Chất lượng tôm giống là yếu tố tiên quyết cho một vụ nuôi thành công. Các công ty sản xuất giống tôm thẻ chân trắng vừa và nhỏ ở Việt Nam đều nhập tôm bố mẹ sạch bệnh của Công ty Shrimp Improvement Systems (SIS) hay Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam đã qua chọn lọc nhiều thế hệ. Vì thế quy trình công nghệ nuôi vỗ, sinh sản, ương nuôi ấu trùng, quản lý an toàn sinh học… của trại giống sẽ quyết định chất lượng tôm giống.
Ở khâu nuôi vỗ, các loại thức ăn cần thiết để tôm tái thành thục cần phải đảm bảo sạch bệnh. Do thức ăn nuôi vỗ tôm bố mẹ chủ yếu là mực, ốc mượn hồn, rươi, và moi nên cần thiết phải khử trùng virus trong các loại thức ăn tươi sống này trước khi cho ăn. Công nghệ vi bọt khí và ozone có thể giảm nồng độ vi khuẩn và virus trong thức ăn tươi sống.
Lắp đặt hệ thống nuôi tảo thu tự động (ví dụ: Tisochrysis lutea, tên cũ là Isochrysis galbana) nhằm cung cấp “nguồn sữa mẹ” chất lượng tốt với sản lượng ổn định cho ấu trùng Nauplius. Tảo được nuôi trong hệ thống kín và thu liên tục nên đảm bảo tinh sạch và mật độ cao. Việc bổ sung tảo chất lượng mật độ cao cũng sẽ giúp giảm tác động đến môi trường bể nuôi do ảnh hưởng của nước nuôi tảo.
Artemia mới nở sẽ không có nhiều dinh dưỡng nên để đủ dinh dưỡng, ấu trùng tôm phải bắt được nhiều Artemia, đồng nghĩa chúng sử dụng nhiều năng lượng hơn cho hoạt động bắt mồi. Vì thế cần phải cường hóa artemia với tảo, acid béo cần thiết hoặc một số nucleotide trước khi cho ấu trùng tôm ăn để đảm bảo thức ăn đủ dinh dưỡng với lượng ít nhất. Thức ăn công nghiệp cho các giai đoạn sau nên phối trộn một số loại thức ăn của các hãng uy tín. Bột moi (krill meal) là thức ăn bổ sung bắt buộc cho giai đoạn này để tôm có sức khỏe tốt nhất. Chế phẩm vi sinh và các vitamin cần thiết cũng có thể được bổ sung vào cả thức ăn công nghiệp và Artemia để tăng cường sức khỏe cho tôm giống. Chất lượng nước được kiểm soát bằng chế phẩm EM hoặc chế phẩm vi sinh khác. Mật độ vi sinh có lợi trong hệ thống cao giúp duy trì ổn định chất lượng nước và kìm hãm sự phát triển của các vi khuẩn gây bệnh. Nước đầu vào thay vì được diệt khuẩn bằng hóa chất như chlorine hay axit hữu cơ có thể được xử lý bằng công nghệ vi bọt khí và ozone. Ưu điểm của công nghệ vi bọt khí và ozone là hạn chế tồn dư những tạp chất trong hóa chất xử lý nước. Ngoài ra, hàm lượng ôxy hòa tan trong bể ương có thể được nâng lên 9 – 10 ppm nhờ hệ thống vi bọt khí thay vì mức 4 – 6 ppm của hệ thống thổi khí. Khi ôxy được đưa vào trong nước dưới dạng vi bọt khí ở mức micromét và nanomét thì chúng có thể tồn tại trong nước rất lâu, thay vì bay lên không khí như sục khí thông thường.
Khi đóng gói và vận chuyển tôm, ngoài việc giữ nhiệt độ 20 – 240C, hàm lượng ôxy cao hơn mức bão hòa trong nước sẽ giúp tôm post khỏe hơn và đi xa hơn. Ngoài ra, các khâu sản xuất cần được phân tích và tuân thủ theo hướng dẫn an toàn sinh học trong trại giống do Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) hướng dẫn. Mẫu tôm cần được gửi tới các đơn vị có phòng lab đủ điều kiện để phân tích xét nghiệm PCR cho virus, vi khuẩn, và ký sinh trùng cho các giai đoạn.
Tóm lại, các trại tôm hoàn toàn có thể nâng cao sức khỏe tôm giống của mình khi áp dụng phù hợp các công nghệ vi bọt khí, ozone, vi sinh và nuôi tảo thu liên tục với quản lý an toàn sinh học chặt chẽ.