Bạn tìm thông tin gì?

Blog

Phú Yên: Thương lái chậm thu mua, người nuôi tôm hùm như ngồi trên lửa

Hiện nay, dù đến kỳ xuất bán tôm hùm nhưng tại các vùng nuôi ở TX Sông Cầu (Phú Yên), thương lái thu mua tôm rất chậm, khiến người nuôi như ngồi trên đống lửa.

Nguyên nhân được chỉ ra là do việc xuất khẩu tôm hùm sang thị trường Trung Quốc bị ngưng trệ bởi ảnh hưởng của dịch Covid-19.

Ông Phạm Minh Hải, ở phường Xuân Yên (TX Sông Cầu), thả nuôi hơn 1.000 con tôm hùm bông. Hơn 1 tháng nay, dù đã đánh tiếng nhiều lần nhưng đến nay vẫn chưa thương lái nào đến mua tôm.
“Mọi năm, chúng tôi chỉ việc nuôi tôm, chuyện thu mua đã có thương lái. Họ canh mình nuôi đến gần kỳ xuất bán là chủ động gọi điện thoại đặt hàng trước, dặn dò đừng bán cho ai khác. Còn năm nay, không thấy ai gọi, tôi phải chủ động liên hệ với bạn hàng mời đến mua nhưng chưa ai nhận lời. Họ nói là tìm nơi tiêu thụ nhưng rất khó khăn”, ông Hải sốt ruột cho biết.
1-img_3459.jpg
Người nuôi tôm hùm ở Phú Yên đến thời điểm thu hoạch gặp không ít khó khăn.

Tại thôn Vịnh Hòa, xã Xuân Thịnh (TX Sông Cầu), gia đình ông Nguyễn Thành Hưng cũng như đang ngồi trên đống lửa. Bởi từ khi dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do virus SARS-CoV-2 khởi phát ở Trung Quốc, thương lái đã giảm hẳn việc thu mua tôm hùm xuất khẩu, khiến giá tôm rớt thê thảm. Theo ông Hưng, trước Tết Nguyên đán 2020, giá tôm hùm tương đối cao (tôm hùm bông loại 1 khoảng 1,6-1,7 triệu đồng/kg, tôm hùm xanh khoảng 700.000-800.000 đồng/kg) nhưng nhiều người nuôi chỉ xuất bán cầm chừng chờ sau Tết giá tôm có khả năng tăng nữa sẽ xuất bán. Tuy nhiên, hiện nay, giá tôm hùm bông chỉ còn khoảng 1-1,2 triệu đồng/kg, tôm hùm xanh khoảng 480.000-500.000 đồng/kg nhưng đa số người nuôi không bán được tôm vì không có thương lái mua với số lượng nhiều.

“Nếu xuất bán với giá này, người nuôi tôm hùm lỗ nặng. Thế nhưng, điều đáng nói là muốn bán cũng không có mấy người mua bởi xuất khẩu không được; còn bán trong nước thì số lượng hạn chế vì người tiêu dùng chỉ mua lẻ mỗi lần vài ký, không đáng là bao. Hiện nay, gia đình tôi còn 10.000 con tôm thịt đã đến kỳ xuất bán nhưng không bán được; trong khi mỗi ngày cần đến tiền triệu để mua thức ăn cho tôm. Tiền nhà, rồi tiền vay ngân hàng đã trút hết xuống nước, nếu dịch bệnh cứ kéo dài thì không biết khi nào mới lấy lại được”, ông Hưng bộc bạch.

11untitled.jpg
Khó khăn vì không xuất được tôm sang Trung Quốc nên thương lái chỉ đưa đi tiêu thụ các tỉnh, thành trên cả nước

Theo ông Trần Văn Mạnh, thương lái chuyên thu mua tôm hùm xuất khẩu, lâu nay tôm hùm chủ yếu xuất tiểu ngạch sang Trung Quốc; giá cả tùy loại, phụ thuộc vào thị trường. Thời điểm này, tôm nuôi đến kỳ chuẩn bị xuất bán, nhưng thị trường Trung Quốc đã ngừng nhập khẩu tôm hùm do ảnh hưởng dịch COVID-19 nên người nuôi tôm hùm ở đâu cũng than khó.

Hiện trên địa bàn TX Sông Cầu có khoảng 70.000 lồng nuôi tôm hùm thương phẩm, trong đó gần 10.000 lồng nuôi có tôm đến thời kỳ xuất bán nhưng không có thương lái thu mua. Do đó, người nuôi tôm hùm vẫn phải tiếp tục chăm sóc tôm nhưng để kéo dài, nhiều người đã bớt khẩu phần ăn của tôm lại còn khoảng 40-60% so với trước nhằm giảm chi phí.
img_3425.JPG
Vùng nuôi tôm hùm ở TX.Sông Cầu chịu ảnh hưởng rất lớn của dịch Covid-19 gây ra

“Đối với lượng tôm đã đến kỳ thu hoạch nhưng chưa xuất bán được, trước mắt người nuôi cần tập trung các biện pháp để nuôi lưu giữ, tiếp tục chăm sóc tốt; đồng thời theo dõi sát tình hình thị trường để xuất bán vào thời điểm thích hợp. Để hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm nuôi trồng cho nông dân, địa phương kiến nghị tỉnh có chỉ đạo và định hướng cụ thể; các doanh nghiệp thu mua cần xúc tiến việc tìm kiếm thêm một số thị trường khác và mở rộng thị trường nội địa”, ông Nguyễn Thái Hải Anh, Phó Trưởng Kinh tế TX Sông Cầu cho biết.

Theo các chuyên gia thủy sản, để phát triển tôm hùm bền vững, trong quá trình nuôi, người nuôi cần lưu ý thả nuôi đúng quy hoạch, có đăng ký, kê khai đầy đủ với cơ quan quản lý và áp dụng quy trình nuôi an toàn sinh học để có thể truy xuất được nguồn gốc rõ ràng. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cần hướng dẫn người nuôi thành lập các tổ hợp tác hoặc hợp tác xã để hình thành chuỗi liên kết với doanh nghiệp từ cung cấp đầu vào cho đến đầu ra tiêu thụ. Đồng thời có chính sách khuyến khích  doanh nghiệp thu gom xuất tôm hùm chính ngạch, để có sự ràng buộc về hợp đồng kinh tế. Chứ lâu này tôm hùm chủ yếu đi tiểu ngạch sang thị trường Trung Quốc nên tư thương tự buôn bán với nhau, thiếu bền vững.
 Tuấn Kiệt – https://kinhtenongthon.vn/

Phú Yên: Môi trường nuôi tôm hùm bị đe dọa

Trung tâm Giống nông nghiệp (Sở NN-PTNT tỉnh Phú Yên), vừa có thông báo về kết quả quan trắc đột xuất môi trường nước tại vùng nuôi tôm hùm TX Sông Cầu.Qua đó phát hiện có nhiều dấu hiệu bất thường.

Dấu hiệu

Theo Trung tâm Giống nông nghiệp. Nhiều nguyên nhân khiến nguồn nước vùng nuôi tôm hùm TX Sông Cầu có dấu hiệu bất thường như: Hoạt động cho tôm hùm ăn, phát sinh khối lượng lớn thức ăn thừa thải ra môi trường, khiến nguồn nước ô nhiễm, nhất là tầng đáy.

Một số vùng nước không lưu thông được. Thời tiết nắng nóng kéo dài, hiện tượng tảo nở hoa cũng gây ra nhiều bất lợi đối với vùng nuôi… Do vậy, Trung tâm Giống nông nghiệp đề nghị Phòng Kinh tế TX Sông Cầu.  Các xã, phường ven biển thông báo kết quả quan trắc môi trường đến người nuôi lồng, bè; khuyến cáo người nuôi nâng lồng lên tầng giữa hoặc cần thiết nâng lên tầng mặt để tránh thiếu ôxy cục bộ cho tôm nuôi và tránh ngộ độc H2S ở tầng đáy.

Nuôi tôm hùm
Nuôi tôm hùm tại TX Sông Cầu. Ảnh: PV

Kết quả điều tra

Theo đó, kết quả quan trắc môi trường nước lấy mẫu kiểm tra tại vùng nuôi Dân Phú. Xã Xuân Phương và Phước Lý, phường Xuân Yên, cho thấy nước vùng nuôi tôm hùm Dân Phú có màu nâu nhạt, chỉ tiêu H2S (khí độc) mẫu nước tầng đáy tại vùng nuôi vượt giới hạn cho phép, ở mức 0,006mg/l (giới hạn cho phép là 0,005mg/l).

Tại vùng nuôi Phước Lý mẫu nước tầng giữa và đáy có màu nâu đậm chuyển dần sang màu đỏ, chỉ tiêu H2S vượt giới hạn cho phép. Dao động từ 0,006-0,007mg/l. Đồng thời, hàm lượng COD (lượng ô xy cần để ô xy hóa toàn bộ các chất hóa học trong nước) mẫu nước tầng mặt ở vùng nuôi này là 10,2mg/l, vượt ngưỡng giới hạn cho phép.

Người dân cần làm

Người nuôi cần dùng lưới lan hai lớp che mát trên mặt lồng nhằm giảm cường độ ánh sáng. Tránh tôm bị stress trong điều kiện thời tiết nắng nóng. Giãn cách lồng nuôi cho phù hợp, tăng cường vệ sinh lồng nuôi. Không để hàu, hà bám vào lồng bịt kín các lỗ lưới làm giảm sự lưu thông dòng nước bên trong và ngoài lồng nuôi. Người nuôi cần thu gom vỏ tôm lột, vỏ nhuyễn thể làm thức ăn cho tôm hùm. Các bao đựng thức ăn đưa vào đất liền xử lý theo đúng quy định; thường xuyên theo dõi màu nước, đề phòng hiện tượng tảo nở hoa, gây hại cho tôm hùm.

PV

Nguồn: Vietlinh.vn

Hiệu quả của Pondguard trong việc phòng trị bệnh hoại tử gan tụy cấp (AHPND) trên tôm nuôi

AHPND (Bệnh hoại tử gan tụy cấp) hay EMS (Hội chứng chết sớm) có đặc điểm là lây lan rất nhanh, tỷ lệ chết cao (có thể lên tới 100%), thường trong vòng 30 – 35 ngày thả ao nuôi với tôm post hoặc tôm nhỏ. Bệnh do thể thực khuẩn của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây ra, chúng đi qua đường miệng và xâm nhập vào đường tiêu hóa của tôm, sau đó tạo ra độc tố phá hủy cấu trúc và chức năng cơ quan tiêu hóa của tôm là gan tụy.

Đặt vấn đề

AHPND (Bệnh hoại tử gan tụy cấp) hay EMS (Hội chứng chết sớm) trên tôm nuôi lần đầu tiên được phát hiện tại Trung Quốc năm 2009 (nhưng tại thời điểm đó chưa được quan tâm). Đầu năm 2011, bệnh bùng phát và trở nên nghiêm trọng, 80% sản lượng tôm bị chết tại các tỉnh Hải Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến và Quảng Tây, Trung Quốc (Leaío & Mohan, 2012). Dịch bệnh xuất hiện và bùng phát trên TTCT được nuôi ở Việt Nam năm 2010, ở Malaysia năm 2011, ở Thái Lan năm 2012 và 2013 và ở Philippines năm 2013 và 2014. Ước tính thiệt hại trực tiếp và gián tiếp do AHPND gây ra cho ngành nuôi tôm của khu vực châu Á lên tới 1 tỷ USD (FAO, 2013).

Đặc điểm của bệnh AHPND là lây lan rất nhanh, tỷ lệ chết cao (có thể lên tới 100%), thường trong vòng 30 – 35 ngày thả ao nuôi với tôm post hoặc tôm nhỏ. Bệnh do thể thực khuẩn của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây ra, chúng đi qua đường miệng và xâm nhập vào đường tiêu hóa của tôm, sau đó tạo ra độc tố phá hủy cấu trúc và chức năng cơ quan tiêu hóa của tôm là gan tụy. Do đó, việc đánh giá thử nghiệm này rất cần thiết nhằm xác định khả năng chống lại vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus.

Pondguard, chế phẩm do nhóm nghiên cứu thuộc PT Asclepius Pharmaceutical Sciences Indonesia, Indonesia nghiên cứu sản xuất và cung cấp cho thử nghiệm này. Đây là một hỗn hợp các tinh dầu chiết xuất từ thiên nhiên như tinh dầu oải hương, tinh dầu khuynh diệp, tinh dầu thông giúp duy trì khả năng miễn dịch của tôm, giúp bảo vệ tôm khỏi các bệnh truyền nhiễm. Sản phẩm Pondguard đã được cấp phép bởi Bộ Thủy sản Indonesia, số đăng ký D 16060285 – HBC. Sản phẩm ở dạng lỏng, hòa tan tốt trong nước, không màu và có pH 6,8 – 7,4 (Jha và ctv, 2016).

 

Phương pháp thí nghiệm

TTCT dùng cho thí nghiêm này có khối lượng trung bình 0,6 – 0,8 g/con (đây là kích cỡ tôm dễ bị tấn công bởi vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus). Tôm thí nghiệm đã được sàng lọc bằng Real time PCR các tác nhân gây bệnh đốm trắng, AHPND và vi bào tử trùng gây bệnh tại Chi cục Thú y vùng II vào tháng 12/2019.

Tác nhân gây bệnh là Vibrio parahaemolyticus (VP) – chủng gây bệnh AHPND được sử dụng trong thí nghiệm là VP36, được phân lập từ tôm bị nhiễm AHPND (chủng đã được phân lập từ tôm bệnh lấy ở Sóc Trăng vào tháng 9/2016). Chủng VP36  được bảo quản ở – 800C trong môi trường. Vi khuẩn được xác nhận là VP khi cho khuẩn lạc màu xanh trên môi trường TCBS agar (Thiosulfate Citrate Bile Salts Sucrose Agar) và khuẩn lạc màu tím trên môi trường CAV (Chrom Agar Vibrio), dương tính khi kiểm tra bằng phương pháp PCR với mồi AP3 (Sirikharin và ctv, 2014).

Tôm thí nghiệm được cho ăn 3 lần một ngày vào 8h, 12h30 và 17h hàng ngày. Bể nuôi, hệ thống sục khí và sản phẩm Pondguard được sử dụng theo liều lượng hướng dẫn của nhà sản xuất.

 

Thiết kế thí nghiệm

Chuẩn bị bể thí nghiệm bằng thủy tinh. Mỗi bể chứa 30 lít nước biển (nồng độ 15‰), có hệ thống sục khí liên tục và duy trì nhiệt độ nước từ 28 – 300C. Nhóm thí nghiệm và nhóm đối chứng được bố trí trong hai phòng riêng biệt, khoảng cách giữa hai phòng khoảng 15 m. Tôm được thả với mật độ 15 – 20 con/bể.

Hoạt hóa vi khuẩn VP36  trên môi trường CAV, vi khuẩn được nuôi cấy trong môi trường TSB+ trong 18 giờ, ở nhiệt độ 280C.

Sản phẩm Pondguard được cho vào trong bước nuôi cấy vi khuẩn. Có hai nhóm thí nghiệm: Thí nghiệm 1, sản phẩm được cho trực tiếp sau khi cấy vi khuẩn và nuôi lắc trong 18 tiếng. Nhóm 2, sau 18 giờ nuôi lắc vi khuẩn, sản phẩm được cho vào môi trường và giữ tiếp trong 3 giờ trước khi tiến hành cho lây nhiễm. Dùng hộp nhựa chứa khoảng 300 ml dung dịch gồm nước biển và 30 ml môi trường vi khuẩn TSB+, có sục khí liên tục, ngâm 15 – 20 con tôm trong 15 phút. Sau đó, chuyển tất cả vào bể nuôi có chứa nước biển, giảm mật độ vi khuẩn xuống 106 tế bào/ml.

Tỷ lệ thức ăn là 7% trọng lượng tôm, cho ăn 3 lần/ngày trong suốt thời gian tiến hành thử nghiệm. Trong vòng 48 giờ sau khi cho lây nhiễm sẽ không thay nước, sau đó sẽ thay 20% nước trong bể mỗi ngày. Quan sát lượng tôm chết vào cùng thời gian cho tôm ăn. VP tổng số trong nước được đếm bằng cách đếm khuẩn lạc trên môi trường TCBS. Mẫu nước được lấy hàng ngày sau khi thay nước. Mẫu nước được lấy ở 3 bể trong mỗi nhóm. VP tổng số trên tôm được đếm bằng phương pháp RT-PCR. Mẫu tôm (tôm sống) được lấy vào lúc 0 giờ (trước khi tiến hành lây nhiễm) và lấy 2 ngày/lần.

 

Kết quả

Trong nhóm thí nghiệm 1, Pondguard được cho vào môi trường nuôi TSB+ với tỷ lệ 0,2% canh trường cùng lúc với cấy vi khuẩn, nuôi trong vòng 18 giờ. Trong thí nghiệm 2, Pondguard được cho với tỷ lệ 0,3% canh trường, cho vào sau khi vi khuẩn đã được nuôi 18 giờ.


Hình 1: Tỷ lệ tôm chết cộng dồn sau 8 ngày gây nhiễm

Mật độ của vi khuẩn trong nhóm đối chứng dương sau 18 giờ nuôi cấy là 9,4×108 cfu/ml, lượng vi khuẩn phát triển đã được phát hiện trong hai nhóm.

Không có trường hợp tôm chết nào được ghi nhận trong nhóm thí nghiệm dùng sản phẩm Pondguard. Trong nhóm đối chứng dương, tỷ lệ chết là 45% vào ngày thứ 8 sau khi gây nhiễm. Không có tôm chết trong nhóm đối chứng âm.

Trong nhóm đối chứng dương, tôm bắt đầu chết sau 12 giờ gây nhiễm. Nhóm đối chứng âm và nhóm thí nghiệm không có tôm chết.

Các dấu hiệu biểu hiện trên tôm bị nhiễm bệnh AHPND rất điển hình, như: dạ dày và ruột rỗng, gan tụy nhợt nhạt. Không quan sát được các dấu hiệu điển hình đó trong nhóm thí nghiệm 1. Trong nhóm thí nghiệm 2, các dấu hiệu bệnh AHPND xuất hiện trong ngày đầu tiên cho lây nhiễm với tỷ lệ 6,7%. Trong nhóm thí nghiệm 2, tôm dần phục hồi theo từng ngày và hoàn toàn bình thường vào ngày thứ 8 sau khi cho lây nhiễm; các dấu hiệu nhiễm bệnh đạt tỷ lệ tối đa 100% trong ngày đầu tiên gây nhiễm. Không có dấu hiệu nhiễm bệnh AHPND ở nhóm đối chứng âm.

Khả năng tiêu thụ thức ăn cũng được sử dụng là chỉ số để đánh giá về tình trạng sức khỏe cũng như mức độ stress của tôm. Trong nhóm thí nghiệm 1, tôm duy trì tiêu thụ thức ăn ở mức tối đa. Trong nhóm thí nghiệm 2 có sự giảm nhẹ về việc tiêu thụ thức ăn xảy ra đồng thời với việc xuất hiện các dấu hiệu bệnh AHPND. Việc tiêu thụ thức ăn trong nhóm đối chứng dương giảm mạnh. Điều này cho thấy trong nhóm thí nghiệm có dùng sản phẩm Pondguard, tôm không xuất hiện bệnh AHPND.

Phân tích RT – PCR: Phản ứng RT – PCR được thực hiện để phân tích mẫu gộp (dạ dày, gan tụy và ruột được cắt nhỏ lẫn với nhau). Nhóm đối chứng dương có giá trị Ct (Threshold cycle) thấp có nghĩa là số lượng mầm bệnh có mặt cao. Sự có mặt của mầm bệnh thấp đồng nghĩa với giá trị Ct cao, trong ngày đầu tiên và ngày thứ 3 của nhóm thí nghiệm 1. Tôm trong nhóm thí nghiệm được phục hồi sau 3 ngày và tất cả các mẫu sau đó đều cho kết quả âm tính với AHPND.

Tổng số khuẩn lạc Vibrio màu xanh từ mẫu tôm: Gan tụy, dạ dày và ruột được lấy và nghiền lẫn từ mẫu tôm sống. Mẫu lấy từ nhóm đối chứng dương có số khuẩn lạc xanh cao nhất. Tôm trong nhóm thí nghiệm có số khuẩn lạc thấp hơn 103 – 102 lần, đây là con số được coi là ở mức độ không nhiễm bệnh.


Hình 2: Từ trái qua phải: đối chứng âm, đối chứng dương, thí nghiệm 1 và thí nghiệm 2. Các dấu hiệu đặc trưng của AHPND gồm ruột rỗng, gan tụy nhợt nhạt được thấy rõ trong nhóm đối chứng dương.

Mẫu nước được lấy hàng ngày trong suốt thời gian thí nghiệm để kiểm tra lượng Vibrio tổng số có trong môi trường nuôi tôm, cấy trên môi trường TCBS và đếm khuẩn lạc sau 20 giờ.

Kết quả cho thấy tổng số khuẩn lạc VP trong mẫu nước của nhóm đối chứng dương cao hơn so với các nhóm khác.

 

Kết luận

Chủng VP gây chết trên tôm với các biểu hiện đặc trưng của AHPND. Pondguard có khả năng kìm hãm sự phát triển của VP trên tôm, vì vậy mà không có tôm bị chết và cũng không có các đặc điểm của AHPND xuất hiện trên tôm. Trong nhóm thí nghiệm sử dụng sản phẩm Pondguard, kết quả RT-PCR âm tính cho thấy sự phát triển của VP đã bị ức chế hoàn toàn. Pondguard có khả năng tiêu diệt vi khuẩn VP trong nước nuôi tôm.

Nguồn : http://www.thuysanvietnam.com.vn/

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. FAO, 2013. Early Mortality Syndrome (EMS) or Acute Hepatopancreatic Necrosis Syndrome (AHPNS) of Cultured Shrimp, FAO Fisheries and Aquaculture Report No. 1053. Rome. 54 pp.

2. George C. Chamberlain, Donald V. Lightner, Le Van Khoa, Nguyen Van Hao, Hoang Tung, Tran Huu Loc and Melba Reantso, 2014. Case study II: The shrimp Acute Hepatopancreatic Necrosis Syndrome outbreak in Vietnam in Aquaculture and Environmental Services Discussion Paper 09, Chapter 3; pp. 33-46.

3. Hong X P, D Xu, Y Zhuo, H Q Liu and L Q Lu., 2016. Identification and pathogenicity of Vibrio parahaemolyticus isolates and immune responses of Penaeus (Litopenaeus) vannamei (Boone) Journal of Fish Diseases. 39(9):1085-97

4. Leaío & Mohan 2012. Early Mortality Syndrome threatens Asia’s shrimp farms.

5. Pinoargote G, Ravishankar S (2018) Evaluation of the Efficacy of Probiotics in vitro Against Vibrio parahaemolyticus, Causative Agent of Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease in Shrimp. J Prob Health 6:193.

6. Rajeev Kumar Jha, Haig Yousep Babikian, Le Van Khoa, Daniel Wisoyo, Sarayut Srisombat and Benjamin Jiaravanon, 2016. Efficacy of Natural Herbal Formulation against Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease (AHPND) causing Vibrio parahaemolyticus in Penaeus vannamei. Veterinary Medicine Open Journal, 2(1): 1-6.

7. Sirikharin, S., 2014. Taengchaiyaphum, K. Sritunyalucksana, S. Thitamadee, T. Flegel, R. Mavichak, P. Proespraiwong. A new and improved PCR method for detection of AHPND bacteria.

8. Trần Minh Long và Phạm Thị Hoa, 2018. Bước đầu đánh giá khả năng loại trừ vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp (AHPND) Vibrio parahaemolyticus bằng phương pháp sử dụng hệ sợi nấm trong hệ thống nuôi tôm. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 54 (2): 83-90.

9. Tran L, Nunan L, Redman RM, Mohney LL, Pantoja CR, Fitzsimmons K, Lightner DV (2013) Determination of the infectious nature of the agent of acute hepatopancreatic necrosis syndrome affecting penaeid shrimp. Diseases of Aquatic Organisms. 105:45–55.

Xử lý tôm lỏng ruột, phân trắng, phân đứt khúc bằng acid hữu cơ

tôm lỏng ruột
Xử lý hiệu quả tôm lỏng ruột, phân trắng, phân đứt khúc.

Phương pháp thay thế kháng sinh trong nuôi tôm thâm canh tuy quen mà lạ.

Đường ruột là một bộ phận rất quan trọng trên cơ thể tôm và có cấu tạo rất đơn giản nên dễ mẫn cảm với các vi khuẩn gây bệnh. Nhất là khi vibrio phát triển mạnh do môi trường bị ô nhiễm, thức ăn vào đường ruột tôm mà không tiêu hóa được nên đã gây ra các hiện tượng lỏng ruột, phân trắng hay phân đứt khúc. Để cải thiện hiệu suất làm việc của các enzyme và hệ vi sinh vật có lợi trong đường ruột thì acid hữu cơ kết hợp với thảo dược là phương pháp tuyệt vời dành cho tôm nuôi thâm canh.

Vị trí của acid hữu cơ trong nuôi tôm thâm canh

Như chúng ta đã biết, việc sử dụng kháng sinh trong trị bệnh và bổ sung vào trong thức ăn để kích thích tăng trưởng đã làm gia tăng các tác động có hại đến sức khỏe con người, động vật cũng như môi trường thủy sinh và nhất là gây ra sự kháng kháng sinh của các dòng vi khuẩn có hại. Do nhiều tác động tiêu cực như vậy, mà các chất được nghiên cứu với tác dụng thay thế kháng sinh không phải là ít trong nghề nuôi tôm hiện nay. Và acid hữu cơ là một trong số đó.

Acid hữu cơ là hợp chất hóa học có chứa nhóm carboxyl, sản xuất thông qua các quá trình trao đổi chất của vi khuẩn ở những điều kiện khác nhau, hoặc có thể được hình thành trong ruột già của người và động vật nhờ cộng đồng vi sinh vật kỵ khí. Acid hữu cơ tác động đến vi khuẩn bằng cách acid hóa tế bào chất, từ đó cản trở sự phát triển của chúng. Acid hữu cơ được nhiều nghiên cứu chứng minh giúp gia tăng khả năng đề kháng với các bệnh truyền nhiễm trên tôm. Đồng thời cải thiện việc sử dụng khoáng chất nên giảm sự bài tiết phospho và nitơ, giảm lượng vi sinh vật thải ra trong phân khi thức ăn có bổ sung vào đó acid hữu cơ.

Nutric với công thức đặc trưng, đã tốt nay lại tốt hơn

Đây là một sự kết hợp nhiều loại acid hữu cơ chuỗi ngắn bao gồm acid formic, acid citric, acid lactic,… và mỗi loại acid có những tác dụng khác nhau, cùng dung hợp để tạo ra hiệu quả cao đối với sức khỏe của tôm. Ngoài các loại acid hữu cơ với nhiều chức năng vượt trội thì trong Nutric còn được bổ sung một số loại thảo dược tự nhiên và các loại prebiotic cộng thêm nhiều tác dụng tuyệt vời được tích hợp vào sản phẩm. Đó cũng là yếu tố vượt trội của Nutric với các dòng acid hữu cơ khác trên thị trường.

Acid formic, acid citric từ lâu được đánh giá là tác động tích cực đến sự tăng trưởng, sức kháng khuẩn của tôm mà nhất là đối với nhóm vibrio. Acid citric là nguồn bổ sung khoáng chất đặc biệt là Phospho, góp phần gia tăng thêm về giá trị dinh dưỡng, là thành phần của nhiều quá trình sinh lý và tham gia vào quá trình cân bằng áp suất thẩm thấu rất quan trọng trong cơ thể tôm. Với acid hữu cơ, khi vào trong ruột sẽ tạo nên môi trường có pH thấp, không thuận lợi cho vi khuẩn có hại phát triển nên có thể  hạn chế được một số loài không có tác dụng tốt trong đường ruột.

Cùng với đó, thảo dược tự nhiên được kết hợp để gia tăng tính kháng khuẩn của tôm, do có chứa các thành phần có hoạt tính chống oxy hoá, chống stress. Thêm nữa, Prebiotic cũng được thêm vào với tác dụng như một chất xơ hòa tan, giống như nguồn thức ăn cho hệ vi sinh vật có lợi trong đường ruột để chúng hoạt động tốt hơn, thúc đẩy hệ tiêu hóa làm việc một cách tích cực.

Do sự cộng hưởng của các loại acid hữu cơ, thảo dược tự nhiên và prebiotic thì ngoài tác dụng kháng khuẩn, loại bỏ các tác nhân gây bệnh, Nutric còn có thể làm phục hồi các mô tổn thương trong đường ruột, kích thích sự phát triển của hệ vi sinh vật có lợi, cạnh tranh tốt hơn về thức ăn và chỗ bám với vi khuẩn có hại. Nhờ đó mà điều trị hiệu quả hơn những bệnh về đường ruột như phân lỏng, phân đứt khúc, phân trắng do vibrio lên men thối thức ăn không tiêu hóa được tạo nên.

Để trị bệnh phân lỏng một cách an toàn thì Nutric nên được kết hợp với tinh dầu tỏi Licin garlic. Với cách dùng thảo dược kết hợp này sẽ phù hợp cho ao nuôi biết chắc nguyên nhân gây bệnh là do vi khuẩn và ký sinh trùng, khi mà dùng nhiều loại kháng sinh vẫn không khỏi. Cách này cũng đã được nhiều người tin dùng và đánh giá là mang lại hiệu quả trên 90%. Với tác dụng nhanh hơn nhưng vẫn đảm bảo an toàn sau khi điều trị, thì đây là một giải pháp thay thế kháng sinh hiệu quả. Tôm vẫn lớn bình thường nếu trước đó không dùng quá nhiều kháng sinh.

Với tác dụng đẩy lùi được bệnh phân lỏng thì Nutric sẽ đảm bảo sự khỏe mạnh của đường ruột tôm. Từ đó cải thiện sức khỏe tôm, an toàn và hiệu quả trong việc phòng và trị các bệnh về đường ruột. Đồng thời Nutric hoàn toàn không chứa kháng sinh, chất cấm trong thủy sản và khi sử dụng lâu dài thì không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của tôm. Tin chắc rằng Nutric sẽ không làm bạn thất vọng ngay trong lần đầu sử dụng.

Phòng kỹ thuật An Bình

Virus bí ẩn tàn phá các hồ nuôi tôm TQ: Nhiều người chăn nuôi mất trắng, nhà khoa học bó tay

Virus bí ẩn tàn phá các hồ nuôi tôm TQ: Nhiều người chăn nuôi mất trắng, nhà khoa học bó tay

Người nuôi tôm Trung Quốc cho biết họ rất lo sợ về sự lây lan của bệnh Div1. Ảnh: Xinhua

Các nhà khoa học thừa nhận họ có hiểu biết rất hạn chế về loại virus gây bệnh cho các hồ nuôi tôm ở Trung Quốc.

Các hộ nuôi tôm tại Trung Quốc đang hết sức lo lắng do loại virus lạ đang xâm nhập các hồ nuôi tại tỉnh Quảng Đông, khiến sản lượng tôm sụt giảm mạnh và đe dọa sinh kế của hàng chục nghìn hộ gia đình, theo SCMP (Hồng Kông).

Theo người nuôi tôm, được phát hiện lần đầu tiên vào năm 2014, loại virus có tên là Decapod iridescent 1 (Div1) đã lây nhiễm khoảng 1/4 trang trại nuôi tôm.

Div1 không gây hại cho người nhưng khiến ngành nuôi tôm tại Trung Quốc lo lắng về một hệ quả có thể phải đối mặt tình trạng tôm chết hàng loạt ở quy mô tương tự như khủng hoảng dịch tả lợn châu Phi, xóa sổ tới 60% đàn lợn tại nước này.

Tốc độ lây lan và số lượng tôm chết này thật đáng sợ. Chỉ cần 2-3 ngày sau khi phát hiện dấu hiệu mắc bệnh đầu tiên là cả hồ tôm sẽ chết”, ông Wu Jinhong, nông dân nuôi tôm tại thị trấn Da’ao, Jiangmen chia sẻ với SCMP.

Virus bí ẩn tàn phá các hồ nuôi tôm TQ: Nhiều người chăn nuôi mất trắng, nhà khoa học bó tay - Ảnh 1.

1/4 các trang trại nuôi tôm ở tỉnh Quảng Đông đã bị nhiễm một căn bệnh mới do virus Div1, gây thiệt hại không nhỏ tới thu nhập của người dân. Ảnh: Xinhua

Theo các chủ hồ nuôi, các dấu hiệu bị nhiễm bệnh được ghi nhận là tôm đỏ thân, mềm vỏ và chìm xuống đáy ao. “Div1 ảnh hưởng đến hầu hết các loại tôm nuôi phổ biến và ở tất cả cỡ tôm dù lớn hay nhỏ. Một khi nhiễm bệnh, chúng ta chẳng thể làm gì để ngăn chặn sự lây nhiễm. Chỉ vài ngày sau là các hồ nuôi bên cạnh cũng sẽ nhiễm bệnh”, ông Zhong Qiang, một hộ nuôi tôm tại thành phố Chu Hải nói.

Các nhà khoa học của Viện nghiên cứu thủy sản Trung Quốc lần đầu tiên xác định một loại virus bí ẩn ở tôm thẻ chân trắng tại tỉnh Chiết Giang vào tháng 12/2014. Mặc dù gây hại nghiêm trọng và lây lan nhanh nhưng Div1 không được chú ý ở thời điểm này vì được kiểm soát tương đối tốt. Đến năm 2018, virus Div1 đã được tìm thấy trong các trang trại nuôi tôm ở 11 tỉnh khác ngoài Chiết Giang. Dịch Div1 nghiêm trọng nhất xảy ra vào năm 2019, khi toàn bộ lưu vực đồng bằng Châu Giang đồng loạt nhiễm bệnh. Tại thị trấn Da’ao, 65% ao nuôi bị nhiễm virus dẫn đến thua lỗ nặng, ảnh hưởng sinh kế của 20.000 người nuôi tôm trong khu vực này.

Dịch Div1 gây thiệt hại cho người nuôi tôm không khác gì dịch cúm gia cầm và dịch tả lợn Châu Phi”, ông Dai Jinzhi, chủ hộ nuôi vừa phát hiện 6 ha mặt nước nhiễm bệnh cho biết, chi phí tát cạn nước ở các hồ nuôi đang chứa 3,7 tấn tôm lên tới 100 nghìn NDT (14 nghìn USD)

Chúng tôi không còn cách nào khác là rút hết nước và bán tôm với giá rẻ mạt. Sau đó để hồ khô cạn trong ít nhất 2 tháng. Một số hồ đã tiếp tục bị nhiễm bệnh lần 2 do thả tôm giống vào hồ quá sớm. Do vậy, tôi chẳng dám nuôi tôm lại ngay, đợi thời tiết ấm lên đã”, ông Dai nói thêm.

Dịch Div1 sẽ giảm bớt vào mùa hè và mùa thu khi nhiệt độ cao, thường sẽ tái phát vào tháng 2 hàng năm. Những người nuôi tôm cho biết nhiệt độ nước trên 30 độ C sẽ giảm bớt nguy cơ nhiễm bệnh cho tôm.

Các chuyên gia vẫn chưa xác định được nguồn gốc và phương thức lây lan bệnh Div1. Do không có cách nào hiệu quả để ngăn chặn sự lây lan, nhiều người nuôi tôm ở Quảng Đông không cho phép người ngoài, bao gồm bạn bè và gia đình, đến gần ao nuôi.

Trong khi, sự lây nhiễm bệnh được cho “chủ yếu từ nước và môi trường hồ nuôi” nhưng ông Qiu cũng không loại trừ nguồn lây từ con người. Tuy vậy, các nhà khoa học thừa nhận họ hiểu biết rất ít về Div1.

Theo chúng tôi được biết, loại virus này đã xuất hiện ở các nước Đông Nam Á”, ông Huang Jie, Tổng giám đốc Mạng lưới trung tâm thủy sản tại Châu Á- Thái Bình Dương.

Rất khó để thống kê thiệt hại từ dịch bệnh gây ra bởi virus Div1. Thông thường, một hộ nuôi tôm mỗi năm thu hoạch tôm 4 lần, cứ bị nhiễm dịch thì sản lượng thu hoạch tôm hàng năm sẽ giảm ít nhất là ¼. Do dịch Dvi1 nên sản lượng tôm thẻ chân trắng hàng năm tại Trung Quốc đã giảm từ mức 1,5 triệu tấn vào năm 2013 chỉ còn 1.2 triệu tấn vào năm 2018 (trích số liệu Báo cáo thống kê thủy sản Trung Quốc năm 2019)

Nguồn : http://baodansinh.vn

Virus lạ nỗi kinh hoàng người dân nuôi tôm Quảng Đông-Trung Quốc

Nông dân nuôi tôm ở Trung Quốc đang chứng kiến ​​nỗi kinh hoàng ngày càng tăng. Khi một loại virus bí ẩn tàn phá các trang trại nuôi trồng thủy sản ở tỉnh miền nam Quảng Đông. Làm giảm sản lượng hải sản phổ biến và đe dọa đến kế sinh nhai của hàng chục nghìn hộ gia đình.

Virus này, được biết đến với cái tên Decapod óng ánh 1, hay Div1, được phát hiện lần đầu tiên vào đầu năm 2014. Nhưng đã quay trở lại với sự báo thù vào mùa xuân năm ngoái và một lần nữa vào tháng 2 năm nay. Ảnh hưởng đến khoảng một phần tư diện tích sản xuất tôm, nông dân địa phương cho biết.

Ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh Div1.

Được biết loài virus này không có tác dụng lên người nhưng có thể giết chết đàn tôm trong vài ngày. Trung Quốc lần đầu tiên xác định một loại virus bí ẩn ở tôm thẻ chân trắng (đã được đặt tên là Div1) tại tỉnh Chiết Giang vào tháng 12/2014. Mặc dù gây hại nghiêm trọng và lây lan nhanh nhưng Div1 không được chú ý ở thời điểm này vì được kiểm soát tương đối tốt. Đến năm 2018, virus Div1 đã được tìm thấy trong các trang trại nuôi tôm ở 11 tỉnh khác ngoài Chiết Giang.

Vụ dịch Div1 nghiêm trọng xảy ra vào năm 2019, khi toàn bộ lưu vực Đồng bằng Châu Giang đồng loạt nhiễm dịch. Tại thị trấn Da’ao, 65% ao nuôi bị nhiễm virus dẫn đến thua lỗ nặng, ảnh hưởng kế sinh nhai của 20.000 người nuôi tôm trong khu vực này.

Lần dịch này bắt đầu từ tháng 2/2020, đến này đã ảnh hưởng đến 25% diện tích tôm nuôi ở vùng nuôi tôm tập trung thuộc tỉnh Quảng Đông. Trận dịch đợt này đã khiến ngành tôm ở Quảng Đông băn khoăn. Liệu nó có phải đối mặt với cái chết hàng loạt ở quy mô tương tự như khủng hoảng dịch tả lợn châu Phi đã xóa sổ tới 60% đàn lợn của Trung Quốc.

Dấu hiệu trên tôm khi nhiễm virus Div1.

Div1 gây ảnh hưởng đến hầu hết các loài tôm nuôi phổ biến như tôm thẻ chân trắng và tôm càng xanh, tác động tất cả size tôm dù nhỏ hay lớn. Dịch bệnh lây lan nhanh, hiện nay vẫn chưa có biện pháp kiểm soát, tôm thường chết sạch sao 2 -3 ngày phát hiện dấu hiệu mắc bệnh đầu tiên. Dịch bệnh giảm bớt trong những tháng mùa hè và mùa thu khi nhiệt độ cao hơn. Theo kinh nghiệm của nông dân thì nhiệt độ trên 30oC có thể sẽ giảm lây lan virus. Các dấu hiệu bị nhiễm bệnh được ghi nhận là: tôm đỏ thân, mềm vỏ, chìm xuống đáy ao.

virus nguy hiểm làm tôm chết hàng loạt

Nguồn gốc, phương thức lây lan bệnh Div1 vẫn chưa được xác định rõ ràng và vẫn chưa tìm được cách trị bệnh. Do không có cách nào hiệu quả để ngăn chặn sự lây lan, nhiều người nuôi tôm ở Quảng Đông không cho phép người ngoài, bao gồm bạn bè và gia đình đến gần ao nuôi. Hiện nay những người nuôi tôm ở vùng dịch được khuyên thu hoạch ngay tôm khi có dấu hiệu bệnh, cải tạo ao chờ đến thời tiết phù hợp mới thả nuôi vụ mới.

Hoài An

Nguồn: tepbac.com

Mùa tôm “lắng động” – mùa dịch “sôi nổi”

Vụ mùa mới lại đến, trong thời tiết thuận lợi cho tôm sinh trưởng, cho nên một bộ phận người nuôi đã thả giống sớm. Việc thả giống còn theo “thói quen” từng vùng. Nhưng về quy mô thì thưa thớt không sôi nổi so với năm ngoái, nguyên nhân chính cho việc sản lượng thả nuôi thấp hơn mọi năm là do ảnh hưởng của dịch covid 19 kéo dài làm giá tôm không ổn định nên một số hộ chưa vội thả nuôi vụ mới.

Diện tích thả nuôi tại các vùng

Vùng Sóc Trăng, theo số liệu từ cơ quan chức năng, đến thời điểm này thả giống trên 6.000 hecta, chiếm gần 15% diện tích nuôi. Sóc Trăng là tỉnh có diện tích nuôi tôm thâm canh lớn nhất nước, gần 25.000 hecta. Với tỉ lệ thả nuôi này, không đáp ứng dự báo của các hãng cung ứng tôm giống lớn. Khiến có những mức khuyến mãi mua tôm giống cao ngất ngưởng, mua 1 tặng 1/2, thậm chí mua 1 tặng 1.

Phía Bắc sông Hậu thả giống sớm trong năm, phát triển khá ổn định, đang vào giai đoạn thu hoạch. Phía Nam sông Hậu thả giống trễ hơn, từ đầu năm và kéo dài tới rớt hột mưa. Vùng Bạc Liêu và Cà Mau, có diện tích nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến rất lớn có cách thả giống riêng của mình. Thông thường sẽ cải tạo sau lúc cuối mùa nắng và thả nuôi kéo dài cả năm.

vụ tôm mới
ảnh minh họa

Vì sao diện tích thả nuôi lại hạn chế

Có nhiều lý giải như: tình hình lây lan Covid-19 trên thế giới chưa có dấu hiệu dừng làm việc tiêu thụ trên thế giới sẽ giảm sút, giá tiêu thụ sẽ giảm theo. Có thể không mang hiệu quả tốt cho người nuôi. Nhưng một nguyên nhân khác hết sức quan trọng gây chùn tay thả nuôi tôm là tình hình các ao nuôi đã thả giống. Thông thường thời tiết nóng, vi khuẩn gan tụy phát triển mạnh hơn, thời tiết lạnh vào mùa mưa hoặc cuối năm virus đốm trắng sẽ bùng phát nhiều hơn. Khái quát như vậy, nhưng hiện nay virus đốm trắng đang tấn công mạnh các ao tôm từ một tháng rưỡi tuổi. Các chủ nuôi tôm Sóc Trăng và một số tỉnh đang thấm thía tác hại này.

Do tình hình ảnh hưởng từ Covid-19, các nhà máy tôm đang lo lắng phòng chống tình hình lây nhiễm dịch trong công nhân, lo lắng tình hình tiêu thụ, tình hình giao hàng. Nay thêm lo lắng tình hình dịch bệnh này kéo dài, người nuôi hạn chế thả nuôi tôm thì hai tháng nữa, theo thông lệ là vào vụ thu hoạch, khởi đầu mùa tôm… làm sao có đủ tôm chế biến. Không riêng các nhà máy tôm, các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị con tôm cũng trong tâm trạng không vui này.

Thả tôm chậm lại có lợi hơn cho người nuôi

Tuy nhiên, việc thả giống chậm là hợp lý. Bởi nuôi làm sao giảm thiểu tối đa rủi ro. Khi mùa mưa bắt đầu, nhiệt độ không còn quá nóng, chênh lệc ngày đêm giảm và nhất là độ mặn của nước giảm đi phần nào sẽ khiến người nuôi an tâm hơn cho phương châm làm một vụ ăn chắc. Đó là hoàn cảnh nuôi các hộ nhỏ lẻ. Riêng các trang trại có điều kiện khắc phục các khó khăn như nhiệt độ, độ mặn thì việc thả nuôi sớm là khả thi và thả nuôi nhiều vụ mỗi năm.

Nói gì thì nói, “luồng gió độc” đang diễn ra đã gây tác hại không nhỏ. Thực ra không ít kế hoạch bị đảo lộn. Minh chứng là rất nhiều ao tôm đã chuẩn bị xong, nghe tình hình này nên tạm ngưng thả giống. Hiệu ứng domino, các nhà máy chế biến sẽ có khoảng thời gian thiếu hụt nguyên liệu, dẫn tới giá tôm tươi thất thường, đắt đồng ế chợ… Mùa tôm mặn năm nay khởi đầu thấy… mặn. Hy vọng Covid-19 sớm lụi tàn, hy vọng mùa mưa tới sớm hơn, thời tiết sớm dịu mát hơn để người nuôi an tâm thả giống thời gian tới. Và hy vọng lớn hơn, Covid-19 sớm tan, thế giới vui mừng, tiêu thụ tôm mạnh hơn, giá cũng tốt hơn!

TS. Hồ Quốc Lực – Nguyên Chủ tịch VASEP, Chủ tịch HĐQT FIMEX VN

Nguồn: Vasep