vụ, không nắm vững được kiến thức cơ bản, bản chất vấn đề về phòng và trị; gây lãng phí, không hiệu quả đặc biệt là lạm dụng kháng sinh, hóa chất.

“Để xử lý ô nhiễm môi trường ao nuôi, giúp nước trở nên trong sạch thích hợp cho con tôm sinh trưởng thì cần phải có chế phẩm vi sinh vật đủ mạnh, chứa nhiều vi sinh vật có nhiều tính năng khác nhau được tuyển chọn trong các phòng thí nghiệm vi sinh vật có uy tín”, bà Hoa nhấn mạnh.

Theo bà, chế phẩm được lựa chọn phải đa năng, có khả năng phân giải các chất hữu cơ làm sạch môi trường, chuyển hóa làm giảm các chất độc, sinh ra các chất kháng sinh tự nhiên chống vi sinh vật gây bệnh thường gặp ở tôm.

Như thế, cũng theo bà Hoa, chế phẩm tốt phải chứa các vi sinh vật sinh enzim phân giải các chất hữu cơ không mong muốn, làm giảm BOD đảm bảo độ trong của nước (khoảng 30 – 40cm).

Để làm giảm NH3 cần có vi khuẩn, ví dụ Nitrosomonas oxi hóa NH3 thành NO2-. Để làm giảm NO2- cần có vi khuẩn, ví dụ Nitrobacter oxi hóa NO2- thành NO3- và để làm giảm NO3- cần có các vi khuẩn như Pseudomonas denitrificans, Bacillus licheniformis… tiến hành phản nitrat hóa, tức khử NO3- thành nitơ phân tử hoặc amôn hóa NO3- thành NH2OH hoặc NH3.

Để làm giảm giảm H2S cần có vi khuẩn quang hợp lưu huỳnh tía để oxi hóa H2S thành lưu huỳnh phân tử. Vi khuẩn này chứa hàm lượng protein rất cao nên thuận lợi làm thức ăn cho ấu trùng tôm đồng thời chứa omega 3,7,9 rất cần cho việc chuyển giai đoạn của ấu trùng tôm.

“Chất kháng sinh đã và sẽ bị cấm hoàn toàn trong nuôi tôm do vậy bắt buộc phải đưa các vi sinh vật đối kháng vào chế phẩm”, bà Hoa kết luận.

Quy trình kỹ thuật

Nổi bật thời gian qua, Tập đoàn Việt – Úc xây dựng mô hình nuôi tôm công nghệ cao thích ứng với biến đổi khí hậu. Đó là quy trình kỹ thuật nuôi tôm trong nhà kính, hoàn toàn chủ động, ít chịu tác động của môi trường. Hiện nay, Tập đoàn Việt-Úc đang từng bước hoàn thiện qui trình nuôi tôm sinh học thân thiện môi trường, hướng tới ứng dụng năng lượng sạch trong nuôi trồng thủy sản.

12-33-20_2212192
Thiết bị lọc nước ao tôm ở Tập đoàn Việt – Úc.

Cũng ở tỉnh Bạc Liêu, Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Trúc Anh có quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh ít rủi ro và trách nhiệm với môi trường. Hiệu quả của quy trình được nhấn mạnh ở 4 đặc tính, đầu tiên là gắn kết môi trường, tiếp theo là tính kinh tế và bền vững, cuối cùng là tính nhân rộng.

Gắn kết với môi trường vì không sử dụng kháng sinh, hóa chất; ít thay nước. Từ đó nâng cao tính kinh tế vì góp phần giảm chi phí 10-20%, giá bán tôm cao hơn so với thị trường 5 – 10%. Hệ số thức ăn 0,85 – 1; mật độ nuôi 200 – 300 con/m2; tăng số vụ nuôi lên 3 – 4 vụ/năm. Tính ra chi phí 1kg tôm loại 50 con/kg khoảng 68.000 – 72.000 đồng. Sản lượng đạt từ 80 – 120 tấn/ha/năm. Tính kinh tế gắn liền với tính bền vững khi tỷ lệ tôm sống cao, giảm hiện tượng tôm chết sớm và môi trường giữ được trong lành.

Để đạt được các kết quả, Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Trúc Anh đưa ra thiết kế và quản lý quy trình ao nuôi cụ thể. Trong đó, nhóm dinh dưỡng nhằm tăng cường chức năng gan; cung cấp vi sinh đường ruột; kích thích bắt mồi, bao bọc thức ăn; giúp vỏ tôm dày, sáng bóng; tôm nặng cân, chắc thịt. Còn nhóm xử lý môi trường nhằm khống chế NO2, NH3, ổn định màu nước, cung cấp vi khuẩn có lợi tùy theo mật độ nuôi để sử dụng phù hợp; cung cấp Ca, Mg; ngăn ngừa tôm bị cong thân, đục cơ, giúp tôm cứng vỏ.

Giám đốc Công ty Trúc Anh, ông Lê Anh Xuân cho biết, hạch toán chi phí với 1ha nuôi tôm như sau: Chi phí xây dựng cơ bản 700.000.000 đồng; tổng chi phí một năm 2.054.385.000 đồng; tổng doanh thu một năm 3.744.000.000 đồng; lợi nhuận một năm 1.689.615.000 đồng.

“Quy trình của chúng tôi có ưu điểm là dễ nhân rộng trong các hộ nuôi tôm nhỏ lẻ nên đã phát triển ở nhiều tỉnh là Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Tiền Giang, Long An và một số tỉnh phía Bắc. Tổng diện tích ứng dụng quy trình của chúng tôi năm 2018 là 535 ao, sang năm 2019 tăng lên gần gấp đôi”, ông Xuân nói.

SÁU NGHỆ
Nguồn : Báo tuổi trẻ

Xã Nga Tân xây dựng vùng nuôi trồng thủy sản an toàn

Thời gian qua, các hộ nuôi trồng thủy sản ở xã Nga Tân, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng theo hướng VietGap, quản lý chặt chẽ về con giống, tình hình dịch bệnh và việc sử dụng các chế phẩm sinh học trong quá trình nuôi, mang lại hiệu quả kinh tế cao.  

 

Trong quá trình nuôi tôm theo hướng VietGap, các hộ nuôi trồng thủy sản theo hướng VietGap ở xã Nga Tân ghi sổ nhật ký, ghi chép rõ ràng lượng thức ăn hàng ngày, chỉ số môi trường nước phù hợp với quá trình sinh trưởng và phát triển của tôm. Với sự giám sát chặt chẽ ngay tại vùng nuôi, nên tỷ lệ tôm sống đạt từ 75 – 80%, cao gấp 1,5 lần so với mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng không theo quy trình VietGap.

Nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình VietGap giảm dịch bệnh, sản phẩm nuôi an toàn vệ sinh thực phẩm, hiệu quả kinh tế cao hơn; Môi trường ao nuôi được duy trì tốt trong quá trình nuôi, lượng hóa chất sử dụng ít và bảo đảm yêu cầu truy xuất nguồn gốc sản phẩm qua nhật ký ghi chép; Hạn chế được việc tác động ảnh hưởng đến môi trường ngoài ao nuôi. Mô hình đã từng bước giúp các hộ nuôi tôm thay đổi cách làm, chuyển hướng sang nuôi thâm canh, tăng thu nhập.

Theo chuyên mục Vàng trong đất ngày 27.12/TTV      

Sửa đổi vi khuẩn trong ao nuôi tôm

Công nghệ đã cung cấp những lợi ích đáng kể; vẫn còn nhiều tiềm năng để cải thiện năng suất ao

Vi sinh vật rất quan trọng và có chức năng quan trọng trong hệ thống nuôi trồng thủy sản, bao gồm nuôi tôm cả trong phòng thí nghiệm / trại giống và vườn ươm / bà mẹ, và trong ao vỗ béo, vì chất lượng nước và kiểm soát dịch bệnh có liên quan trực tiếp và Họ rất bị ảnh hưởng bởi hoạt động của vi sinh vật.

Cộng đồng ao vi sinh vật là một thành phần quan trọng và thường bị bỏ qua trong hệ sinh thái nuôi trồng thủy sản nói chung và đặc biệt quan trọng trong ao nuôi tôm. Quần thể vi sinh vật đóng một vai trò rất quan trọng trong ao, bao gồm tái chế chất dinh dưỡng; năng suất sơ cấp; và việc duy trì, điều tiết và khắc phục nước và chất lượng của các quỹ.

Một số sản phẩm chế phẩm sinh học có sẵn trên thị trường cho các nhà sản xuất tôm và nhiều nhà sản xuất cũng có “công thức” riêng được phát triển thông qua thử nghiệm và sai sót và kinh nghiệm.

Probiotic là nuôi cấy (cá thể hoặc hỗn hợp) các chủng vi khuẩn được chọn sử dụng trong hệ thống nuôi cấy và sản xuất (ao, kênh và các hệ thống khác) để sửa đổi hoặc thao túng các cộng đồng vi khuẩn trong cột nước và trầm tích đáy, để giảm hoặc loại bỏ các vi sinh vật gây bệnh và cải thiện sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của các loài mục tiêu.

Một số sản phẩm chế phẩm sinh học thương mại có sẵn cho các nhà sản xuất tôm và nhiều nhà sản xuất cũng có “công thức” riêng (bao gồm cả các tác giả) được phát triển thông qua thử nghiệm và sai sót, và kinh nghiệm. Tất cả các sản phẩm và công thức nấu ăn được sử dụng rộng rãi để tăng cường sức khỏe và hiệu suất của tôm; thúc đẩy và quản lý sự phân hủy bùn và chất thải hữu cơ trong ao nuôi tôm, bể và mương; và cải thiện chất lượng nước thải ao nếu thay nước được thực hiện.

Những cộng đồng này đóng một vai trò quan trọng trong sự sẵn có của thực phẩm tự nhiên, tỷ lệ tái chế khoáng sản và động lực oxy hòa tan (OD) trong ao nuôi tôm. Quản lý hiệu quả cộng đồng vi sinh vật có thể giúp ngăn ngừa hoặc giảm nguy cơ bùng phát dịch bệnh, nhưng nếu quản lý sai, cộng đồng vi sinh vật cũng có thể thúc đẩy bệnh tật, tạo điều kiện thuận lợi cho phép sự phát triển và tăng sinh của vi khuẩn gây bệnh.

Quản lý vi sinh vật vẫn là một lĩnh vực nghiên cứu tương đối mới nhưng chắc chắn rất hứa hẹn cho ngành nuôi tôm. Để hiểu rõ hơn về sự liên quan của các cộng đồng vi sinh vật trong hệ thống sản xuất tôm và tầm quan trọng của chúng đối với năng suất ao và để quản lý tốt hơn quần thể vi sinh vật trong ao nuôi tôm của chúng là mối quan tâm lớn đối với tất cả các nhà sản xuất tôm.

Phương thức hành động và lợi ích

Việc sử dụng sửa đổi vi khuẩn – một công nghệ lấy từ ngành xử lý nước thải – có một số lợi ích trong ao nuôi trồng thủy sản, bao gồm giảm mức độ nitrat, nitrite, ammonia và phosphate; giảm quần thể tảo xanh và ngăn ngừa mùi vị xấu; tăng nồng độ oxy hòa tan và thúc đẩy sự phân hủy các chất hữu cơ. Probiotic cải thiện quá trình tiêu hóa chất hữu cơ thông qua việc cung cấp các enzyme thiết yếu, điều tiết và thúc đẩy sự hấp thụ trực tiếp các chất hữu cơ hòa tan, thông qua việc sản xuất tích cực các chất ức chế mầm bệnh và các cơ chế có thể khác.

Có một số cách mà chế phẩm sinh học có thể hoạt động trong các hệ thống nuôi trồng thủy sản. Men vi sinh ao hoạt động chủ yếu thông qua loại trừ cạnh tranh và thành phần của các loài vi sinh vật trong hệ thống nuôi trồng thủy sản như một ao mở được xác định một phần do tình cờ và một phần bởi các yếu tố sinh lý cho phép một số loài phát triển và phân chia nhiều hơn nhanh chóng hơn những người khác, và do đó thống trị về số lượng. Do đó, các điều kiện tình cờ có lợi cho các vi sinh vật ở đúng nơi, đúng thời điểm để hưởng lợi từ các điều kiện có lợi cho chúng, chẳng hạn như sự gia tăng đột ngột về lượng dinh dưỡng.

Các ứng dụng sinh thái cụ thể của quản lý sinh thái vi sinh vật trong ao nuôi tôm bao gồm tối ưu hóa tốc độ nitrat hóa để duy trì nồng độ amoniac thấp; tối ưu hóa tốc độ khử nitrat để loại bỏ nitơ dư thừa từ ao dưới dạng khí nitơ; tối đa hóa quá trình khoáng hóa carbon thành carbon dioxide để giảm thiểu tích tụ bùn; tối đa hóa năng suất sơ cấp kích thích sản xuất tôm và cả cây trồng thứ cấp; và duy trì một cộng đồng ao đa dạng và ổn định nơi các loài không mong muốn không trở nên chiếm ưu thế.

Ý kiến ​​của các chuyên gia khác nhau về tiềm năng của việc sử dụng công nghệ sinh học vi khuẩn hoặc định lượng sinh học để cải thiện sản xuất nuôi trồng thủy sản, nhưng chủ yếu ủng hộ việc sử dụng nó và ủng hộ mạnh mẽ công nghệ vi sinh vật trong ao nuôi tôm.

Quang cảnh chuẩn bị bên cạnh ao và ứng dụng men vi sinh trong thùng nhựa 55 gallon (mũi tên đỏ), điển hình của ao nuôi tôm nhỏ hơn và trang trại.

Probiotic và quản lý vi sinh vật của ao

Các điều kiện môi trường trong ao nuôi tôm phải được quản lý một cách hiệu quả để việc bổ sung các chế phẩm sinh học như cây Bacillus có thể mang lại hiệu quả có lợi đáng kể. Các vi khuẩn dương tính lớn (vi khuẩn kiểm tra dương tính trong quy trình nhuộm Gram, nhanh chóng phân loại vi khuẩn thành hai loại rộng theo đặc điểm của thành tế bào của chúng) từ Bacillus tạo ra một số exoenzyme rất hiệu quả trong việc phá vỡ các polyme và các hợp chất khác lớn – như protein, cellulose và tinh bột – trong các đơn vị nhỏ hơn và làm suy giảm chất liệu hữu cơ và mảnh vụn trong ao.

Nhưng để các vi khuẩn này trở nên chiếm ưu thế và làm suy giảm chất hữu cơ một cách hiệu quả, điều kiện môi trường trong ao phải có đủ lượng oxy hòa tan, pH và các chất dinh dưỡng thiết yếu để hoạt động sửa đổi vi khuẩn không bị hạn chế. Và trên thực tế, một số nhà cung cấp sửa đổi vi khuẩn thương mại không được thông báo đầy đủ về các điều kiện môi trường cần thiết để sản phẩm của họ hiệu quả hơn và thường không thông báo cho khách hàng của họ. Một thành phần quan trọng để sửa đổi vi khuẩn để làm việc hiệu quả.

Một chương trình chế phẩm sinh học đầy đủ trong ao đòi hỏi phải kiểm soát việc cho ăn cẩn thận để tránh cho ăn quá nhiều và tránh căng thẳng cho động vật là một thành phần điển hình của các chương trình đó. Chi phí sản xuất trong ao được xử lý bằng chế phẩm sinh học thường cao hơn, nhưng năng suất được cải thiện (tổng sản lượng và kích cỡ tôm lớn hơn) cải thiện lợi nhuận tổng thể và làm cho việc quản lý chế phẩm sinh học có lợi hơn so với các quy trình quản lý sản xuất khác.

Đặc biệt, việc áp dụng thường xuyên các sửa đổi vi khuẩn là một thành phần quan trọng trong hoạt động của một trang trại nuôi tôm tuần hoàn nước từ ao của nó, để hỗ trợ phân hủy chất hữu cơ và bùn, để giảm tỷ lệ vi sinh vật gây bệnh. và để cải thiện chất lượng nước. Khi các trang trại nuôi tôm lớn trở thành các hoạt động tuần hoàn nước, toàn bộ lượng nước của trang trại sẽ trở thành một hệ thống biofloc tự dưỡng dị dưỡng. Để đạt được điều này, cần có các cơ sở riêng biệt để sản xuất vi khuẩn trong trang trại.

Các khu vực sản xuất chuyên dụng được sử dụng để sản xuất khối lượng lớn sửa đổi vi khuẩn áp dụng cho ao nuôi tôm trong trang trại một cách thường xuyên (trái). Các ứng dụng sửa đổi vi khuẩn cho các ao lớn thường sử dụng các phương tiện và thiết bị chuyên dụng (phải).

Triển vọng

Công nghệ xử lý sinh học ao hoặc công nghệ sinh học ao sử dụng men vi sinh mang lại lợi ích đáng kể cho các nhà sản xuất tôm trên toàn thế giới và là một lĩnh vực nghiên cứu đầy hứa hẹn để cải thiện hơn nữa hiệu quả của các hệ thống nuôi trồng thủy sản.

Sử dụng men vi sinh ao tôm đúng cách là đặc biệt quan trọng để duy trì sức khỏe và cải thiện năng suất trong các hệ thống thâm canh cao, trong việc thực hiện và tối ưu hóa các hệ thống sản xuất trao đổi nước thấp và bằng không, để quản lý và cải thiện chất lượng nước thải từ các ao.

Cũng như các lĩnh vực khác, cần nhiều nghiên cứu hơn để đạt được tiềm năng đáng kể rằng men vi sinh ao phải cải thiện hiệu quả nuôi tôm và khả năng tồn tại của nó như là một ngành công nghiệp bền vững và thân thiện với môi trường.

Nguồn : https://sinhhoctomvang.vn/

Sử dụng đất hiếm trong NTTS

Đất hiếm thường được biết đến với các ứng dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp, điện tử và đã được nghiên cứu ứng dụng trong nông nghiệp từ rất sớm. Trong NTTS, sử dụng đất hiếm bước đầu đã có kết quả giúp việc quản lý môi trường, dịch bệnh và dinh dưỡng tốt hơn cho vật nuôi.

Đất hiếm là một nhóm 17 loại vật chất có từ tính và tính điện hóa đặc biệt. Chúng bao gồm các chất như gadolinium, lanthanum, cerium và promethium, có vai trò thiết yếu trong sản xuất thuốc điều trị ung thư, điện thoại thông minh và các công nghệ năng lượng tái tạo.

Trung Quốc đã sớm nghiên cứu ứng dụng đất hiếm trong NTTS, bao gồm cá và tôm. Cung cấp các hợp chất đất hiếm khác nhau: các axit amin đất hiếm (50% đất hiếm methionine và lysine tương ứng), đất hiếm Vitamin C, citrate đất hiếm, gluco đất hiếm và acid gluconic đất hiếm để nuôi cá chép trong 60 ngày, tăng trọng lượng cơ thể > 20% trong tất cả các nhóm thử nghiệm so đối chứng. Kết quả tốt nhất nhận được trong thực nghiệm cho cá ăn axit amin đất hiếm, có thể làm tăng trọng lượng cơ thể 28,9%. Đối với đất hiếm Vitamin C và các hợp chất citrate, tăng trọng lượng cơ thể tăng tương ứng là 27,2% và 24,1%, trong khi đó glutamate đất hiếm và acid gluconic tăng 23,0% và 20,1%. Hơn nữa, bổ sung đất hiếm cũng có khả năng tăng hiệu quả sinh sản nhân tạo cá chép, cá trắm cỏ, cá hồi vân và cả trên tôm.

Ở Việt Nam, những năm gần đây, ứng dụng đất hiếm đã được nghiên cứu trên tôm nuôi. Thực nghiệm của các nhà khoa học tại cơ sở nuôi tôm ở Hà Tĩnh đối chứng ao nuôi sử dụng đất hiếm và các ao không sử dụng đất hiếm với cùng mô hình thả nuôi và chế độ dinh dưỡng cho thấy sự khác biệt của ao nuôi sử dụng đất hiếm là: pH nước ổn định, tạo màu nước tốt, hạn chế sự phát triển của tảo độc, tạo điều kiện cho các tảo có lợi phát triển. Môi trường nuôi sạch, ít khí độc, từ đó, chi phí sử dụng hóa chất dùng cho xử lý nước thấp hơn. Ao nuôi không phải thay nước nhiều giúp tiết kiệm tài nguyên nước, giảm nguy cơ phát tán bệnh ra môi trường và giảm nguy cơ nhiễm bệnh từ môi trường bên ngoài, tiết kiệm chi phí năng lượng, chi phí hao mòn máy móc thiết bị (do không phải bơm thay nước nhiều). Trong ao nuôi sử dụng đất hiếm, tôm khỏe, có sức đề kháng tốt, ít bị bệnh, hạn chế dùng kháng sinh và giảm chi phí thức ăn do tăng khả năng chuyển hóa thức ăn.

Do điều kiện tự nhiên trong năm 2015 không thuận lợi, không quản lý tốt nguồn nước, nguồn dịch bệnh… nên hầu hết các vùng nuôi tôm đều bị mất mùa, đặc biệt là vùng nuôi tôm ven biển Hà Tĩnh (cả 5 ao đối chứng của Công ty Dịch vụ Thủy sản Thạch Hà đều bị mất trắng, không cho thu hoạch). Trong khi đó, chỉ có duy nhất ao nghiên cứu có sử dụng các chế phẩm đất hiếm là có thu hoạch. Đây là một minh chứng rất rõ cho tính ưu việt của việc sử dụng các chế phẩm đất hiếm trong quản lý, xử lý nước hồ nuôi tôm.

Việc phân tích dư lượng đất hiếm trong sản phẩm tôm cho thấy dư lượng đất hiếm trong mẫu khảo nghiệm không khác so với đối chứng. Sản phẩm tôm của mô hình khảo nghiệm và đối chứng được phân tích tại Trung tâm Phân tích Viện Công nghệ xạ hiếm. Ngoài các thực nghiệm ở Hà Tĩnh, các thực nghiệm ở các địa phương khác cũng cho kết quả tương tự.

Triển vọng mở rộng các ứng dụng của đất hiếm để tạo ra các giải pháp NTTS bền vững là rất rõ ràng. Tuy nhiên, còn những vấn đề cần phải giải quyết như: Thành phần và hàm lượng tối ưu của các nguyên tố đất hiếm đối với những vấn đề cần giải quyết trong NTTS, chi phí sử dụng chế phẩm đất hiếm trong giá thành sản xuất thủy sản, tính tiện dụng và an toàn của mỗi chế phẩm… Ngoài sự tham gia của các doanh nghiệp, cần sự tham gia của các cơ quan sự nghiệp công ích nhằm xác định tính hiệu quả và an toàn của giải pháp công nghệ này trước khi ứng dụng rộng rãi trong sản xuất.

H.N (Thủy sản Việt Nam)

Bổ sung bí đỏ làm thức ăn cho tôm thẻ chân trắng: chất lượng tôm cải thiện và chi phí rẻ hơn

Đánh giá khả năng bổ sung bí đỏ (Cucurbita Pepo) làm thức ăn cho tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei), nhóm nghiên cứu Lê Quốc Việt , Trần Minh Phú và Trần Ngọc Hải, Trường đại học Cần Thơ cho rằng, khi bổ sung 10% bí đỏ làm thức ăn cho tôm thẻ thì chất lượng của tôm nuôi được cải thiện và chi phí sử dụng thức ăn thấp (37.262 đ/kg tôm thương phẩm).

Tôm thẻ chân trắng có nhiều ưu điểm như: tốc độ sinh trưởng nhanh, thời gian nuôi ngắn và có thể nuôi ở mật độ cao, đem lại hiệu quả kinh tế lớn cho người nuôi.

Vấn đề cấp thiết hiện tại là lựa chọn mô hình nuôi và đối tượng nuôi thích hợp để đảm bảo tính bền vững trong nuôi trồng thủy sản. Nhiều mô hình nuôi cải tiến được áp dụng nhằm đảm bảo an toàn sinh học, nâng cao năng suất và thân thiện với môi trường được áp dụng như: thực hành nuôi tốt (GAP – good aquaculture practice), thực hành quản lý tốt (BMP – best management practice), nuôi an toàn sinh học (bio – security shrimp culture), nuôi có trách nhiệm, nuôi kết hợp và nuôi sinh thái.

Hiện nay, công nghệ biofloc được biết đến với nhiều ưu điểm vượt trội dựa vào sự phát triển cộng sinh của vi sinh vật ổn định môi trường, hạn chế hoặc rất ít thay nước. Các vi sinh vật hiếu khí trong hạt biofloc có vai trò duy trì chất lượng nước thông qua việc chuyển hóa amonium, tái sử dụng thức ăn dư thừa, giảm lượng TAN, nitrite, giảm lượng thức ăn sử dụng và đảm bảo an toàn sinh học.

Tuy nhiên, khi nuôi tôm thẻ chân trắng theo hướng siêu thâm canh thì tôm thường có màu đỏ nhạt sau khi luộc chín, do tôm không tổng hợp đầy đủ sắc tố, đặc biệt là astaxanthin. Trong nuôi tôm thẻ chân trắng kết hợp với rong bún (Enteromorpha sp.) và rong mền (Cladophoraceae), sau khi luộc chín tôm có màu đỏ đậm.

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định lượng bí đỏ bổ sung thích hợp cho sự tăng trưởng, tỷ lệ sống, đồng thời cải thiện màu sắc và chất lượng của tôm nuôi, góp phần xây dựng qui trình nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm.

Trong nghiên cứu, khi bổ sung bí đỏ vào khẩu phần ăn của tôm thì thành phần sinh hóa của tôm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, nhưng khi bổ sung 20 và 30% bí đỏ thì ẩm độ của tôm tăng lên và khác biệt có ý nghĩa so với đối chứng và bổ sung 10%. Ngược lại, khi bổ sung bí đỏ càng nhiều thì hàm lượng protein trong thịt tôm giảm dần và khác biệt có ý nghĩa thống kê.

Khi bổ sung 10% bí đỏ vào khẩu phần ăn của tôm thì sinh khối của tôm nuôi được cải thiện (1,22 kg/m3 ) so với chỉ sử dụng thức ăn viên (1,04 kg/m3 ) và chi phí thức ăn cho 1 kg tôm thương phẩm cũng thấp nhất (37.261 đồng).

Việc bổ sung 10% bí đỏ cho tôm ăn thì màu sắc của tôm nuôi đậm hơn so với chỉ cho cho tôm ăn thức ăn viên. Tuy nhiên, thành phần sinh hóa của tôm khác biệt không ý nghĩa so với nghiệm thức đối chứng.

Nhóm nghiên cứu cho rằng, có thể bổ sung 10% bí đỏ so với lượng thức ăn viên để cho tôm thẻ chân trắng ăn trong nuôi thương phẩm, nhằm cải thiện năng suất, màu sắc và làm giảm giá thành sản xuất.

N.Ngọc – Khoa học Phổ thông

Ứng dụng công nghệ cung cấp nồng độ oxy cao từ Nhật Bản để cải thiện năng suất nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam

Đó là tên hội thảo do Khoa Thủy sản (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) và Tập đoàn Sanso, Nhật Bản phối hợp tổ chức sáng ngày 14/12/2019 tại Hà Nội. Hội thảo đề cập đến những nghiên cứu mới nhất tại khoa Thủy sản; đồng thời giới thiệu công nghệ tiên tiến đến từ Nhật Bản giúp cải thiện năng suất ở một số loài quan trọng ở Việt Nam.

Tham dự hội thảo có đại diện Học viện Nông nghiệp Việt Nam – GS TS Phạm Văn Cường – Phó Giám đốc Học viện; PGS.TS Kim Văn Vạn – Trưởng Khoa và TS Trương Đình Hoài – Phó Trưởng Khoa Khoa Thủy sản; Phần khách mời gồm có ông Takehiro Ichinose, Giám đốc Công ty Sanso – nhà tài trợ chính của hội thảo; ông Nguyễn Đức Bình – Trưởng đại diện công ty Hosoda Việt Nam. Bên cạnh đó, còn có sự hiện diện của gần 50 khách mời là công ty uy tín hoạt động trong ngành nuôi trồng thủy sản như CP Việt Nam, Tập đoàn Việt Úc, Công ty Xuyên Việt, đại diện các sở thủy sản các tỉnh phía Bắc, các công ty kinh doanh, các chủ trang trại sản xuất giống, ương nuôi thủy sản….

Theo GS Phạm Văn Cường, Khoa Thủy sản được tách riêng từ khoa Chăn nuôi và Nuôi trồng thủy sản từ năm 2015, là khoa non trẻ nhất trong Học viện với số lượng cán bộ công nhân viên và sinh viên chưa nhiều. Tuy nhiên vai trò của khoa trong chiến lược phát triển của Học viện và của ngành thủy sản là vô cùng quan trọng. Trong thời gian qua khoa đã có nhiều hoạt động và nhiều đóng góp đáng kể đối với sự phát triển của Học viện và ngành thủy sản nước nhà. Việc tổ chức những chương trình hội thảo sẽ là cơ hội để giới thiệu, là cầu nối để cung cấp thông tin về những kết quả nghiên cứu thiết thực cùng những giải pháp, mô hình hiện đại, chuyển giao công nghệ từ các quốc gia có nền khoa học công nghệ phát triển tới người nuôi trồng thủy sản Việt Nam.

GS.TS. Phạm Văn Cường bày tỏ và hy vọng Học viện Nông nghiệp Việt Nam nói chung và Khoa Thủy sản nói riêng sẽ luôn là cầu nối tin cậy trong hoạt động chuyển giao khoa học công nghệ và có nhiều đóng góp hơn nữa cho ngành thủy sản nước nhà.

Tiếp đó, TS Trương Đình Hoài giới thiệu về công nghệ cung cấp hàm lượng oxy cao đến từ Nhật Bản. TS Hoài nhận định, trong hoạt động nuôi trồng thủy sản thì chất lượng nước nuôi có vai trò vô cùng quan trọng. Ngoài kiểm soát tốt các yếu tố thủy lý, thủy hóa trong nước, việc đo lường hàm lượng oxy là vấn đề cần được quan tâm. Nguồn nước nuôi giàu oxy sẽ giúp các loài nuôi khỏe mạnh, tăng cường sức đề kháng để chống chọi tốt với dịch bệnh và sinh trưởng tốt. Nhắc đến hàm lượng oxy cao trong nuôi trồng, Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu trong lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng và sử dụng công nghệ hiện đại, trong đó công nghệ của hệ thống Sansolver tạo oxy hòa tan cao đã được khoa Thủy sản nghiên cứu và ứng dụng trong thí nghiệm kiểm chứng. Và kết quả của quá trình nghiên cứu thông tin công khai qua chương trình hội thảo này.

Ông Takehiro Ichinose, Giám đốc công ty Sanso cho biết, một khó khăn lớn trong việc nuôi trồng đó chính là nguồn nước nuôi thường có hàm lượng oxy hòa tan thấp nên khó thể đáp ứng được việc nuôi với mật độ cao. Trong khi đó, mật độ nuôi và lợi nhuận là 2 yếu tố tỷ lệ thuận với nhau. Nhằm cải thiện điều này, công ty Sanso đã bắt tay vào nghiên cứu nhằm tạo sản phẩm có khả năng cung cấp hàm lượng oxy hòa tan cao và sự ra đời của chiếc máy Sansolver chính là thành quả của quá trình.

Theo đo lường và so sánh thực tế, khi sử dụng quạt nước, sục khí, phun mưa thì lượng oxy tạo ra chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao mật độ nuôi lên nhiều lần. Hệ thống Sansolver có thể tạo ra hàm lượng oxy cao (40mg/l) để cung cấp thêm vào hệ thống nuôi. Nước nuôi được cung cấp thêm oxy hòa tan sẽ mang tới nhiều lợi ích khác như: Tăng được mật độ thả nuôi gấp nhiều lần; Nâng cao sức khỏe trong xử lý bệnh; Giữ cá giống, cá thương phẩm; Nâng cao tỷ lệ sống, tốc độ sinh trưởng trong các trại sản xuất giống; Sản xuất ra nguồn thức ăn tươi sống; Xử lý nước thải và khí thải trong ao nuôi…

Hiệu quả thực tế của Sansolver, công nghệ Nhật Bản được kiểm chứng thực tế qua thí nghiệm đối chứng được thực hiện tại Khoa Thủy sản của Học viện. PSG.TS Kim Văn Vạn và TS Trương Đình Hoài lần lượt trình bày hiệu quả cung cấp oxy hòa tan nồng độ cao trong ương nuôi lên sinh trưởng, tỷ lệ sống, hiệu quả sử dụng thức ăn của cá vược và cá rô phi. Thí nghiệm được bố trí với các bể nuôi đối chứng, sử dụng công nghệ sục thông thường và bể nuôi sử dụng công nghệ tạo hàm lượng oxy cao từ Sansolver.

Kết quả thu được cho thấy, cá nuôi bể thí nghiệm tăng trưởng tốt, mã đẹp, trọng lượng tăng nhanh, tỷ lệ sống cao, hệ số sử dụng thức ăn (FCR giảm 13%) và quan trọng nhất là mật độ nuôi tăng 5 lần so với lô đối chứng. Bên cạnh đó, nhờ công nghệ hòa tan oxy của Sansolver, oxy được hòa tan hoàn toàn, tồn tại với nồng độ cao trong nước, không tạo bọt khí nên không gây ra các hậu quả như sốc nước, gây tổn thương cá.

Ngoài các phần trình bày chính, hội thảo còn tổ chức hoạt động dẫn khách mời thăm quan thực tế khu vực thí nghiệm hệ thống tại Khoa Thủy sản để có đánh giá khách quan hơn. Các khách mời cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đều rất hào hứng có những câu hỏi và thảo luận xung quanh chủ đề công nghệ oxy hòa tan hàm lượng cao từ máy sansolver, bày tỏ thiện chí hợp tác với phía công ty Sanso Nhật Bản và khoa thủy sản triển khai và ứng dụng vào hoạt động nuôi trồng của mình trong thời gian tới.

Bể nuôi sử dụng công nghệ tạo oxy Sansolver (phải) có mật độ nuôi gấp nhiều lần bể đối chứng sử dụng công nghệ sục thông thường (trái).

Thảo Ngân

Trong thời gian tới, máy sansolver sẽ sẽ được tiến hành ở một số hoạt động thí nghiệm khác để chứng minh khả năng vận hành và hiệu quả đạt được. Với những tính năng đó, Sansolver sẽ là triển vọng mới trong nâng cao chất lượng và sản lượng thủy sản trong thời gian tới.

Nguồn :http://nguoinuoitom.vn/

CÔNG NGHỆ NANO TRONG NUÔI TÔM

Công nghệ Nano là hướng đi mới hiện nay kỳ vọng giải quyết được một số khó khăn cho ngành thủy sản. Nano là công nghệ tiên tiến hàng đầu mang nguyên lý kháng khuẩn, tiệt trùng siêu mạnh, là những hạt siêu nhỏ, kích thước được đo bằng Nano mét (1nm bằng phần triệu mm). Các hạt nano khi gặp các vi khuẩn, virus thì tương tác với lớp protein trên bề mặt vi khuẩn, virus rồi từ đó phá hủy màng tế bào, làm ức chế sự phát triển và tiêu diệt.

 

 

 

Nguồn: http://vemedim.com.vn/