Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Công Nghệ Nuôi Mới

Một số kỹ thuật nuôi tôm mùa lạnh

Nhiệt độ xuống thấp vào mùa lạnh làm ảnh hưởng đến sức đề kháng, quá trình sinh trưởng và phát triển của tôm. DO đó, cần có những biện pháp chăm sóc hợp lý để ao nuôi phát triển tốt, tránh các thiệt hại xảy ra.

Hình thức nuôi tôm thâm canh

Thả đúng mật độ từng loại nuôi theo đúng khuyến cáo của nhà chuyên môn. Tuân thủ theo đúng lịch thời vụ đã khuyến cáo, hạn chế thả, nuôi vào thời điểm thời tiết lạnh.

Giảm hoặc không tăng lượng thức ăn, mặc dù kiểm tra thức ăn trong nhá, sàng đã hết.

Nâng mức nước trong ao lên trên 1.4m nhằm giữ nhiệt độ ít dao động giữa ngày và đêm.

Tăng cường thời gian vận hành quạt, nhất là thời điểm trời ít nắng, ban đêm nhiệt độ xuống thấp.

Tăng sức đề kháng cho tôm nuôi bằng cách bổ sung các chất dinh dưỡng như vitamin C, men tiêu hóa…

Sử dụng chế phẩm sinh học để ổn định môi trường nước, hạn chế khí độc,…

Khi phát hiện tôm bị bệnh do vi khuẩn gây ra, cần sử dụng các loại thuốc diệt khuẩn (lodine, BKC, …) để điều trị, tôm nuôi bị nhiễm bệnh do virus thì cần xem xét tình hình toàn bộ, trường hợp nặng thì cần phải thi hoạch sớm.

Nuôi quảng canh cải tiến

Cần nâng mực nước trong vuông (mương bao trên 1.2m, trên mặt ruộng >0.5m).

Tuyệt đồi không cấp nước trực tiếp từ sông rạch chưa qua lắng lọc. Cần chủ động nguồn nước đã qua lắng lọc, xử lý kỹ trước khi cấp vào vuông nuôi.

Sử dụng men vi sinh định kỳ để ổn định môi trường, hạn chế khí độc làm sạch môi trường vuông nuôi.

Trường hợp đang cho tôm ăn dặm thì ngưng hoặc giảm thức ăn và phối trộn thêm các chất dinh dưỡng như Vitamin C, men tiêu hóa, … nhằm tăng cường sức đề kháng cho tôm nuôi.

Hình thức nuôi quảng canh và nuôi tôm rừng

Thả cắt vụ để có thời gian cải tạo đất. Nên cắt vụ tại thời điểm sên vét ao đầm, phải đảm bảo có thời gian phơi ao, đầm ít nhất khoảng 15 – 30 ngày.

Thời gian thả giống khoảng từ cuối tháng 11 đến cuối tháng 12.

Đối với bất kỳ hình thức nào thì người nuôi cũng cần thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường (ngày 2 lần), kiểm tra tình trạng sức khỏe tôm nuôi, kiểm tra bờ ao, cống bọng… để phát hiện sớm nhất các yếu tố bất lợi cho tôm nhằm đưa ra biện pháp xử lý hiệu quả và nhanh nhất.

Khi phát hiện tôm nuôi có biểu hiện ngoài tầm kiểm soát thì người nuôi cần báo ngay cho cán bộ kỹ thuật chuyên môn gần nhất để có biện pháp xử lý kịp thời, tránh tự ý dùng thuốc, hóa chất, kháng sinh cấm để trị các bệnh do virus gây ra, không tự ý xả thải nước chưa qua xử lý ra bên ngoài gây ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.

Nguồn:Khoa Thủy sản

Học viện Nông  nghiệp Việt Nam

Nuôi tôm theo quy trình VietGAP: Xu hướng tất yếu

 Nuôi tôm theo quy trình VietGAP, ngoài việc xử lý tốt các yếu tố như dịch bệnh, môi trường, còn có tác dụng tích cực trong việc giúp sản phẩm tôm Việt Nam vượt qua các rào cản thương mại quốc tế.

tr15t.jpg
Tham quan mô hình nuôi tôm theo VietGAP tại HTX Xuân Thành (Hà Tĩnh). Ảnh: Trần Hương

Nuôi tôm theo quy trình VietGAP, ngoài việc xử lý tốt các yếu tố như dịch bệnh, môi trường, còn có tác dụng tích cực trong việc giúp sản phẩm tôm Việt Nam vượt qua các rào cản thương mại quốc tế, nhất là khi nước ta thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA).

Năm 2025, xuất khẩu tôm đạt 10 tỷ USD

Theo TS. Nguyễn Huy Điền, Phó Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, nuôi trồng thủy sản, trong đó có nuôi tôm, đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trong bối cảnh phát triển nuôi tôm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu phải đáp ứng yêu cầu về sản lượng, chất lượng, ATTP, bảo vệ môi trường, an sinh xã hội…, Chính phủ có chủ trương phát triển nuôi tôm lên một tầm cao mới thông qua Quyết định 79/QĐ-TTg về Kế hoạch hành động quốc gia phát triển ngành tôm Việt Nam đến năm 2025. Theo đó, mục tiêu giá trị kim ngạch xuất khẩu tôm giai đoạn 2017 – 2020 đạt 5,5 tỷ USD và giai đoạn 2021 – 2025 đạt 10 tỷ USD.

TS. Điền phân tích: Trước những thay đổi về khí hậu, môi trường cũng như phát triển nuôi tôm mạnh mẽ, rộng khắp chưa theo quy hoạch và đầu tư cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu kỹ thuật cho nuôi tôm hiện nay thì nuôi tôm theo quy phạm GAP là việc áp dụng tiến bộ khoa học rất cần thiết. Đây là phương pháp tổng hợp nuôi trồng thủy sản bền vững được thực hiện bằng các quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt. Các biện pháp kỹ thuật phù hợp được áp dụng để nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế, đồng thời cũng khống chế được môi trường ổn định và tăng cường sức khỏe vật nuôi để chúng không thể gây ra dịch bệnh tràn lan.

Ngoài ra, người nuôi tôm cần phải đánh giá được tất cả các mối nguy và kiểm soát được tất cả các nguy cơ (kim loại nặng, kháng sinh, thuốc trừ sâu, độc tố nấm, vi sinh vật gây bệnh…) có thể gây mất an toàn vệ sinh thực phẩm, dịch bệnh… Nuôi thân thiện với môi trường và có trách nhiệm với xã hội để phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững bằng việc kiểm soát đầu vào, từ cải tạo ao nuôi, con giống chất lượng – an toàn dịch bệnh, quản lý môi trường ao nuôi đến lúc thu hoạch theo Quy phạm thực hành nuôi tốt (VietGAP) để có được năng suất, hiệu quả cao và đặc biệt là sản phẩm nuôi an toàn vệ sinh thực phẩm, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng và xuất khẩu đang ngày càng phổ biến và là xu thế tất yếu hiện nay.

Đảm bảo an toàn chất lượng: Yếu tố hàng đầu

Ông Điền cho biết, Trung tâm Dạy nghề và Chuyển giao công nghệ VACVINA đã phối hợp với Hội Làm vườn ba tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh  triển khai Dự án Xây dựng mô hình nuôi tôm chân trắng thâm canh theo VietGAP,  thuộc Chương trình Khuyến nông Trung ương giai đoạn 2017-2019.

Mô hình được xây dựng trên cơ sở quy trình công nghệ đã được Tổng cục Thủy sản tổng kết dựa trên cơ sở khoa học của VietGAP, đảm bảo an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh, thân thiện với môi trường và đạt hiệu quả kinh tế cao.

Hộ tham gia được tiếp cận kiến thức cơ bản về quy phạm VietGAP trong nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh; lợi ích khi áp dụng VietGAP; cập nhật, lưu giữ hồ sơ, sổ nhật ký, đánh giá tác động môi trường, một số vấn đề quan tâm khi nuôi tôm theo VietGAP và các mối nguy an toàn vệ sinh thực phẩm; kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng VietGAP.

Kết quả thực hiện mô hình rất khả quan: Với mật độ thả 80 con/m2, tỷ lệ sống đạt 80,7%; trọng lượng bình quân 57con/kg. Năng suất 12,27 tấn/ha. Cả 7 hộ tham gia mô hình đều được cấp chứng chỉ VietGAP (100%).

Quy trình nuôi tôm theo hướng VietGAP, thân thiện với môi trường, mấu chốt chủ yếu và rất cơ bản là sử dụng hợp lý thức ăn, chế phẩm sinh học, đảm bảo an toàn môi trường và dịch bệnh. Đặc biệt, không sử dụng kháng sinh, hóa chất để phòng trị bệnh bệnh tôm, chỉ sử dụng khi thật cần thiết. Toàn bộ quá trình nuôi sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý môi trường, tăng khả năng dinh dưỡng, tăng sức đề kháng cho tôm.

Triển khai thực hiện mô hình nuôi tôm theo hướng VietGAP bước đầu thấy  nhận thức của người dân có sự chuyển biến rõ nét trong trách nhiệm của người sản xuất đối với các sản phẩm tôm nuôi đảm bảo an toàn chất lượng, vệ sinh thực phẩm. Bà con kỳ vọng tăng được giá tôm nuôi nếu có chứng nhận VietGAP.

 P.V Nguồn : https://kinhtenongthon.vn

Xu hướng NTTS thông minh

Ngành NTTS đang tăng trưởng thần tốc và giữ vai trò quan trọng với an ninh lương thực và cân bằng dinh dưỡng cho dân cư toàn cầu. Do đó, NTTS thông minh là giải pháp hữu hiệu giúp ngành hoàn thành sứ mệnh.

Nuôi thâm canh và khép kín

Hệ thống tuần hoàn (RAS) là một cách nuôi mới và độc đáo. Những phương thức truyền thống nuôi thủy sản ngoài trời trong ao mở, hệ thống này lại sử dụng bể nuôi thủy sản mật độ cao trong nhà, được kiểm soát môi trường nghiêm ngặt. Hệ thống tuần hoàn lọc và làm sạch nước và tái sử dụng trong các bể.

RAS mang lại nhiều lợi ích cho nông dân hơn hệ thống nuôi ngoài trời trong các ao mở. Những lợi ích này gồm: tối đa sản xuất trong điều kiện nguồn cung nước và đất bị giới hạn; môi trường được kiểm soát gần như hoàn toàn nhằm tối đa sức khỏe của vật nuôi suốt quanh năm; dễ thay đổi vị trí cơ sở sản xuất gần thị trường tiêu thụ; thu thoạch thuận tiện và nhanh chóng, kiểm soát được dịch bệnh hiệu quả nếu có.

 

Năng lượng tái tạo

Một trong những vấn đề cơ bản mà ngành thủy sản đang phải đối mặt là quản lý nguồn năng lượng. Theo các chuyên gia trong ngành, thế hệ hiện nay phải có trách nhiệm đảm bảo năng lượng được sử dụng hiệu quả và giảm tác động lên môi trường ở mức tối thiểu. Năng lượng tái tạo bắt đầu tìm chỗ đứng trong các ngành sản xuất. Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đang trải qua giai đoạn tăng trưởng kinh tế và bùng nổ dân số. Nhu cầu năng lượng của khu vực này hiện đang tăng 10% mỗi năm, kéo theo nhu cầu sử dụng đất.

Một số học giả đã đề xuất giảm sử dụng năng lượng từ nhiên liệu bằng các nguồn năng lượng xanh tái tạo như năng lượng mặt trời và gió. Năng lượng nhiên liệu hóa thạch có hiệu quả chi phí ít hơn năng lượng tái tạo; và năng lượng tái tạo lại có tiềm năng sử dụng trong các hệ thống nuôi thủy sản RAS. Tại Đài Loan, Trung Quốc và một số nước châu Á, các dự án nuôi thủy sản thông minh bằng quang năng trở thành hy vọng cho người nuôi tôm và cá. Điện năng chiếm chi phí khoảng 20 – 40% tổng chi phí sản xuất thủy sản; tiêu thụ điện năng hàng tháng khoảng 2.000 kWh.

Xu hướng tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải khí CO2 đã thúc đẩy nông dân sử dụng điện năng hiệu quả hơn bằng năng lượng mặt trời và gió. Tại Đài Loan, các  mái che của nhà kính công nghệ Aqua-PV (nuôi thủy sản bằng quang điện) có thể tích hợp 720 tấm quang năng với sản lượng điện năng khoảng 407.808 kW/năm.

 

Hê thống nhà kính Aqua-PV

Các quốc gia nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới có lượng ánh sáng mặt trời trung bình trên mỗi đơn vị diện tích xấp xỉ 130 W/m2, rất thích hợp để phát triển năng lượng mặt trời. Thiết kế hệ thống Aqua-PV gồm một mô-đun điện quang, hệ thống tuần hoàn nước, hệ thống giám sát chất lượng nước, máy bơm sục khí tiết kiệm năng lượng hiệu quả kép và thiết bị chiếu sáng bằng đèn LED.

Hệ thống điện quang trong nuôi thủy sản tích hợp vào các trang trại đã góp phần giảm đáng kể chi phí năng lượng đầu vào. Theo những phân tích ban đầu, một nhà máy thí điểm 1 megawatt ở Đài Loan có thể làm giảm 15.000 tấn khí thải CO2mỗi  năm và giảm 75% lượng nước tiêu thụ so với một trại nuôi thủy sản thông thường. Nhiều quốc gia cũng đang thử nghiệm tính khả thi thương mại và kỹ thuật của việc sử dụng đất để nuôi thủy sản và sản xuất điện mặt trời.

 

NTTS tuần hoàn thông minh

Vì lý do vệ sinh, ngày càng có nhiều cơ sở sản xuất thủy sản tại châu Á xây dựng hệ thống nhà kính kín để ngăn chặn sự xuất hiện của dịch bệnh do các loài chim hoặc vật thủy sản khác gây ra. Nhà kính được ví như tán cây giúp tích hợp mô-đun năng lượng mặt trời.

Nuôi tôm hoặc cá trên cạn trong các hệ thống khép kín luôn được coi là hướng đi tiềm năng trong sử dụng cẩn trọng nguồn tài nguyên đất và nước của khu vực. Việc sử dụng đất hiệu quả hơn này sẽ góp phần bảo tồn các khu rừng ngập mặn còn lại và giảm đáng kể lượng nước tiêu thụ.

Ngoài ra, sử dụng kháng sinh được giảm tối thiểu nhờ môi trường kín và hệ thống biofloc – nơi tôm hoặc cá được cho ăn vi sinh vật trong một vòng khép kín. Bằng cách cung cấp bóng râm, các mô-đun năng lượng mặt trời được tích hợp vào khu nhà ở giúp cải thiện điều kiện làm việc cho nhân viên tại cơ sở; duy trì nhiệt độ nước thấp hơn thúc đẩy tăng trưởng của tôm và cá.

 

Công nghệ ICT và AIOT cho NTTS chính xác

Để tăng cường và củng cố sản xuất thủy sản bằng công nghệ điều khiển từ xa với mạng lưới IoT, các dữ liệu tổng hợp từ các máy cảm biến và vệ tinh đã được đưa vào sử dụng để NTTS hiệu quả hơn, thân thiện sinh thái hơn. Trong dự án Aqua-PV, một số nơi như Đài Loan đã triển khai công nghệ AIOT và chiến lược công nghệ sinh học để cách mạng hóa ngành NTTS. Bằng công nghệ ICT và AIoT, người điều hành sẽ nắm trong tay tổng quan về các thông số chất lượng nước như hàm lượng ôxy hòa tan, nhiệt độ, pH, độ mặn, NH3… đều được thường xuyên giám sát. Những hệ thống cảnh báo sớm và thiết bị điều chỉnh điều kiện chất lượng nước cũng bao gồm trong đó. Sử dụng hệ thống sinh trắc học bằng hình ảnh có thể tự động nhận dạng các loài tôm, cá và đo chiều dài cơ thể để sau đó chuyển sang trọng lượng thân. Trang trại cũng tiến hành cho ăn chính xác, tức là sử dụng nguồn thức ăn dễ tiêu hóa trong một môi trường được kiểm soát, chú trọng vào hiệu quả sử dụng thức ăn, giảm chi phí khẩu phần thức ăn hàng ngày và giảm thiểu phân thải.

Để kiểm soát dịch bệnh, ngăn chặn sự lây lan và hạn chế sử dụng kháng sinh quá mức, cần phải có công nghệ chẩn đoán dịch bệnh nhanh và chính xác. Công nghệ IoT và hệ thống hỗ trợ chẩn đoán dịch bệnh dựa trên các dấu hiệu lâm sàng cũng được ứng dụng bằng cách gửi hình ảnh vật nuôi bị nhiễm bệnh, kèm văn bản mô tả qua điện thoại di động tới trung tâm chẩn đoán dịch bệnh. Để thực hiện quy trình chẩn đoán dịch bệnh đã được thiết kế, những dữ liệu dịch bệnh tôm, cá; và dữ liệu nguyên nhân/ngăn chặn/chữa trị, chẩn đoán, xử lý dịch bệnh và phương pháp phòng ngừa các dịch bệnh có nguy cơ rủi ro cao cũng được tích hợp vào hệ thống để gửi tới người dùng qua máy tính cá nhân hoặc điện thoại di động. Hệ thống này sẽ hỗ trợ người nuôi thủy sản và bác sĩ thú y bằng cách cung cấp các chẩn đoán dịch bệnh nhanh và dễ dàng.

Nguồn: Theo National Taiwan Ocean University

C.P. Việt Nam: Mô hình CPF-COMBINE phiên bản 2

(Thủy sản Việt Nam) – Có mặt tại Việt Nam từ rất sớm và đồng hành với người nuôi tôm ngay từ những này đầu tiên, bên cạnh việc sản xuất và cung cấp ra thị trường các sản phẩm thức ăn tôm, tôm giống, chế phẩm sinh học chất lượng cao. Điều đặc biệt khiến khách hàng luôn nhắc tới C.P. Việt Nam đó là ở mỗi giai đoạn của nghề tôm, C.P đều có những mô hình tiên tiến và giải pháp kỹ thuật vượt trội để hỗ trợ cho bà con nuôi tôm.

Quay lại thời điểm của năm 2015, dựa trên sự kết hợp của các chương trình nuôi tôm an toàn sinh học CPF- Turbo program, chương trình ương tôm CPF- Greenhouse, chương trình quản lý trại tôm theo phương pháp vi sinh C.P Probiotic farming, chương trình quản lý 3 sạch, các cán bộ kỹ thuật của C.P. Việt Nam đã sáng tạo nên mô hình hoàn thiện có tên là CPF- COMBINE.

Mô hình CPF- COMBINE đã cho thấy hiệu quả vượt trội của mình: Tôm nuôi được kích cỡ lớn, năng suất cao, kiểm soát rủi ro tốt, hiệu quả kinh tế tối đa. Tính đến hết năm 2019, trên cả nước đã có hơn 8.000 ao nuôi được xây dựng theo mô hình này. Đáng chú ý là tỷ lệ thành công lên tới 96%, mô hình đã giúp nhiều bà con nuôi tôm vươn lên làm giàu với nghề.

Mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2


Hệ thống xử lý nước trong mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2

Ưu điểm  của mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2

– Kiểm soát dịch bệnh tốt do an toàn sinh học tốt hơn. Các ao nuôi được xây nổi và có lưới che nắng, lưới ngăn chim đầy đủ.

– Quản lý chất lượng nước tốt hơn. Các ao tròn giúp cho việc gom tụ chất thải và siphon hiệu quả hơn, ôxy trong ao cũng được phân bố đều, các vách dựng giúp làm giảm nhớt bờ.

– Giảm chi phí nhân công và chi phí điện năng. Từ việc quản lý hiệu quả hơn sẽ giúp giảm được số lượng nhân công chăm sóc, ngoài ra do kết cấu ao tròn nên giảm được chi phí đầu tư dàn quạt so với ao đất lót bạt hình vuông.

– Dễ dàng sang tôm, thu tỉa, giúp nuôi được kích cỡ lớn, năng suất cao, xoay vòng vụ nhanh.

– Thời gian xây dựng nhanh chóng và đáp ứng được nhiều quy mô diện tích khác nhau. Mô hình CPF- COMBINE được thiết kế theo dạng module ao ương – ao nuôi, từ các trang trại có diện tích nhỏ vài ngàn mét vuông cho đến các trang trại nhiều hécta đều có thể xây dựng được 1 hệ thống đầy đủ từ khu xử lý nước cho đến khâu ương, nuôi. Các ao nổi khung sắt có thời gian thi công nhanh chóng.


Các khách hàng có diện tích nhỏ cũng có thể thực hiện Mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2. Trong hình là bản thiết kế một trang trại CPF- COMBINE phiên bản 2 hoàn chỉnh chỉ với diện tích 3.500 m2

 

Hiệu quả thực tiễn

Anh Bùi Thế Vương, chủ đầu tư trang trại nuôi tôm tại huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, chia sẻ: “Sau hơn 10 năm trong nghề xây dựng, đầu tháng 5/2019, tôi cùng với một số người bạn đồng hương chuyển hướng đầu tư nuôi tôm theo mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2 của C.P Việt Nam. Sau 3 tháng xây dựng, trang trại đi vào hoạt động. Với 10 ao nổi 800 m2, ngay vụ tôm đầu tiên đã thu được 63 tấn tôm kích cỡ từ 22 – 31 con/kg. Dù mới bước vào nghề tôm, nhưng với thành công bước đầu này, tôi rất tin tưởng vào mô hình cũng như các sản phẩm của C.P. Đặc biệt, tôi gửi lời cảm ơn tới các anh em kỹ thuật của C.P đã giúp đỡ tôi rất nhiều.


Anh Bùi Thế Vương và nhân viên kỹ thuật của C.P. Việt Nam

Hay như trang trại CPF- COMBINE phiên bản 2 của ông Tạ Thanh Tròn tại huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu. Trong năm 2019, chỉ với 2 ao nổi 500 m2 nhưng cũng đã thu tới 18,3 tấn tôm sau cả 3 vụ toàn thắng, lợi nhuận lên tới trên 1,3 tỷ đồng, tôm nuôi về tới kích cỡ 25 con/kg.

Ông Tạ Thanh Tròn và nhân viên kỹ thuật của C.P Việt Nam 

Từ hiệu quả kinh tế cao, mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2 đang thu hút được sự quan tâm lớn từ người đầu tư nuôi tôm khắp cả nước, dù là bà con nuôi tôm lâu năm hay là những cá nhân, tổ chức mới bước chân vào nghề tôm. Đối với những hộ khó khăn về vốn đầu tư, C.P. Việt Nam đã có định hướng liên kết với các ngân hàng để cung cấp nguồn tín dụng. Riêng trong năm 2019, tại hai tỉnh nuôi tôm trọng điểm là Bến Tre và Sóc Trăng, một số ngân hàng đã tham gia cùng C.P. Việt Nam hỗ trợ hàng trăm hộ nuôi tôm thực hiện mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2. Trong năm 2020, C.P. Việt Nam sẽ tiếp tục mở rộng chuỗi liên kết giữa C.P với các ngân hàng trên phạm vi toàn quốc, giúp đưa mô hình CPF-COMBINE phiên bản 2 tới mọi người nuôi tôm Việt Nam.


Anh Nguyễn Thanh Việt (áo xanh ở giữa) khách hàng tại Sóc Trăng đã đầu tư mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2 từ nguồn vốn vay từ ngân hàng HDbank Sóc Trăng

Nguyễn Long An

Nguồn : http://thuysanvietnam.com.vn/

Ứng dụng công nghệ sinh học trong nuôi tôm VietGAP

(Thủy sản Việt Nam) – Nuôi tôm hiện đang gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh bùng phát khắp nơi, giá thành cao, hiệu quả kinh tế thấp, chất lượng sản phẩm kém, thị trường xuất khẩu có nhiều rào cản. Trước thực trạng trên đã có nhiều giải pháp đưa ra để nghề nuôi tôm phát triển bền vững trong đó có việc áp dụng công nghệ sinh học (CNSH). Sau đây là một vài mô hình điển hình.

Nuôi tôm công nghiệp

Hiện nay ứng dụng CNSH được coi là một giải pháp hỗ trợ mang tính tất yếu để ngành nuôi tôm công nghiệp tại nhiều nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng ổn định và phát triển bền vững. Khi, việc lạm dụng hóa chất, kháng sinh trong nuôi tôm thâm canh hiện nay đã phá vỡ cân bằng sinh thái và tác động xấu đến môi trường, chất lượng sản phẩm kém và tồn lưu các hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng đang tạo nên rào cản trong việc xuất khẩu tôm Việt Nam ra thị trường thế giới.

Nuôi tôm theo mô hình VietGAP hướng đến an toàn dịch bệnh, an toàn sinh học và vệ sinh thực phẩm nên CNSH cần được ứng dụng trong tất cả các khâu của quá trình nuôi tôm và có thể chia thành 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Trước khi thả giống

Cải tạo ao nuôi: Đối với ao đất có thể tháo cạn nước trong ao, dọn bùn đáy ao và sử dụng chế phẩm vi sinh để xử lý bùn đen ở đáy ao. Phơi đáy 10 – 15 ngày. Cày xới đáy ao để các khí độc NH3, H2S thoát ra khỏi đáy ao về tạo điều kiện thuận lợi cho hệ vi sinh vật phân giải ở đáy ao phát triển mạnh. Bón vôi cải tạo đáy và bờ ao. Cấp nước và diệt khuẩn với các sản phẩm không độc cho tôm như Vikon hoặc ít độc cho tôm như Isodine. Chỉ diệt khuẩn bằng Chlorine chỉ khi thực sự cần thiết với những ao nuôi khi vụ trước bị bệnh hoặc ao nuôi nằm trong vùng có dịch bệnh. Sau 5 – 6 ngày, tiến hành diệt tạp và bón phân gây màu nước. Đối với những ao nuôi khó gây màu nước có thể sử dụng chế phẩm vi sinh probio để gây màu nước. Với những ao nuôi có đáy bị nhiễm phèn nặng dùng chế phẩm vi sinh chuyên xử lý phèn có chủng vi sinh Thiobacillus spp. để xử lý phèn. Sử dụng chế phẩm vi sinh để gia tăng hàm lượng vi sinh vật có lợi trong ao nuôi. Kiểm tra thành phần vi sinh trong ao khi đạt yêu cầu thì tiến hành thả giống.

Đối với ao nuôi lót bạt HPDE, sau khi cải tạo ao xong tiến hành cấp nước đã xử lý vào ao nuôi, sau đó sử dụng chế phẩm vi sinh theo hướng dẫn của nhà sản xuất để nâng cao mật số vi khuẩn có lợi và kìm hãm sự tăng sinh vi khuẩn có hại trong ao nuôi.

Giai đoạn 2: Trong quá trình nuôi

Sử dụng chế phẩm vi sinh xử lý môi trường nước định kỳ trong suốt vụ nuôi để ổn định mật số vi khuẩn có lợi trong ao nuôi nhằm duy trì chất lượng nước trong suốt vụ nuôi và phòng trừ dịch bệnh. Sử dụng chế phẩm vi sinh trộn vào thức ăn trong suốt quá trình nuôi để ổn định hệ vi sinh vật trong đường ruột của tôm nhằm tăng cường sự bắt mồi của tôm, tăng khả năng tiêu hóa và hấp thu thức ăn, nâng cao hiệu suất sử dụng thức ăn đồng thời giúp phòng trị các bệnh về đường ruột của tôm.

Giai đoạn 3: Sau khi thu hoạch tôm thương phẩm

Sử dụng chế phẩm vi sinh để xử lý nước thải trước khi thải ra môi trường. Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều loại chế phẩm vi sinh với nhiều thương hiệu khác nhau;  tuy nhiên chế phẩm vi sinh được dùng phổ biến nhất, giá thành thấp, hiệu quả sử dụng cao và dễ áp dụng cho các hộ nuôi tôm theo mô hình VietGAP là chế phẩm EM (Efective Microorganism: Vi sinh vật hữu hiệu). Sử dụng theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất.

 

Công nghệ Biofloc nuôi TTCT

Biofloc đã trở thành công nghệ phổ biến trong các trại nuôi TTCT. Kỹ thuật Biofloc cơ bản được phát triển bởi TS Yoram Avnimelech ở Israel và được áp dụng ở quy mô thương mại lần đầu tiên bởi Công ty Belize Aquaculture ở Belize. Sau đó, đã được ứng dụng thành công trong các trang trại nuôi tôm ở Indonesia và Australia. Tại Việt Nam, công nghệ Biofloc cũng đã được ứng dụng thành công ở một số trang trại nuôi tôm; tuy nhiên hiện nay vẫn chưa được triển khai rộng rãi.

Tiếp cận công nghệ Biofloc nhằm nâng cao sinh khối của vi sinh vật làm thức ăn cho tôm bằng cách bổ sung thêm C để vi khuẩn sử dụng triệt để hơn nguồn N thải chuyển thành sinh khối trong Biofloc. Sử dụng công nghệ Biofloc sẽ nâng cao hiệu quả quản lý môi trường ao nuôi, giảm dịch bệnh, giảm lượng thức ăn thông qua việc sử dụng hiệu quả nguồn dinh dưỡng của thức ăn.

Biofloc (kết tủa sinh học/kết dính sinh học), hoặc Activated sludge (bùn hoặc tính) là tập họp các loại vi sinh vật khác nhau, chủ yếu là vi khuẩn, kết lại thành khối bông, xốp, màu vàng nâu, với trung tâm là  hạt chất rắn lơ lửng trong nước.

Thành phần Biofloc bao gồm: Hỗn hợp các vi sinh vật dị dưỡng (vi khuẩn tạo floc và vi khuẩn sợi), mảnh vụn, keo, polymer sinh học, cation, tế bào chết, muối tinh thể… Bám vào Biofloc còn có vi tảo (tảo sợi, tảo silic), nấm, động vật nguyên sinh, động vật phù du (luân trùng), giun tròn…

Trong Biofloc, vật chất hữu cơ chiếm 60 – 70%, vật chất vô cơ chiếm 30 – 40%; trong vật chất hữu cơ, vi khuẩn sống chiếm khoảng 2 – 20%. Biofloc có cấu trúc rỗng, xốp (99% thể tích là khoảng không); kích thước không nhất định, có thể biến đổi: 0,1 – 2 mm. Tốc độ chìm lắng chậm: 1 – 3 m/giờ.

Vấn đề mấu chốt trong công nghệ Biofloc là tạo điều kiện tối ưu để vi sinh vật dị dưỡng phát triển, hấp thụ Amonium, tạo sinh khối làm thức ăn cho vật nuôi. VSV dị dưỡng sử dụng C hữu cơ (từ carbohydrate như tinh bột, rỉ đường…) và nguồn nitơ vô cơ (chủ yếu là Amonium) để tổng hợp nên protein. Nếu bổ sung C với tỷ lệ thích hợp sẽ tăng cường quá trình chuyển hóa nitơ vô cơ thành protein trong sinh khối vi sinh vật. Sau đó, Biofloc làm thức ăn cho tôm nuôi và sẽ giảm lượng thức ăn 20% so quy trình nuôi thông thường.

Công nghệ này không chỉ được áp dụng trong các trang trại nuôi tôm thương phẩm, mà còn được ứng dụng trong hệ thống Raceway siêu thâm canh với sản lượng hơn 9 kg tôm/m3. Hệ thống Raceway đã được ứng dụng cho việc ương nuôi và chọn lọc các dòng tôm bố mẹ. Hiện nay, nhiều nghiên cứu ở các trường đại học lớn và các công ty tư nhân đang sử dụng Biofloc như là một nguồn protein trong thức ăn tôm và cá.

Lợi ích thương mại trong công nghệ Biofloc gồm 3 yếu tố: Biofloc cho năng suất cao, hệ số chuyển đổi thức ăn thấp (FCR) và môi trường nuôi bền vững. Hơn nữa, với những rủi ro về dịch bệnh do virus và sự gia tăng chi phí năng lượng trong các hệ thống nuôi truyền thống, Biofloc dường như là một lời giải đáp cho việc sản xuất bền vững với chí phí thấp hơn. Lợi thế của công nghệ Biofloc là an toàn sinh học cao. Cho đến nay, bệnh đốm trắng (WSSV) không còn đáng lo ngại trong hệ thống nuôi này; năng suất và sản lượng cao hơn từ 5 – 10% so hệ thống nuôi thông thường, không thay nước trong quá trình nuôi. Tôm tăng trưởng nhanh và tương ứng với hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) khoảng 1.0 – 1.3. Chi phí sản xuất có thể thấp hơn 15 – 20%.

Khó khăn của nuôi tôm theo công nghệ Biofloc là cần nguồn năng lượng lớn để vận hành hệ thống sục khí; việc mất điện trong khoảng thời gian 1 giờ cũng có thể gây ra tình trạng nghiêm trọng. Các ao nuôi theo công nghệ này phải được lót bạt hoặc làm bằng xi măng, ngoài ra, cần phải huấn luyện kỹ thuật cao hơn cho kỹ thuật viên.

>> Nhìn chung áp dụng CNSH trong nuôi tôm thương phẩm có thể quản lý được chất lượng nước trong suốt vụ nuôi, hạn chế được dịch bệnh, giảm thiểu rủi ro, tăng hiệu quả sử dụng thức ăn, hạ giá thành sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.

TS Nguyễn Tấn Sỹ – Phó Viện trưởng Viện NTTS, Đại học Nha Trang

Nguồn :Thủy sản Việt Nam

Hiệu quả nuôi tôm thẻ bằng thức ăn có B-Glucan

(Thủy sản Việt Nam) – Sử dụng chế phẩm sinh học B-Glucan trong nuôi TTCT là rất cần thiết trong tình trạng dịch bệnh, tỷ lệ sống thấp gây thiệt hại nặng cho người nuôi và rủi ro cho sản xuất; chính vì vậy, Bộ Công thương đã giao cho Viện Nghiên cứu NTTS II thực hiện đề tài “Nghiên cứu công nghệ sản xuất B-Glucan kích thước phân tử lượng lớn bổ sung trong thức ăn NTTS”.

Đề tài này được thực hiện từ tháng từ 1/2017 – 6/2019. ThS Phạm Duy Hải, Chủ nhiệm đề tài chia sẻ, nhóm nghiên cứu đặt mục tiêu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất thức ăn có B-Glucan phân tử lượng lớn, từ 1.000 – 5.000 kDa, từ bã men bia đảm bảo các chỉ tiêu ATTP quy định cho thức ăn chăn nuôi, đồng thời tăng cường miễn dịch, tăng trưởng, tăng tỷ lệ sống cho TTCT.

Sử dụng chế phẩm sinh học B-Glucan trong nuôi TTCT là rất cần thiết

Nguyên liệu đầu vào được sử dụng là bã men bia tươi và men khô được thu thập từ 5 nhà máy do Công ty TNHH Thương mại Đại Hùng Sáng cung cấp; các enzym thương mại protease PA 3000 và a-amylase Licuamind được cung cấp bởi Dyadic International (Mỹ). Xây dựng quy trình sản xuất thức ăn nuôi TTCT có bổ sung B-Glucan dựa vào quy trình công nghệ và trang thiết bị hiện có của nhà máy Công ty CP Thức ăn Thủy sản Tomking; địa điểm nuôi khảo nghiệm đánh giá hiệu quả ở quy mô công nghiệp được thực hiện tại ấp Giồng Cha, xã Vĩnh Hậu A, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu.

Kết quả, đã xây dựng thành công quy trình sản xuất B-Glucan và mô hình thiết bị với công suất 100 kg nguyên liệu/ngày, giúp sản xuất được 50,4 tấn thức ăn nuôi TTCT. Tỷ lệ sống của tôm đạt 65%, tăng 11%, giúp tăng năng suất lên 10,74 tấn/ha/vụ, tăng 1,9 tấn. “Đặc biệt, dựa trên tính ứng dụng rộng rãi cũng như khả năng sản xuất quy mô công nghiệp, nhóm nghiên cứu đã mạnh dạn đăng ký bản quyền sở hữu trí tuệ quy trình công nghệ để có thể đưa vào sản xuất quy mô lớn trong một ngày không xa”, ThS Hải thông tin.

An An
Nguồn:Thủy sản Việt Nam

Ba công nghệ nuôi tôm nổi bật năm 2019: Chất lượng tốt, hiệu quả cao

Mạnh dạn thay đổi cách làm mới, đầu tư vào công nghệ mới đang mang đến những thay đổi tích cực đối với hoạt động nuôi tôm của bà con nông dân Việt.

Theo xu thế phát triển nhanh chóng của ngành nuôi tôm nói riêng và ngành nuôi trồng thủy sản trên thế giới nói chung, mô hình nuôi ao đất truyền thống tại Việt Nam bộc lộ nhiều điểm yếu kém và không còn phù hợp. Theo đánh giá chung của người nuôi tôm, nuôi tôm ao đất không được thuận lợi như trước, rất khó thành công.

Nguyên nhân lý giải đó là qua các vụ nuôi, trầm tích tích tụ trong ao nhiều, thời tiết diễn biến thất thường kết hợp với việc xử lý môi trường nước nuôi chưa triệt tạo ra cơ hội thuận lợi cho các mầm bệnh xâm nhập vào ao nuôi tôm. Đặc biệt, hai dịch bệnh nghiêm trọng và phổ biến nhất trên tôm nuôi là hoại tử gan cấp tính và bệnh đốm trắng thường gây ra những thiệt hại lớn cho ao tôm.

Nhận thấy những bất cập còn tồn tại, những năm gần đây, theo chủ chương đổi mới phương pháp nuôi trồng, áp dụng công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động nuôi tôm, nhiều hộ nuôi trên cả nước tiếp thu và mạnh dạn ứng dụng, đầu tư. Nổi bật nhất là ba công nghệ: Micro-nano Oxygen, Semi Biofloc và công nghệ CPF Combine mang đến kết quả ấn tượng.

CÔNG NGHỆ SEMI BIOFLOC – TIẾT KIỆM CHI PHÍ

Nuôi tôm theo công nghệ sinh học Semi Biofloc là sử dụng các hạt biofloc phức hợp, có giá trị dinh dưỡng cao để làm thức ăn cho cả tôm con và tôm trưởng thành. Từ đó lượng thức ăn sử dụng cho tôm nuôi công nghệ này có thể giảm tới 30% và đồng thời tiết kiệm được rất nhiều chi phí khác (như điện, nước, thời gian, thuốc thú y,..).

Nuôi tôm sạch, an toàn theo công nghệ Semi Biofloc

Công nghệ Semi Biofloc đã có mặt tại Việt Nam từ nhiều năm trước, nhờ vào tính khả thi và hiệu quả được kiểm chứng tại các ao nuôi thực tế mà trong năm 2019, phạm vi và diện tích ứng dụng công nghệ ngày càng trở nên rộng rãi, phổ biến.

Tại tỉnh Khánh Hòa, theo Chi cục Thủy sản, hiện trên địa bàn tỉnh có một số cơ sở nuôi tôm thẻ chân trắng đã đầu tư cơ sở vật chất và ứng dụng nuôi theo công nghệ Semi Biofloc. Người nuôi tôm tại đây cho hay, để ứng dụng công nghệ này, các ao đều phải lót bạt nền đáy và bờ ao; có hố thu chất thải, kết hợp với hệ thống xi phông tự động. Mô hình có thể nuôi được 3 – 4 vụ/ năm theo hình thức nuôi 3 pha.

Ở pha 1, ương nuôi tôm giống trên bể nổi có lưới lan áp dụng theo công nghệ Biofloc. Tiếp đến pha 2 (sau 20 ngày nuôi), toàn bộ tôm ương được chuyển xuống ao nuôi ngoài trời, áp dụng công nghệ Semi Biofloc. Tại pha 2, tôm sẽ được nuôi 30  ngày đến khi đạt kích cỡ 200 con/ kg, mật độ 500 con/ m2 trước khi chuyển sang pha 3. Cuối cùng là pha 3, mật độ nuôi sẽ được giảm xuống một nửa, mỗi ao sẽ chỉ thả từ 200 – 250 con/ m2 để nuôi tôm đến khi đạt kích cỡ thu hoạch.

Với công nghệ Biofloc, người nuôi tôm giảm được nỗi lo tôm mắc bệnh do khả năng duy trì chất lượng môi trường nước tốt, hạn chế hạn chế mầm bệnh, từ đó giúp không chỉ nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế mà còn tạo ra sản phẩm đảm bảo an toàn thực phẩm (ATTP) phục vụ cho người tiêu dùng trong nước và chế biến xuất khẩu.

Trên thị trường, đầu ra của con tôm nuôi Semi Biofloc cũng rất tiềm năng và giá cả cũng luôn được duy trì ở mức ổn định hơn. Các cơ quan chức năng nhận định công nghệ Semi Biofloc sẽ tiếp tục được nhân rộng trong năm 2020.

CÔNG NGHỆ MỚI MICRO – NANO OXYGEN – KẾT QUẢ KHẢ QUAN

Trước thực trạng nghề nuôi tôm ở Việt Nam chủ yếu vẫn mang tính tự phát, quy mô nhỏ lẻ, người dân chưa nắm rõ được kỹ thuật,.. dẫn đến tình trạng tôm nuôi thường hay bị nhiễm bệnh và tiềm ẩn nhiều rủi ro, công ty QNTEK đã tạo ra một chương trình nghiên cứu riêng và phát triển công nghệ Mico – Nano Oxygen mới, lần đầu tiên được ứng dụng tại Việt Nam.

Công nghệ Micro – Nano Oxygen đảm bảo nuôi tôm sạch

Công nghệ Mico – Nano Oxygen được triển khai cuối năm 2018 tại các vùng nuôi tôm tỉnh Quảng Nam và bước đầu thu hoạch được kết quả khả quan. Công nghệ được đánh giá tích cực trong vấn đề xử lý môi trường, đặc biệt là xử lý nước thải. Nước sau khi được xử lý qua Micro – Nano Oxygen đảm bảo sạch, giàu oxy và có khả năng ứng dụng vào rất nhiều lĩnh vực khác nhau.

Ông Trần Bá Cương, giám đốc kỹ thuật của QNTEK, trực tiếp triển khai chương trình nghiên cứu cho biết, máy Micro – Nano Oxygen tạo ra rất nhiều oxy,  tôm được nuôi trong nguồn nước giàu oxy sẽ làm cho các vi khuẩn gây bệnh đường ruột chết đi đồng thời làm cho men tiêu hóa trong ruột chúng hoạt động mạnh hơn, chất dinh dưỡng trong thức ăn được hấp thu nhanh hơn, tốt hơn nên mau lớn và có sức đề kháng tốt.

Đồng thời, khi nước trong ao nuôi được xử lý hiệu quả, có nhiều oxy thì các vi khuẩn có hại trong nước sẽ giảm đáng kể. Do đó, người nuôi có thể hạn chế được việc sử dụng kháng sinh, giúp giảm chi phí đảm yếu tố an toàn sinh học cho con tôm. Bên cạnh đó, trong mô hình này còn sử dụng thêm các loại khoáng vi sinh dược liệu như đinh lăng, tỏi, ổi để tăng cường khả năng kháng thể tự nhiên, giúp tôm hấp thụ và tiêu hóa tốt thức ăn.

Được biết, với công nghệ này, chi phí đầu tư cho mỗi hạ tầng nuôi tôm hết khoảng 6 tỷ đồng. So với cách nuôi truyền thống thì tương đối cao nhưng bù lại chi phí nuôi ít hơn. Nếu như bình thường, người nuôi sẽ mất từ 70.000 – 75.000 đồng chi phí cho 1kg tôm thương phẩm thì công nghệ này chỉ mất khoảng 60.000 đồng/ kg. Bên cạnh đó, nuôi tôm sạch không sử dụng kháng sinh nên giá bán cũng cao hơn từ 20.000 – 30.000 đồng/ kg.

Mô hình thực hiện tương đối hiệu quả vì mới trong thời gian bắt đầu. Để nâng cao hiệu quả thì ngoài công nghệ cần phải trang bị kỹ thuật nuôi tôm. Trong thời gian tới, phía QNTEK sẽ tiếp tục mở rộng, triển khai mô hình tới bà con nông dân.

CÔNG NGHỆ CPF – COMBINE – NĂNG SUẤT CAO, ĐẢM BẢO AN TOÀN.

Đây là mô hình nuôi tôm công nghệ cao được chuyển gia từ Công ty Cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam. Nhờ hiệu quả tốt, trong năm 2019 mô hình được phát triển rộng khắp các vùng nuôi tôm trên cả nước như Quảng Ninh, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang,…

Mô hình ao ương CPF – Green house

CPF – Combine là sự kết hợp giữa mô hình nhà ương CPF – Green House và mô hình ao nuôi CPF – Turbo Program. Giai đoạn đầu, tôm giống sẽ được nuôi trong nhà ương khoảng 25 – 30 ngày đến khi có sức khỏe tốt, tỷ lệ sống cao mới được chuyển qua ao nuôi. Tôm được tiếp tục nuôi trong ao nuôi với khoảng thời gian 2 tháng để sẽ đạt kích cỡ từ 25 – 40 con/ kg.

Áp dụng thành công mô hình nuôi công nghệ cao CPF – Combine, các hộ nuôi tôm sẽ giảm bớt được sự tác động của thời tiết trong giai đoạn tôm còn nhỏ, giảm được các bệnh cho tôm trong quá trình nuôi, chủ động được thời gian thả nuôi. Nhiệt độ với môi trường không quá chênh lệch, giúp người nuôi ít lệ thuộc vào thời tiết mùa vụ như phương pháp nuôi trồng truyền thống. Tỷ lệ sống và năng suất tôm cao hơn hẳn.

Theo thống kê, nuôi trong mô hình ao đất truyền thống với diện tích mặt nước nuôi từ 3000 – 4000 m2, năng suất bình quân đạt từ 5 – 6 tấn tôm/ vụ. Trong khi đó, với mô hình CPF – Combine, ao nuôi nhỏ từ 1000 – 1200m2 mặt nước nuôi đã cho năng suất bình quân từ 6 – 10 tấn tôm/vụ.

Ứng dụng theo công nghệ nuôi CPF – Combine, chủ yếu ứng dụng các thiết bị máy móc trong quá trình kiểm tra, chăm sóc nên mật độ nuôi cao hơn. So với mật độ nuôi thông thường từ 70 – 100 con/ m2 thì nuôi 2 giai đoạn bằng công nghệ CPF – Combine cho phép tăng mật độ từ 200 – 400 con/ m2. Tôm được cho ăn bằng máy, các tiêu chuẩn ao nuôi được kiểm tra mỗi ngày: độ pH, độ cứng, calci,…Bên cạnh việc tuân thủ kỹ thuật nuôi, ngay từ khâu đầu vào như con giống, thức ăn phải đảm bảo có nguồn gốc an toàn.

Đặc biệt, trong suốt quá trình nuôi, người nuôi hoàn toàn không sử dụng các loại hóa chất kháng sinh. Đến giai đoạn thu hoạch, trước khi xuất bán, con tôm sẽ được kiểm tra tiêu chuẩn về an toàn, chất lượng.

Hiện nay, CPF – Combine được nhân rộng tại nhiều địa phương: tại Bến Tre, toàn tỉnh hiện có hơn 150ha nuôi tôm công nghệ này, tại Bạc Liêu, nhiều hộ nuôi đã chuyển từ nuôi tôm ao đất sang nuôi tôm lót bạt CPF – Combine nhờ tính hiệu quả, bền vững.

Thảo Thảo

Semi Biofloc, Mico – Nano Oxygen, CPF – Combine – ba công nghệ nổi bật được ứng dụng rộng rãi trong hoạt động nuôi tôm năm 2019 cùng với nhiều mô hình – công nghệ hiện đại tiên tiến khác vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu và đưa vào hoạt động nuôi trồng sẽ là nền tảng vững chãi đưa ngành tôm Việt phát triển bền vững nhất.

Nguồn :Tạp chí Người Nuôi Tôm