Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Các loại tôm

Tôm càng xanh – Tiềm năng và khó khăn

Lúa tôm
Mô hình trồng lúa kết hợp nuôi tôm càng xanh được nhiều nông dân huyện Mỹ Xuyên thực hiện mang lại hiệu quả cao.

Không quá khó như con tôm sú, cũng không đòi hỏi quá cao như con tôm thẻ, con tôm càng xanh có thể sống khỏe ở cả vùng ngọt và vùng lợ. Chẳng những vậy, tôm càng xanh còn có thể nuôi luân canh, xen canh với cây lúa hoặc nuôi chuyên canh đều cho kết quả tốt. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, con tôm càng xanh vẫn chưa thể phát triển mạnh như con tôm sú hay tôm thẻ ngay trên vựa tôm đồng bằng sông Cửu Long.

Sau thời gian bị khai thác quá mức cùng với đó là sự bùng nổ của nghề trồng lúa khiến sản lượng tôm càng xanh tự nhiên ngày một ít đi và cũng như một số đối tượng thủy sản có giá trị khác, con tôm càng xanh bắt đầu được đưa vào nuôi trồng và phát triển dần cho đến ngày nay. Từ việc chỉ nuôi quảng canh trên ruộng lúa là chính, con tôm càng xanh bắt đầu được nuôi theo hình thức quảng canh cải tiến với nguồn con giống toàn đực.

Dẫn chứng cho tính hiệu quả của mô hình nuôi tôm càng xanh toàn đực, ông Võ Văn Hoa, ở xã Thạnh Quới (Mỹ Xuyên), một trong những hộ tiên phong trong mô hình nuôi tôm càng xanh cho rằng, tuy lợi nhuận từ con tôm càng xanh không bằng tôm sú hay tôm thẻ, nhưng ít rủi ro và giúp mình luôn nói không với thuốc bảo vệ thực vật hóa học. Cũng nhờ vậy mà khi chuyển sang làm lúa hữu cơ ngay vụ đầu tiên đã đạt được chứng nhận quốc tế.

Không nói đâu xa, ở vụ tôm càng xanh xen canh trên ruộng lúa năm 2018, hầu hết người nuôi tôm càng xanh ở các tỉnh: Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang đều có được niềm vui trúng mùa, trúng giá, khi có thời điểm giá tôm càng xanh loại I lên đến 230.000 đồng/kg. Theo các hộ nuôi, dù năng suất tôm càng xanh chưa cao, nhưng con tôm càng xanh là một trong những đối tượng nuôi có hiệu quả cao khi được nuôi xen canh với cây lúa giúp tăng thêm lợi nhuận cho nông dân so với chỉ đơn thuần trồng lúa.

Theo ước tính, nếu thả nuôi tôm càng xanh toàn đực trên diện tích 1ha, người nuôi có thể thu lợi nhuận trên 100 triệu đồng sau mỗi vụ nuôi. Đây cũng được xem là đối tượng nuôi có nhiều triển vọng cho đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Sóc Trăng nói riêng trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt vì con tôm càng xanh có thể sống và phát triển tốt ở nhiệt độ từ 24 – 34oC và độ mặn từ 0 – 15 phần ngàn. Thậm chí, các kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II và Khoa Thủy sản Trường Đại học Cần Thơ còn cho thấy, ở độ mặn 5, 10, 15 phần ngàn, tôm càng xanh phát triển tốt hơn và có chất lượng ngon hơn so với ở độ mặn 0 phần ngàn.

Với tính hiệu quả và điều kiện nuôi thuận lợi, nhưng việc phát triển nghề nuôi tôm càng xanh ở đồng bằng sông Cửu Long đến nay được đánh giá là chưa tương xứng với tiềm năng. Một trong những trở ngại lớn nhất cho sự phát triển của các mô hình nuôi tôm càng xanh đó là: thiếu hụt nguồn giống tôm toàn đực có chất lượng cao, thời gian nuôi kéo dài, mật độ thả nuôi thấp (dẫn đến năng suất, sản lượng không cao) và đặc biệt là thị trường tiêu thụ chủ yếu là nội địa nên giá bán thường bấp bênh. Chính từ những rào cản trên, nên diện tích, sản lượng tôm càng xanh ở đồng bằng sông Cửu Long đến nay vẫn còn thấp so với một số đối tượng nuôi khác, dù điều kiện nuôi là khá thuận lợi.

Do phần lớn các hình thức nuôi tôm càng xanh chủ yếu là nuôi xen canh theo mô hình tôm – lúa, mật độ thả nuôi chỉ từ 1 – 2 con/m2, nên năng suất bình quân chỉ từ 200 – 500kg/ha, chỉ một số ít diện tích nuôi quảng canh cải tiến bằng con giống toàn đực cho năng suất từ 800 – 1.000kg/ha. Mặt khác, do năng suất còn thấp, quy mô nuôi nhỏ lẻ, rải rác, nên sản lượng tôm càng xanh chưa nhiều, khiến việc tiêu thụ từng lúc, từng nơi vẫn còn khó khăn, giá cả bấp bênh. Một trở ngại khác là nguồn cung con giống toàn đực đảm bảo chất lượng hiện vẫn chưa nhiều khiến cho việc mở rộng diện tích, quy mô thả nuôi gặp khó. Chính vì những hạn chế trên, nên dù tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư là khá cao và ít rủi ro, nghề nuôi tôm càng xanh vẫn chưa đủ sức hấp dẫn nông dân tham gia.

Theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông quốc gia, tiềm năng phát triển nuôi tôm càng xanh của Việt Nam rất lớn, tập trung chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long như: Bến Tre, Đồng Tháp, Trà Vinh, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng… Năm 2018, diện tích nuôi tôm càng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm khoảng 3,24% tổng diện tích nuôi trồng thủy sản toàn vùng và theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông nông quốc gia, diện tích nuôi tôm càng xanh có thể tăng lên gấp 3 lần trong thời gian tới nhờ các lợi thế: tính thích nghi cao, ít dịch bệnh, chi phí đầu tư thấp, kỹ thuật không quá khó và mang lại hiệu quả cao gấp 3 – 5 lần so với chỉ độc canh cây lúa.

Một trong những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để phát triển nuôi tôm càng xanh được đề ra trong kế hoạch hành động quốc gia phát triển ngành tôm Việt Nam đến năm 2025 là rà soát quy hoạch và đầu tư cải thiện hạ tầng vùng nuôi tập trung tại đồng bằng sông Cửu Long, sản xuất giống đảm bảo chất lượng và số lượng (2 – 3 tỉ con giống năm 2025). Mặt khác, để mô hình nuôi tôm càng xanh mang lại hiệu quả cao hơn cần tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác, liên kết chuỗi sản xuất.

Tích Chu Sóc Trăng

Xuất khẩu tôm sang EU: Cần sớm xây dựng thương hiệu

Tôm sú
Tôm sạch có chứng nhận, giá cạnh tranh sẽ được khách hàng đánh giá cao.

EU được coi là thị trường tiềm năng đối với doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu tôm trong nước, nhất là khi Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực tới đây. Doanh nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu thông tin về phương thức đáp ứng các tiêu chuẩn của EU để thâm nhập thị trường này.

Xuất khẩu tôm sang EU giảm mạnh

Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản (Vasep), xuất khẩu tôm 10 tháng đầu năm 2019 giảm 6,4% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 2,78 tỷ USD. Nguyên nhân do nửa đầu năm nay sản lượng tôm tăng, trong khi lượng tồn kho tại các thị trường cao, nguồn cung từ các nước khác cũng tăng khiến giá tôm tại các thị trường nhập khẩu hạ thấp hơn so với năm ngoái. Riêng tại thị trường EU, sau 9 tháng xuất khẩu tôm của Việt Nam sang thị trường này vẫn tăng trưởng âm tới 20,8%, giá trung bình giảm 1 USD/kg so với năm 2018. Tuy nhiên, so với các nước khác như Ấn Độ, Trung Quốc, giá tôm nhập khẩu từ Việt Nam vẫn cao hơn 15 – 20% (1 – 2 USD/kg).

Hiện, EU đang tăng mua thủy sản trong các tháng cuối năm 2019, giá tôm đã tăng trở lại. Tổng cục Thủy sản nhận định, tác động của EVFTA sẽ tạo nền tảng để các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh. Tuy nhiên, xuất khẩu sang thị trường này trong nửa cuối năm chưa thể phục hồi như mong đợi.

Cần xây dựng thương hiệu tôm Việt

Theo Vasep, EU chiếm khoảng 31% tổng nhập khẩu tôm thế giới và chiếm 22% xuất khẩu tôm của Việt Nam. Nếu biết tận dụng ưu đãi thuế quan, áp dụng hiệu quả quy tắc xuất xứ, xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU sẽ có cơ hội gia tăng từ năm 2020.

Để tận dụng lợi thế từ EVFTA, Vasep cho rằng, trước mắt phải tạo ra nguồn tôm sạch có chứng nhận với giá cạnh tranh; tiếp đó xây dựng được thương hiệu tôm Việt. Vì vậy, cần sự hỗ trợ trong việc kiểm soát chặt chế phẩm nuôi tôm, ngặn chặn từ gốc nguồn thẩm lậu các hóa chất nuôi tôm không có tên trong danh mục cho phép; sắp xếp lại vùng nuôi, tạo nên các trang trại, hợp tác xã nuôi quy mô lớn theo chuẩn quốc tế có chứng nhận…

Bên cạnh đó, cần tận dụng thế mạnh là chế biến hàng caocấp mà đối thủ bị thuế cao như tôm luộc (thuế cơ bản 20%, có GSP còn 7%). Qua đó, thúc đẩy người nuôi ứng dụng các quy trình nuôi ASC, BAP… tăng nguồn nguyên liệu để chế biến bán vào EU.

Thương vụ Việt Nam tại Bỉ kiêm nhiệm Luxembourg và EU cho biết, tôm chỉ có thể xuất khẩu vào EU nếu đến từ các quốc gia được cấp phép, được đánh bắt bởi các tàu được cấp phép (tôm hoang dã) hoặc được nuôi tại các trang trại có đăng ký, được cấp các chứng nhận sức khỏe phù hợp, và vượt qua được bộ phận kiểm tra biên giới của EU. Các quy định dán nhãn thực phẩm của EU đảm bảo rằng, người tiêu dùng nhận được các thông tin cần thiết để quyết định khi mua thực phẩm như: Tên sản phẩm; danh sách các thành phần, bao gồm cả các chất phụ gia; thông tin về các chất có thể gây ra các phản ứng dị ứng và kích ứng cần phải được nêu ra; trọng lượng tịnh của các thực phẩm trước đóng gói theo các đơn vị hệ mét (mét, mét vuông, mét khối); ngày khuyến nghị mà đến thời điểm đó sản phẩm vẫn giữ được các đặc tính chuyên biệt, trình bày dưới dạng ngày, tháng, năm cùng với cụm từ “best – before”… Nhãn dán dễ hiểu, dễ nhìn, rõ ràng, không bị tẩy xóa và phải được sử dụng bằng ngôn ngữ dễ hiểu đối với người tiêu dùng…

Nguyễn Hạnh Công Thương
Đăng ngày: 19/12/2019

Ngành tôm hùm Canada tập trung lấy lại thị trường châu Âu

(vasep.com.vn) Mặc dù doanh số XK tôm hùm sống Canada sang Trung Quốc tăng trưởng theo cấp số nhân trong bối cảnh Trung Quốc áp thuế 25% đối với tôm hùm Mỹ, nhưng doanh số XK sản phẩm này sang thị trường châu Âu (EU) giảm.

Canada và EU đã ký Thỏa thuận kinh tế và thương mại toàn diện (CETA) – Thỏa thuận có hiệu lực vào cuối năm 2017. Dù đã được xóa bỏ mức thuế 8%, doanh số XK tôm hùm Canada sang EU chỉ đạt 172,9 triệu CAD, giảm 3,4 % so với 178 triệu CAD thu được năm 2017.

Tính từ đầu năm đến nay, XK tôm hùm sang thị trường EU tăng nhẹ. Trong 9 tháng đầu năm 2019, giá trị XK tôm hùm Canada sang EU đạt 131,7 triệu CAD, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm 2018 với 117,4 triệu CAD.

Geoff Irvine, Giám đốc điều hành của Hội đồng Tôm hùm Canada – Cơ quan tiếp thị ngành tôm hùm Canada cho biết, Trung Quốc đã chiếm lĩnh thị trường NK tôm hùm. Nhu cầu tôm hùm sống và chế biến của Trung Quốc đã thúc đẩy thị trường nói chung, giúp các kênh phân phối sản phẩm tôm hùm sống phát triển. Tuy nhiên, ngành tôm hùm Canada hy vọng sẽ sớm lấy lại thị trường EU.

Dự báo: Mỹ sẽ lấy lại 50% doanh số đã mất ở Trung Quốc

Giống như một số loài cá và thủy sản có vỏ khác, tôm hùm không bị ảnh hưởng bởi nhu cầu tiêu thụ không cao trong thời gian gần đây. Sản lượng thu hoạch đã giảm từ 20-40% tại Manine trong năm nay. Trong khi đó, vẫn còn những lo ngại sản lượng khai thác có thể giảm trong hai vụ đánh bắt tôm hùm thứ 33 và 34 ở hai khu vực đánh bắt lớn nhất.

Kết quả: Các nhà chế biến đang phải trả thêm 1-1,5 CAD/ pound tại các cảng cá so với năm 2018, mức giá đang thúc đẩy giá bán buôn.

Với nhu tiêu thụ cao và giá cả tốt, ngành tôm hùm cần làm gì trong việc cải thiện các nỗ lực tiếp thị?

Theo Irvine, ngành tôm hùm cần đa dạng hóa thị trường, đặc biệt khi cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc – yếu tố thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Canada cũng sẽ đi đến hồi kết.

Những số liệu đã nói lên tất cả. Canada đã cập cảng 97.849 tấn tôm hùm trong vụ 2017-2018 (1/10/2017-30/9/2018). Irive cho rằng, 90% sản lượng khai thác này cùng với tôm hùm NK từ Mỹ để chế biến, tái xuất.

Trong 9 tháng đầu năm 2019, Canada đã XK 1,9 tỷ CAD tôm hùm, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm 2018 với 1,7 tỷ CAD. Xu hướng này là sự tiếp nối của những năm trước, cho thấy XK tôm hùm Canada vẫn tiếp tục đạt được các mức tăng trưởng ổn định kể từ năm 2016.

Thị trường XK lớn nhất của tôm hùm Canada là Mỹ. Trong 9 tháng đầu năm 2019, nước này đã NK tôm hùm trị giá 1,2 tỷ CAD, giảm khoảng 18 triệu CAD (1,5%) so với cùng kỳ năm 2018.

Thị trường XK lớn thứ hai và là thị trường mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngành tôm hùm Canada là Trung Quốc. Trong 9 tháng đầu năm 2019, XK tôm hùm Canada sang Trung Quốc tăng lên 381,9 triệu CAD. So với giá trị XK trong 9 tháng đầu năm 2018 chỉ đạt 210,6 triệu CAD, doanh số XK đã tăng mạnh 81,4%.

Trong năm 2018, Canada đã XK tôm hùm Bắc Mỹ sang Trung Quốc với giá trị 299 triệu CAD, tăng 44,7% so với 206,5 triệu CAD đạt được trong năm 2017.

Để có cái nhìn tương quan sự thay đổi giữa XK tôm hùm của Canada và XK tôm hùm Mỹ sang Trung Quốc, ta thấy trong 9 tháng đầu năm 2019, XK tôm hùm Mỹ sang Trung Quốc với giá trị 27,9 triệu USD, trong khi giá trị XK tôm hùm Mỹ sang Trung Quốc trong cùng kỳ năm 2018 đạt 109,7 triệu USD.

Stewart Lamont, Giám đốc điều hành của doanh nghiệp Tangier Lobster, tin rằng cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ đã tăng doanh số đáng kể cho DN của ông. Tuy nhiên, ông cũng cho rằng việc tăng doanh thu ở thị trường Trung Quốc không tuyệt vời như mọi người nghĩ vì các DN đã phải trả thêm cho ngư dân 2-3 CAD cho sản phẩm. Ngoài ra, Trung Quốc là một thị trường có nhu cầu tiêu thụ lớn, nhưng cũng là thị trường có giá thấp.

Lamont cũng đồng ý với Irive về sự cần thiết phải đa dạng hóa thị trường vì khi chiến tranh thương mại chấm dứt, Mỹ sẽ lấy lại vị trí trước đây trên thị trường tôm hùm. Khi đó, Lamont tin rằng, 50% lợi nhuận trên thị trường đang thu được bởi các nhà XK tôm hùm Canada sẽ quay trở lại Mỹ.

Do đó, LCC – Tổ chức bao gồm các nhà chế biến, đại lý, vận tải, Hiệp hội và các Liên đoàn khai thác tôm hùm chính… bên cạnh việc tập trung phần lớn ngân sách tiếp thị của mình vào thị trường châu Âu, cũng sẽ hướng tới thị trường châu Á.

Khi chiến tranh thương mại Mỹ – Trung kết thúc, ngành tôm hùm Canada muốn đảm bảo ngành hàng này đã được đa dạng hóa ở các thị trường trọng điểm trên thế giới. Ngoài ra, các nhiệm vụ thương mại tập trung đa loài đang được lên kế hoạch như Chiến lược tăng trưởng đầu tư thương mại Đại Tây Dương nhằm thúc đẩy thương mại ở Việt Nam, Indonesia và Đài Loan. Các hoạt động khác, như một phần của chiến lược dành riêng cho tôm hùm, bao gồm tiếp thị kỹ thuật số và quảng bá thương hiệu tôm hùm Canada…

(Theo undercurrentnews)

Tin đáng lo, biển Việt Nam vắng bóng hải sâm, bào ngư, tôm hùm

Việt Nam được đánh giá là một trong 16 quốc gia có đa dạng sinh học cao trên thế giới, song nguồn lợi các loài giá trị cao như hải sâm, tôm hùm, bào ngư, trai tai tượng, cầu gai sọ dừa đang ngày càng ít dần.

Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản (Bộ NN-PTNT), Việt Nam được đánh giá là một trong 16 quốc gia có đa dạng sinh học cao trên thế giới với khoảng hơn 11.000 loài sinh vật. Trong đó có khoảng 2.038 loài cá, 6.000 loài động vật đáy, 225 loài tôm biển, 5 loài rùa biển, 15 loài rắn biển, 12 loài thú biển, 653 loài rong biển, 14 loài cỏ biển, hơn 400 loài san hô, 657 loài động vật phù du, 94 loài thực vật ngập mặn và 43 loài chim nước.

Giá trị đa dạng sinh học của Việt Nam phong phú về thành phần loài sinh vật, gen và các kiểu hệ sinh thái.

Đáng chú ý, nước ta có đường bờ biển dài hơn 3.260km, vùng đặc quyền kinh tế rộng hơn 1 triệu km2, hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, có 114 cửa sông, 12 đầm phá, 50 vũng/vịnh ven bờ, trong đó vùng nội thủy, lãnh hải chiếm 37% diện tích, có nhiều đảo, cụm đảo xen kẽ tự nhiên tạo nên tính đa dạng về cảnh quan tự nhiên, sinh thái và nguồn lợi hải sản, đóng vai trò quan trọng cho hoạt động khai thác hải sản, phát triển ngành kinh tế biển nói chung, kinh tế thủy sản nói riêng.

Tin đáng lo, biển Việt Nam vắng bóng hải sâm, bào ngư, tôm hùm
Mỗi năm nước ta khai thác khoảng 3.707 nghìn tấn thủy hải sản từ biển

Năm 2019, tổng sản lượng thủy sản ước đạt 8.162 nghìn tấn, trong đó khai thác 3.707 nghìn tấn, nuôi trồng 4.391 nghìn tấn, kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành dự kiến đạt 8.800 triệu USD, bằng 83,8% kế hoạch và 100% so với năm 2018.

Song, báo cáo của Tổng cục Thủy sản cũng nêu rõ, thủy sản Việt Nam cũng đang đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức như: sự suy giảm nguồn lợi thuỷ sản ở cả vùng biển và vùng nội địa; ô nhiễm rác thải nhựa, môi trường nước, môi trường sống của các loài thuỷ sản do sự phát triển của một số ngành kinh tế (công nghiệp, du lịch,… ); suy thoái hệ sinh thái thuỷ sinh như san hô, cỏ biển,… ; hoạt động khai thác thuỷ sản bất hợp pháp: tàu cá hoạt động sai vùng, sử dụng chất nổ, xung điện, chất độc, ngư cụ cấm để khai thác thuỷ sản, khai thác, tiêu thụ loài thuỷ sản nguy cấp, quý, hiếm,…

Tình hình tàu cá sử dụng các nghề lưới kéo, mành, ngư cụ có mắt lưới nhỏ, ngư cụ cấm, sử dụng chất nổ để khai thác trong và xung quanh các khu bảo tồn biển, đặc biệt là trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt vẫn diễn ra; dẫn đến nguồn lợi các loài giá trị cao như hải sâm, tôm hùm, bào ngư, trai tai tượng, cầu gai sọ dừa suy giảm.

Tin đáng lo, biển Việt Nam vắng bóng hải sâm, bào ngư, tôm hùm
Nhiều loại hải quý như bào ngư, tôm hùm, hải sâm ngày càng vắng bóng ở biển Việt Nam

Tại Hội nghị Bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản, do Tổng cục Thủy sản (Bộ NNPTNT) tổ chức sáng 19/12 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến cho biết, nếu không có tư duy đúng về bảo tồn biển sẽ phải gánh chịu hậu quả lớn.

Theo Thứ trưởng Tiến, việc Luật Thủy sản năm 2017 được Quốc hội thông qua được đánh giá là bước ngoặt lớn trong việc định hướng, các giải pháp cho bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản trong thời gian tới.

Để thực hiện tốt công tác bảo tồn biển, Thứ trưởng Tiến nhấn mạnh cần đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền đến các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực thủy sản; trong đó tập trung vào các đối tượng được giao quản lý nguồn lợi thuỷ sản, những người khai thác thủy sản tự nhiên, đặc biệt là đánh bắt trái phép như xung điện, chất nổ, chất độc, giã cào;

Tổ chức cho ngư dân ký cam kết tuân thủ quy định pháp luật trong khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Chủ cơ sở thu mua, chế biến, kinh doanh thủy sản cam kết không buôn bán, nuôi nhốt các loài thủy sinh nguy cấp, quý, hiếm có nguy cơ tuyệt chủng,…

Các địa phương cũng cần tăng cường công tác hướng dẫn, hỗ trợ người dân, cộng đồng thực hiện đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Đồng thời, điều tra nghề cá thương phẩm; đánh giá nguồn lợi thuỷ sản và môi trường sống của chúng để phục vụ hoạt động quản lý. Ưu tiên công tác thành lập, quản lý khu bảo tồn biển”, ông Tiến nhấn mạnh.

Châu Giang   

Nguồn :https://vietnamnet.vn/

Tổng kết dự án nuôi tôm thẻ chân trắng công nghệ cao trong nhà kính

Tổng kết dự án nuôi tôm thẻ chân trắng công nghệ cao trong nhà kính

Ngày 18/12, tại xã Vĩnh Thái, huyện Vĩnh Linh, Chi cục Thủy sản tổ chức hội nghị tổng kết dự án nuôi tôm thẻ chân trắng công nghệ cao trong nhà kính.

Mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng trong nhà kính
Sau khi khảo sát thực tế, tháng 6 năm 2019, Chi cục Thủy sản đã chọn doanh nghiệp tư nhân Thảo Linh ở xã Vĩnh Thái, huyện Vĩnh Linh triển khai dự án nông nghiệp công nghệ cao, tổ chức tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ 70% giống và thức ăn, hướng dẫn nuôi tôm thẻ chân trắng trong nhà kính. Doanh nghiệp đã đầu tư kinh phí thiết kế bể, nhà kính, tuân thủ quy trình kỹ thuật nuôi tôm 2 giai đoạn trên diện tích 6.000 m2.Kết quả cho thấy, sau 3 tháng nuôi, sản lượng đạt 35 tấn, trừ các khoản chi phí, lợi nhuận gần 1,7 tỷ đồng.Tại hội nghị, các hộ nuôi tôm ở xã Vĩnh Thái đều khẳng định,  mặc dù đây là lần đầu tiên triển khai nuôi tôm thẻ chân trắng công nghệ cao trong nhà kính và năm nay thời tiết khắc nghiệt nhưng hiệu quả kinh tế mang lại cao hơn so với nuôi truyền thống. Mặt khác, nuôi theo hình thức này nguồn nước được kiểm soát chặt chẽ và sử dụng vi sinh trong quá trình nuôi nên môi trường đảm bảo, hạn chế rủi ro do dịch bệnh. Tuy nhiên, mức đầu tư thực hiện mô hình này lớn, do đó người dân mong muốn các cấp, các ngành quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi trong vay vốn. Chi cục Thủy sản nghiên cứu tiếp tục hỗ trợ và mở các lớp tập huấn về quy trình nuôi, chăm sóc để nhân rộng mô hình này.

Bá Thuần – Biên Cương.

Nguồn : http://quangtritv.vn/

Indonesia tranh cãi vì lệnh cấm xuất khẩu tôm hùm giống

(VOH) – Tân Bộ trưởng Bộ Ngư nghiệp Indonesia vừa có đề xuất gỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu tôm hùm con ở nước này và vấp phải sự phản đối mạnh mẽ.

 

Theo đó, các nhà nghiên cứu cho rằng nếu cho phép xuất khẩu trở lại tôm hùm con sẽ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên biển này và góp phần “làm giàu” thêm cho những quốc gia đang cạnh tranh.

Tân Bộ trưởng Ngư nghiệp Edhy Prabowo – người vừa được Tổng thống Joko Widodo bổ nhiệm vào tháng 10 năm nay, nói rằng việc cho phép xuất khẩu tôm hùm con (hoặc tôm hùm giống) sẽ giúp hỗ trợ nhiều cho bà con ngư dân.

Ông Prabowo phản đối lệnh cấm xuất khẩu tôm giống và cho rằng đây là một trong những nguyên nhân làm gia tăng nạn buôn lậu tôm. Đồng thời, truyền thông nước này cho hay, nếu được xuất khẩu, Indonesia có thể bán tôm giống cho Việt Nam – quốc gia vốn có nghề nuôi tôm hùm phát triển hơn.

Trước đó, cựu Bộ trưởng Ngư nghiệp là bà Susi Pudjiastuti vào năm 2016 đã ban hành lệnh cấm đánh bắt và xuất khẩu tôm hùm con nếu chúng có kích thước nhỏ hơn 8cm và nặng ít hơn 200gr, nhằm mục đích bảo tồn nguồn lợi thủy sản này. Bà Susi cũng là người nổi tiếng vì vụ bắt giữ 556 tàu đánh cá nước ngoài trái phép tại Indonesia.

Trước đề xuất mới của Tân Bộ trưởng, bà Susi đã bảo vệ chính sách hiện tại của mình và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc gìn giữ nguồn tài nguyên cho Indonesia.

“Nếu chúng ta không quan tâm và không dừng việc đánh bắt tôm hùm giống, chúng ta sẽ chỉ làm giàu thêm cho Việt Nam và Indonesia có thể sẽ không bao giờ thấy được con tôm hùm nào nữa trên biển.”

Indonesia tranh cãi vì lệnh cấm xuất khẩu tôm hùm giống

Một lọ đựng tôm hùm giống được mang ra trưng bày tại hội nghị chống kinh doanh trái phép tôm hùm giống tổ chức tại trụ sở cảnh sát Surabaya vào ngày 2/12 vừa qua. Ảnh: Reuters

Với Tổng thống Indonesia Joko Widodo, ông cho biết lệnh cấm xuất khẩu tôm giống có thể không giúp bảo vệ môi trường nhiều mà bù lại, kinh tế đất nước sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Ông nói: “Đừng nói không với xuất khẩu. Sự cân bằng là điều cần thiết, tuy nhiên không phải cái gì đánh bắt được cũng đem đi xuất khẩu. Điều này cũng sai.”

Việc có xuất khẩu tôm hùm giống hay không hiện đang là vấn đề gây tranh cãi nhiều tại Indonesia – đất nước có địa hình tự nhiên với hầu hết diện tích đều giáp biển với hàng chục ngàn hòn đảo lớn nhỏ. Đây cũng là một trong những nước xuất khẩu thủy hải sản lớn nhất thế giới. Tuy vậy, sản lượng xuất khẩu tôm hùm của nước này đã sụt giảm mạnh trong những năm gần đây, từ 3.330 tấn xuống còn khoảng 1.960 tấn, theo dữ liệu do công ty nghiên cứu Statista (Đức) cung cấp.

Thư Vân (Theo BBC)
Nguồn :https://voh.com.vn/

Giá tôm 17/12/2019

 

Giá tôm khu vực Châu Thành

=> Long An ngày 17/12/2019 :

30c giá 180.000 -185.000
40c giá 150.000
50c giá 130.000
60c giá 120.000
70c giá 115.000
80c giá 110.000
90c giá 105.000
100c giá 100.000.

Giá thẻ  17/12 tại Mỹ Xuyên-Sóc Trăng:
15c: 265.
20c: 240
25c: 192
30c: 167
40c: 148
50c: 132
60c: 122
70c: 120
80c: 115