Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Bệnh Học

Mỹ thu hồi tôm trên diện rộng vì nguy cơ nhiễm khuẩn Vibrio

Vibrio parahaemolyticus
Vibrio parahaemolyticus được hiển thị ở đây trong một đĩa nuôi cấy. Ảnh: foodsafetynews

Công ty AFC Distribution Corp ở California (Hoa Kỳ) thu hồi sushi từ 40 tiểu bang vì nguy cơ nhiễm khuẩn Vibrio.

AFC Distribution Corp – một công ty thực phẩm lớn có trụ sở tại Ranchi Toduez tại California đang thu hồi trên diện rộng một loại sushi ở các nhà bán lẻ vì một số lô có thể bị nhiễm khuẩn Vibrio một sinh vật cực nhỏ có thể gây bệnh ở người.

Vibrio parahaemolyticus là một loại vi khuẩn gram âm, hình dấu phẩy. Môi trường sống tự nhiên của nó là nước lợ hoặc nước mặn và có thể lây nhiễm cho con người thông qua hải sản sống và vết thương hở.

Công ty đã thông báo thu hồi toàn bộ sushi ebi của mình với hạn ngày bán đến hết ngày 13 tháng 3. Công ty đã bắt đầu thu hồi vào ngày 13 tháng 3. Các cán bộ của công ty đã không đưa ra báo cáo cụ thể về việc nhiễm Vibrio parahaemolyticus vào sản phẩm sushi này. Việc thu hồi sushi liên quan bao gồm tất cả các sản phẩm có chứa tôm ngày bán từ ngày 19 tháng 2 đến ngày 13 tháng 3.

Tên cụ thể của sản phẩm thu hồi la Cooked Butterfly Tail-On Whiteleg Tôm (Sushi Ebi) được phân phối cho các quầy sushi bán lẻ của công ty có liên kết. Sản phẩm này được chế biến thành các món sushi được chuẩn bị trong các cửa hàng tạp hóa, quán ăn tự phục vụ và trung tâm ăn uống của công ty ở các tiểu bang Hoa Kỳ.

Trong khi AFC Distribution Corp đã ngừng sản phẩm bị thu hồi, phía công ty cũng kêu gọi bất kỳ ai có bất kỳ sản phẩm nào của AFC có chứa tôm thì nên nấu chín để loại bỏ vi khuẩn hoặc trả lại sản phẩm cho điểm mua của họ để được hoàn trả đầy đủ.

Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, bất cứ ai đã ăn bất kỳ sản phẩm sushi bị thu hồi và có các triệu chứng nhiễm trùng từ Vibrio parahaemolyticus nên ngay lập tức tìm kiếm sự chăm sóc y tế. Các triệu chứng có thể bao gồm buồn nôn, nôn, tiêu chảy, sốt và ớn lạnh. Kể từ khi đăng thông báo thu hồi, không có bệnh nào được xác nhận liên quan đến sushi bị thu hồi.

Thanh Vân VietQ

Phòng bệnh vi bào tử trùng và đốm trắng mùa nắng nóng

Đốm trắng
Đặc trưng vỏ tôm nhiễm đốm trắng

Hiện nay,thời tiết nắng nóng, độ mặn cao, nhiệt độ cao, chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm lớn nên dễ phát sinh các mầm bệnh nguy hiểm do vi khuẩn và virus trong nuôi tôm, đặc biệt là bệnh đốm trắng đang diễn biến phức tạp trên cả tôm thẻ và sú.

Theo các chuyên gia, để hạn chế đốm trắng cũng như giảm sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm trong mùa nắng nóng, bà con nên ổn định mực nước ao nuôi khoảng 0,7-1m, không nên để mực nước quá sâu nhằm hạn chế phân tầng nước, không che lưới lan để tránh ao nuôi hấp thụ nhiệt độ cao vào ban ngày mà lạnh vào ban đêm; quản lý thức ăn thật tốt để tránh dư thừa chất hữu cơ trong ao, đồng thời hạn chế sử dụng quạt muỗng hoặc quạt lông nhím để tránh phát tán mầm bệnh từ ao này sang ao khác. Khi phát hiện bệnh đốm trắng cần báo ngay cho cán bộ thú y xã và tiến hành cô lập ao nuôi, thu hoạch nếu có thể hoặc tiêu hủy bằng Chlorine với nồng độ 30 kg/1.000 m3 (TCCA 15 kg/1.000 m3) để diệt tất cả các vật chủ trong nước mà bệnh đốm trắng có thể ký sinh được, ngâm ao trong Chlorine từ 10-15 ngày mới xả thải ra môi trường bên ngoài.

Ngoài ra, hiện nay bệnh vi bào tử trùng (EHP) cũng gây thiệt hại nặng nề cho người nuôi tôm, nhất là trên tôm thẻ. EHP không gây chết tôm hàng loạt mà làm cho tôm nuôi chậm lớn, gây thiệt hại về kinh tế và môi trường do khả năng tồn lưu mầm bệnh EHP trong ao nuôi là khá cao từ vụ này sang vụ khác và khó xử lý triệt để.

Để phòng ngừa EHP, cần áp dụng nguyên tắc an toàn sinh học từ trại giống đến khâu cải tạo và quản lý ao tôm. Tôm bố mẹ nhập khẩu và thức ăn tươi sống của tôm bố mẹ phải được xét nghiệm sạch bệnh EHP. Trong nuôi thương phẩm, bà con nên lấy mẫu bùn đáy ao nuôi và ao lắng xét nghiệm EHP, cải tạo ao thật tốt để diệt tất cả các vật chủ trung gian có thể mang mầm bệnh như tôm, cá tạp, hến, cua, còng, ốc…Khi ao nuôi bị nhiễm EHP, tiến hành bón vôi nóng (CaO) với liều lượng lớn vào đáy ao và cày bừa để nâng pH trong đáy ao từ 9 trở lên, sau đó lấy mẫu bùn xét nghiệm lại, đạt yêu cầu mới thả tiếp. Ao nuôi nên thiết kế hệ thống xi phông đáy trên cả ao đất và ao lót bạt nhằm loại bỏ bùn thải, phân tôm, chất hữu cơ dư thừa, hạn chế sự tiếp xúc giữa tôm nuôi và bùn đáy ao…

Võ Quốc Hào Chi cục Thủy sản Sóc Trăng

Vi khuẩn gây bệnh phân trắng bị ức chế bởi Cholesterol và Phospholipids

Bệnh phân trắng trên tôm
Vi khuẩn Vibrio alginolyticus là một trong những tác nhân gây bệnh phân trắng trên tôm.

 

Chế độ ăn bổ sung cholesterol và phospholipids giúp tôm tăng sức chống chọi với vi khuẩn Vibrio alginolyticus gây bệnh phân trắng.

Tầm quan trọng của phospholipid và cholesterol đối với tôm

Phospholipid là các thành phần cấu tạo chủ yếu của màng tế bào và có vai trò trao đổi chất tự nhiên cũng như tế bào, có chức năng rất quan trọng cho hoạt động bình thường của các tế bào và cơ quan và tham gia vào quá trình chuyển hóa trung gian lipid.

Khẩu phần ăn chứa phospholipid, chẳng hạn như lecithin từ đậu nành thúc đẩy tăng trưởng tối ưu và tăng tốc độ chuyển đổi thức ăn trong khoảng 1 – 6.5%  đối với các loài khác nhau ở các giai đoạn khác nhau. Tôm có thể tổng hợp phospholipid, nhưng quá trình sinh tổng hợp này thường không thể đáp ứng nhu cầu trao đổi chất của chúng trong giai đoạn giống và ấu trùng.

Cholesterol có chức năng như một thành phần của màng tế bào, có vai trò quan trọng trong việc duy trì độ nhớt của màng. Tôm không thể tự tổng hợp cholesterol. Hàm lượng cholesterol tối ưu trong khẩu phần thức ăn cho tôm đã được trình bày là 0.2 – 2%, và tùy thuộc vào loài, giai đoạn, và các thành phần khác trong khẩu phần thức ăn.

Phospholipid và cholesterol là hai chất béo thiết yếu cho tôm he (penaeid – bao gồm tôm thẻ chân trắng và tôm sú), nhưng các thông tin liên quan nhu cầu trong khẩu phần ăn của chúng còn hạn chế.

Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng bổ sung cholesterol vừa phải giúp kích thích tăng trưởng và tăng cường tỉ lệ sống ở tôm sú Penaeus monodon (Sheen et al. 1994) và tôm thẻ Litopenaeus Vannamei (Gong và đồng sự, 2000). Tương tự, khi bổ sung cholesterol với các nồng độ khác nhau vào khẩu phần ăn của tôm thẻ chân trắng cho thấy tôm  gia tăng khả năng chịu mặn (Duerr và Walsh, 1996) và trên cả tôm sú P. monodon (Paibulkichakul et al., 1998) . Tuy nhiên, Teshima và cộng sự, (1997) cũng đề nghị rằng điều quan trọng là xác định chế độ ăn uống phù hợp. Mức cholesterol vì nồng độ sterol  cao trong chế độ ăn có thể dẫn đến ức chế sinh trưởng ở giáp xác.

Do đó, nghiên cứu được tiến hành để đánh giá ảnh hưởng của cholesterol (CHO) và phospholipids (PL) đối với hiệu suất tăng trưởng, phản ứng miễn dịch, biểu hiện của các gen liên quan đến miễn dịch và khả năng chống lại vi khuẩn Vibrio alginolyticus – một trong những tác nhân gây bệnh phân trắng trên tôm thẻ.

Nghiên cứu ứng dụng cholesterol và phospholipids đối với tôm thẻ chân trắng

Thiết lập nghiên cứu

Thiết kế thử nghiệm 3 × 3 đã được thực hiện với chín chế độ ăn thử nghiệm có ba mức cholesterol (0, 0.2% và 0.4%) và ba mức phospholipids (0, 2% và 4%) trong vòng 56 ngày. Sau đó tất cả tôm được cảm nhiễm với vi khuẩn Vibrio alginolyticus và theo dõi tỉ lệ chết trong vòng 14 ngày.

Kết quả

Kết quả chỉ ra rằng hiệu suất tăng trưởng tăng đáng kể cùng với sự gia tăng nồng độ cholesterol chế độ ăn uống. Nghiệm thức bổ sung cholesterol 0.4% có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với nghiệm thức bổ sung 0.2 % và thấp nhất là nghiệm thức đối chứng. Tuy nhiên, không có sự khác biệt về tăng trưởng giữa nghiệm thức bổ sung phospholipids.

Superoxide effutase (SOD)(*) và lysozyme cũng bị ảnh hưởng đáng kể bởi mức cholesterol. Hơn nữa, sự tương tác giữa hai chất phụ gia này chỉ được phát hiện trong hoạt động SOD. Tôm được cho ăn chế độ ăn thử nghiệm với bổ sung cholesterol và phospholipids cho thấy khả năng chống lại Vibrio alginolyticus tốt hơn so với nghiệm thức đối chứng và đạt giá trị cao nhất ở nghiệm thức cholesterol 0,4% và phospholipids 4%.

Tóm lại, các xu hướng hiện tại trong công thức thức ăn nuôi thủy sản thúc đẩy việc áp dụng các chất phụ gia tăng cường tiêu hóa, cải thiện hiệu quả hấp thu các chất dinh dưỡng, tăng cường sức đề kháng. Bổ sung cholesterol và phospholipids ở mức cholesterol 0,4% và phospholipids 4% cho thấy khả năng tăng cường miễn dịch và chống chọi với mầm bệnh Vibrio alginolyticus.

(*) SOD: Superoxide effutase là một enzyme thay thế xúc tác sự phân hủy của gốc superoxide thành oxy phân tử thông thường hoặc hydro peroxide. Superoxide được sản xuất như một sản phẩm phụ của quá trình chuyển hóa oxy, nếu không được điều hòa sẽ gây ra nhiều loại tổn thương tế bào.

Như Huỳnh lược dịch Nguồn : https://tepbac.com/

Tôm nuôi chậm lớn: Nguyên nhân, cách phòng trị

Tôm chậm lớn không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng, năng suất của vụ nuôi, kéo dài thời gian thu hoạch, tăng chi phí nuôi, giảm giá trị của tôm, tốn kém thức ăn, mà còn ảnh hưởng đến kinh tế cho người nuôi.

Tôm chậm lớn không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng, năng suất của vụ nuôi, kéo dài thời gian thu hoạch, tăng chi phí nuôi, giảm giá trị của tôm, tốn kém thức ăn, mà còn ảnh hưởng đến kinh tế cho người nuôi. Nguyên nhân nào khiến tôm chậm lớn, cách phòng trị ra sao hãy cùng chúng tôi tìm hiểu ngay sau đây.

Nguyên nhân nào khiến tôm chậm lớn

+ Trong quá tình chăm sóc để tôm phát triển khỏe mạnh yếu tố thức ăn đóng góp vô cùng quan trọng. Thức ăn tốt, đầy đủ dinh dưỡng mới giúp tôm trăng trưởng tốt, lớn nhanh, có sức đề kháng với các mầm bệnh trong môi trường ao nuôi. Nhưng một số người vì lợi nhuận sẵn sàng làm giả, cung cấp thức ăn kém chất lượng cho người nuôi khiến tôm không đủ dinh dưỡng nên tôm chậm lớn.

+ Thả tôm trong mùa nghịch khi nhiệt độ thấp sẽ làm tôm chậm tăng trưởng.

+ Mật độ nuôi quá dày, sinh khối lớn cũng là một trong những nguyên nhân khiến tôm chậm lớn. Nuôi mật độ dày lượng thức ăn, khoáng chất không cung cấp đủ khiến tôm phát triển chậm.

+Biến động của thông số môi trường ao nuôi như chất lượng nước, độ pH trong ao nuôi, độ mặn,… khiến tôm chậm phát triển.

+ Tôm giống chất lượng kém do tôm bố mẹ để nhiều lần, quá trình vận chuyển, chăm sóc chưa đúng cách khiến tôm dễ nhiễm các mầm bệnh nên tôm chậm lớn.

+ Tôm mắc các bệnh gây chậm lớn như: hội chứng chậm tăng trưởng (MSGS), bệnh còi (Monodon Baculovirus – MBV), bệnh vi bào tử trùng,…

+ Tôm mắc bệnh phân trắng mãn tính, nếu tôm không được điều trị kịp thời khiến tôm hấp thụ chất dinh dưỡng kém nên tôm bị chậm lớn.

+ Người nuôi lạm dụng kháng dinh để phòng bệnh cho tôm cũng là nguyên nhân khiến tôm chậm lớn. Việc sử dụng kháng dinh để phòng bệnh cho tôm là điều tốt nhưng nếu dùng quá liều kháng sinh khi trị bệnh sẽ làm giảm khả năng chuyển hóa thức ăn của tôm làm tôm chậm lớn.

Hướng dẫn giải pháp phòng và điều trị tôm chậm lớn

+ Lựa chọn thức ăn đầy đủ dinh dưỡng, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, không tham rẻ mà mua về cho tôm ăn. Bên cạnh đó, bảo quản thức ăn cho tôm đúng cách, tránh đặt dưới sàn nhà, nơi ẩm ướt, tránh ánh năng trực tiếp,…Thường xuyê kiểm tra nhá cho tôm ăn để canh lượng thức ăn cho phù hợp.

+ Người nuôi nên lựa chọn con giống tại cơ sở sản xuất giống uy tín.

+ Bổ sung khoáng (1kg/1000m3)vào thức ăn nuôi tôm, khoáng tạt vào ao nuôi (1kg/1000m3).

Lưu ý: Nếu đánh khoáng người nuôi nên đáng vào buổi tối

+ Nuôi tôm với mật độ phù hợp với điều kiện ao nuôi để đảm tôm tôm sinh trưởng và phát triển tốt.

+ Trước khi thả tôm xuống ao nuôi người nuôi nên kiểm tra bệnh trên tôm hoặc đưa mẫu tôm tới các trung tâm kiểm dịch tôm giống.

+ Người nuôi tuyệt đối không dùng tôm giống có nhiễm mầm bệnh EHP, BMV, HPV…. Trước khi thả giống cần đưa tôm đến các cơ sở kiểm dịch tôm giống.

+ Khi phát hiện tôm mắc bệnh phân trắng người nuôi cần bổ sung men đường ruột Lactozyme ( liều lượng 5g/kg thức ăn) + acid hữu cơ Organic (liều lượng 10g/kg thức ăn)vào thức ăn cho tôm.

+ Thường xuyên diệt khuẩn môi trường ao nuôi, có thể sử dụng vôi nóng (CaO) xử lý ao để có thể đạt độ pH đáy ao trong quá trình cải tạo cao hơn 11 – 12 để làm chết mầm bệnh EHP.

+ Nuôi tôm đúng mùa vụ không thả tôm mùa nghịch

+ Khi sử dụng kháng sinh trị bệnh cho tôm dùng đúng liều, đúng quy trình và bổ sung sorbitol 2g/1kg thức ăn nhằm giúp tôm đào thải kháng sinh hoặc thay thế bằng Kat- taurine( liều dùng 1-2ml/kg thức ăn). Tiếp đó sau 3 ngày phải cho tôm ăn men đường ruột để khôi phục hệ vi khuẩn có lợi trong đường ruột tôm.

+ Tuyệt đối không sử dụng thuốc trừ sâu để cải tạo ao.

+ Sau khi thu hoạch tôm vụ trước tiến hành tẩy dọn, bể nuôi tôm.

+ Những ngày nhiệt độ giảm cần nâng mực nước trong ao nhằm giảm chênh lệch nhiệt độ, tăng cường quạt nước, cho tôm ăn vào lúc trời ấm, có nắng.

+ Thường xuyên kiểm tra độ kiềm, độ pH, khí độc, tảo trong ao nuôi tôm.

Suckhoecuocsong.vn/TH

Dịch bệnh trên tôm

(Thủy sản Việt Nam) – Nuôi tôm đã và đang phát triển nhanh trong nhiều năm qua, dần trở thành ngành kinh tế quan trọng góp phần chính vào sự tăng trưởng chung của ngành thủy sản. Tuy nhiên, người nuôi đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về ô nhiễm môi trường, bùng phát dịch bệnh, lạm dụng kháng sinh, hóa chất trong quá trình nuôi, chất lượng sản phẩm không đáp ứng yêu cầu thị trường, gây tổn thất kinh tế cho người dân.

Tác động của ô nhiễm môi trường và bệnh

Việc mở rộng quy mô sản xuất, tăng mức độ thâm canh đã dẫn đến sự xuất hiện và bùng phát nhiều bệnh nguy hiểm đe dọa đến sự phát triển bền vững của ngành tôm, trực tiếp gây thiệt hại lớn cho người nuôi. Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường cũng là vấn đề nhận được sự quan tâm của không chỉ cộng đồng nuôi tôm mà còn của toàn xã hội theo cả hai chiều. Hoạt động nuôi chịu ảnh hưởng xấu từ ô nhiễm và nuôi tôm cũng là nguồn tự gây ô nhiễm cho ao nuôi và cho môi trường xung quanh. Do biến đối khí hậu, nắng nóng kéo dài, độ mặn tăng cao hay giảm đột ngột cũng làm dịch bệnh xảy ra thường xuyên hơn làm thiệt hại lớn cho nghề nuôi.

Số lượng và chất lượng tôm giống không nhiễm bệnh, được kiểm soát bệnh từ bố mẹ, sinh sản; quá trình kiểm soát bệnh trong nuôi thương phẩm đều chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của sản xuất. Những tồn tại này dẫn đến việc một số người sản xuất vẫn lạm dụng hóa chất và kháng sinh trong quá trình nuôi để xử lý môi trường và phòng trị bệnh; từ đó, sản phẩm nuôi trồng từ các hộ nuôi này cung cấp cho nhà máy chế biến chưa đảm bảo ATTP và theo đó uy tín ngành tôm Việt Nam cũng bị ảnh hưởng.

Tiếp cận ATTP thủy sản theo chuỗi từ nuôi trồng đến chế biến (Nguồn: Brett Koonse & Mai Văn Tài, 2017)

 

Một số bệnh gây thiệt hại lớn

Đốm trắng

Virus WSSV (White spot syndrome virus) gây bệnh đốm trắng trên tôm nuôi nước lợ được ghi nhận vào những năm 1990s tại Đài Loan và sau đó bùng phát ở nhiều nơi trong đó có Việt Nam. WSSV được xem là một loài virus đặc biệt vì nó có khả năng sống tiềm ẩn trong hầu hết các loài giáp xác nhưng chỉ gây thành dịch bệnh trên tôm nuôi nước lợ (Đặng Thị Lụa, 2018).

Hoại tử gan tụy cấp tính

Hội chứng chết sớm (EMS, Early mortality syndrome) còn được gọi là bệnh hoại tử gan tụy cấp (AHPND, Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease) đã gây thành dịch bệnh gây thiệt hại cho nghề nuôi tôm ở khu vực châu Á và Mỹ Latinh, được ghi nhận ở Việt Nam vào tháng 4/2011. Dịch bệnh gây chết nhanh tôm sú và TTCT ở giai đoạn 15 – 45 ngày tuổi sau khi thả nuôi với tỷ lệ chết lên tới 100%. Tác nhân gây bệnh AHPND được cho là do vi khuẩn thuộc nhóm Vibrio gây ra, như  Vibrio parahaemolyticus, V. harveyi và V. campbellii. Trong số các loại kháng sinh được phép hoặc khuyến cáo hạn chế sử dụng thì Vibrio parahaemolyticus nhạy với các loại kháng sinh gentamicin, florfenicol, oxytetracycline, doxycycline và tetracycline. Thức ăn, tảo độc, thuốc bảo vệ thực vật trong ao nuôi tôm không liên quan đến AHPND nhưng ao nuôi tôm bị bệnh AHPND thường có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ.

Hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô – IHHNV

Bệnh do virus Infectious Hypodermal and Hematopoietic Necrosis virus (IHHNV) gây ra. Cách phòng bệnh hiệu quả nhất vẫn là sử dụng tôm bố mẹ có chất lượng cao, sạch bệnh.

Đầu vàng – YHV

Bệnh là do phức hợp virus gây bệnh đầu vàng (Yellow Head Virus – YHV) và virus gây hội chứng liên quan đến mang (Gill-Associated Virus – GAV). Phòng bệnh hiệu quả bằng cách kiểm tra con giống sạch bệnh và xử lý nước trước khi thả nuôi.

Vi bào tử trùng – EHP

Bệnh EHP trên tôm do ký sinh trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) gây ra. Ký sinh trùng này ký sinh trong ống gan tụy của tôm và làm tôm không hấp thụ chất dinh dưỡng dẫn đến tôm chậm lớn. Cách tốt nhất là hạn chế sự xâm nhập của EHP vào ao nuôi và kiểm soát sự lây nhiễm của nó trong ao ở mức thấp nhất.

 

Giải pháp

Cần có cách nhìn mới tổng thể hơn trong việc lựa chọn cách thức tiếp cận để xây dựng các giải pháp phát triển ngành tôm đảm bảo ATTP, thân thiện môi trường và hạn chế dịch bệnh. Cách thức tiếp cận đó phải dựa trên nền tảng thực tế sản xuất đặc thù của ngành; hệ thống nghiên cứu, đào tạo; hệ thống cung ứng các dịch vụ đầu vào và hệ thống chế biến, thương mại hóa sản phẩm. Nói cách khác, đó là cách thức tiếp cận chuỗi ngành, mỗi khâu cần nhận thức và thực hiện được các nhiệm vụ của mình hướng tới sự phát triển bền vững chung của ngành tôm từ khâu sản xuất giống, nuôi thương phẩm, chế biến và cung ứng sản phẩm ra thị trường trong nước cũng như phục vụ xuất khẩu.

Mối quan hệ giữa đảm bảo ATTP trong sản xuất thủy sản nói chung, sản xuất tôm nói riêng từ nuôi đến chế biến. Đối với NTTS, đảm bảo an toàn sinh học (ATSH) trong đó việc phòng bệnh là một nền tảng của hoạt động sản xuất tốt (GAP) và đó cũng là điều kiện cần để đảm bảo ATTP trong NTTS. Điều đó cũng tương ứng với việc đảm bảo sản xuất tốt (GMP), kiểm soát vệ sinh (SCP) là nền tảng của việc phân tích mối nguy và kiểm soát điểm tới hạn (HACCP) trong chế biến thủy sản.

Những thách thức trên đòi hỏi cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ (KHCN), đào tạo nguồn nhân lực KHCN có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển bền vững của ngành. Nghiên cứu xác định tác nhân gây bệnh: Áp dụng các phương pháp nghiên cứu từ truyền thống như mô học đến các phương pháp hiện đại (như sử dụng kính hiển vi điện tử, PCR…) để xác định nhanh chóng và chính xác tác nhân gây bệnh. Nghiên cứu phát triển biện pháp phòng trị bệnh đảm bảo ATTP và thân thiện với môi trường như sản xuất vaccine, probiotic, sản phẩm nano, sản phẩm thảo dược, hạn chế sử dụng kháng sinh. Phát triển, ứng dụng các công nghệ nuôi tiên tiến như Bio-floc, Cope-floc, nuôi trong nhà; công nghệ sử dụng vi sinh ít thay nước; ứng dụng những thành tựu mới trong các lĩnh vực tin học, vật liệu mới và công nghệ sinh học, tự động hóa trong các khâu chăm sóc, cho ăn, giám sát môi trường và bệnh, truy xuất nguồn gốc. Nghiên cứu sản xuất giống, chọn giống sạch bệnh để tăng cường tỷ trọng tôm giống sạch bệnh phục vụ nuôi thương phẩm. Thắt chặt việc quản lý khâu nhập tôm bố mẹ và vận chuyển giống nhằm hạn chế lây lan bệnh. Tăng cường giám sát vùng nuôi, sớm phát hiện các vùng dịch để hạn chế lây lan. Phát triển các hệ thống sản xuất quy mô lớn để thuận lợi cho việc áp dụng quản lý ATSH, ATTP, quản lý môi trường và giảm giá thành sản phẩm. Tăng cường liên kết giữa các khâu trong chuỗi liên kết giữa các hộ sản xuất trong vùng nuôi để phòng ngừa dịch bệnh hiệu quả. Áp dụng nguyên tắc ATSH trong quản lý hoạt động nuôi từ khâu nuôi vỗ tôm bố mẹ cho đến nuôi thương phẩm ở trong các trại nuôi. Sử dụng chế phẩm sinh học dạng vi sinh định kỳ để cải thiện chất lượng nước và quản lý chất thải trong quá trình nuôi. Hạn chế sử dụng kháng sinh, tuyệt đối không sử dụng kháng sinh trong phòng bệnh tôm. Từng bước ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý hoạt động sản xuất.

Mai Văn Tài – Viện Nghiên cứu NTTS I

Ước tính khả năng kháng WSSV ở tôm thẻ chân trắng

Kết quả của nghiên cứu này cho thấy có sự khác biệt đáng kể về khả năng kháng virut Hội chứng đốm trắng (WSSV – quan sát các điểm điển hình trong vỏ tôm) giữa các gia đình được đánh giá, và sự cải thiện khả năng kháng WSSV là Nó có thể đạt được bằng cách chọn lọc trong quần thể tôm này. Ảnh của Richard Martínez.

Một số bệnh lớn đã ảnh hưởng đến ngành tôm trên toàn thế giới trong nhiều năm và gây ra thiệt hại kinh tế đáng kể. Virus hội chứng đốm trắng (WSSV) là mầm bệnh quan trọng của tôm và nhiễm trùng ở tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương ( Litopenaeus vannamei ) được đặc trưng bởi tỷ lệ tử vong nhanh chóng lên tới 100% trong 7 đến 10 ngày. Khi tăng mỡ, tôm ở mọi lứa tuổi và kích cỡ đều nhạy cảm với WSSV, nhưng tỷ lệ tử vong cao nhất thường xảy ra từ 1 đến 2 tháng sau khi trồng.

Cho đến nay, các biện pháp kiểm soát WSSV bao gồm cải thiện các điều kiện nhân giống và thực hành quản lý môi trường, sử dụng chế độ ăn uống theo công thức chuyên biệt để kích thích hệ thống miễn dịch của tôm và các thực hành khác.

Cho đến nay, không có thông tin được công bố về các ước tính của các thông số di truyền về khả năng kháng WSSV tại các thời điểm nhiễm bệnh khác nhau ở cá con của L. vannamei. Kiến thức về sự biến đổi gen trong tính kháng WSSV và mối quan hệ của nó với trọng lượng cơ thể ở các giai đoạn phát triển tăng trưởng khác nhau có thể cung cấp thông tin cơ bản để phát triển các biện pháp di truyền nhằm cải thiện các đặc điểm thương mại trong các chương trình chọn giống trong tương lai cho loài này.

Con tôm được sử dụng trong nghiên cứu này là từ thế hệ thứ ba của quần thể L. vannamei được chọn để tăng trưởng cao tại Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản số 3 (RIA3), tại Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam. Khi tôm đạt kích thước trung bình 2 gram, chúng được phân tích bằng PCR để phát hiện bốn mầm bệnh (IHHNV, YHV, TSV và AHPNV) để đảm bảo rằng cá con không bị bệnh. Tổng cộng có 30.000 con tôm từ 150 gia đình (200 con / gia đình) được đánh dấu và đo bằng trọng lượng và chiều dài cơ thể. Trong số này, 15.000 con tôm đã được sử dụng cho thử thách thách thức và nửa còn lại, 15.000 cá thể được giữ trong các hệ thống nuôi an toàn sinh học như một quần thể dự phòng.

Mặc dù tôm chết / chết được thu thập thường xuyên, việc ăn thịt đồng loại có thể xảy ra do sự thay đổi kích thước quần thể. Tôm lớn hơn có thể đã tiếp xúc nhiều hơn với mầm bệnh trong quá trình thử thách. Nhìn chung, đề xuất rằng lựa chọn cho tăng trưởng cao có thể không có tác động bất lợi đến nguy cơ mắc bệnh của dân số.

Xét về ý nghĩa thực tiễn và quan trọng đối với các chương trình nhân giống, với sự liên quan ngày càng tăng của bệnh với sản xuất thương mại của L. vannamei , việc phát triển các giống kháng bệnh được coi là một giải pháp hiệu quả trong phòng chống dịch bệnh.

Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng kháng WSSV là di truyền trong quần thể L. vannamei này, điều này cho thấy sự cải thiện di truyền trong kháng WSSV có thể đạt được bằng cách nhân giống chọn lọc. Mối tương quan di truyền của kháng WSSV giữa các lần nhiễm khác nhau là cao; do đó, việc lựa chọn có thể được tiến hành sớm, ví dụ, từ ba đến năm ngày sau thử thách để tiết kiệm chi phí liên quan đến việc nuôi và nuôi động vật, làm tăng hiệu quả của các chương trình nhân giống chọn lọc.

Nguồn : https://sinhhoctomvang.vn/

Cần Đước (Long An): 50% diện tích tôm nuôi bị nhiễm bệnh

Theo số liệu của Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Cần Đước, tỉnh Long An, nông dân trên địa bàn huyện xuống giống được khoảng 169ha tôm, tập trung tại các xã Long Hựu Đông, Long Hựu Tây và Tân Chánh,… Tuy nhiên, đến thời điểm này đã có khoảng 50% diện tích tôm thả nuôi bị nhiễm bệnh.

Nông dân cần thực hiện đúng quy trình chuẩn bị ao đầm, chọn giống đã qua kiểm tra để bảo đảm chất lượng và thả nuôi với mật độ phù hợp

Năm nay, do ảnh hưởng thời tiết, nhiệt độ giữa ngày và đêm chênh lệch cao, độ mặn quá cao dẫn đến tình trạng tôm kéo đàn, tôm bị bệnh phân trắng, đặc biệt là bệnh đốm trắng phát triển sớm hơn so cùng kỳ nhiều năm.

Để hạn chế dịch bệnh, nông dân cần thực hiện đúng quy trình chuẩn bị ao đầm, chọn giống đã qua kiểm tra để bảo đảm chất lượng và thả nuôi với mật độ phù hợp theo mô hình nuôi, không nên thả quá dày. Đối vối diện tích tôm đã thả nuôi, cần hạn chế việc lấy nước trực tiếp mà phải qua xử lý; cần tăng sức đề kháng cho tôm bằng việc bổ sung vitamin C, thuốc bổ,…

Đặc biệt, khi tôm bị nhiễm bệnh cần thông báo cho cơ quan chức năng hỗ trợ, xử lý, không tự động tháo ra bên ngoài làm lây lan dịch bệnh trên diện rộng./.

Kim Khánh

Nguôn tin: Báo Long An