Bạn tìm thông tin gì?

Blog

Chuyện nuôi tôm: Đổi đời hay trắng tay?

ao nuôi tôm
Người dân mong đổi đời nhờ nghề nuôi tôm

Nghề nuôi tôm thẻ chân trắng phát triển ở vùng hạ Long An đã rất lâu, khi đó người có tiền mới đầu tư nuôi tôm. Nhiều người mong muốn nuôi tôm nhanh chóng đổi đời, thế nhưng tôm nuôi ngày càng phát sinh dịch bệnh và có chiều hướng lao dốc… khiến họ trắng tay.

Vùng hạ tỉnh Long An là vùng đất ngập mặn, nhiễm phèn, sản xuất phụ thuộc vào tự nhiên còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, thời gian qua, người dân cải tạo đất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng mong làm giàu trên mảnh đất của mình. Đặc biệt, người dân chuyển từ đất lúa sang nuôi tôm thẻ chân trắng và tôm sú với diện tích duy trì hàng năm khoảng 7.000ha.

Ước mong đổi đời

Tại các huyện vùng hạ Long An, để gắn bó được với nghề nuôi tôm, đòi hỏi không chỉ vốn đầu tư lớn mà còn cần những con người hết sức chăm chỉ, cần cù và tâm huyết với nghề.

Sinh ra trong một gia đình gắn bó với nghề nuôi tôm từ lâu, anh Nguyễn Văn Trung, ngụ xã Tân Chánh, huyện Cần Đước, sau nhiều năm xa quê đã quyết tâm trở về cùng gia đình phát triển nghề nuôi tôm, góp phần làm giàu cho quê hương. Chia sẻ về nghề, anh Trung cho biết: “Hiện nay, nghề nuôi tôm thẻ được rất nhiều người ưa chuộng và mong đổi đời từ con tôm. Khi bắt đầu nuôi, tôi đến tham quan, khảo sát các tỉnh bạn học hỏi về cách nuôi, chăm sóc và kinh nghiệm nuôi tôm an toàn, bền vững… Sau thời gian nuôi, nhận thấy nuôi tôm thẻ chân trắng, ngoài đầu tư kết cấu hạ tầng còn phải kết hợp kinh nghiệm, ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật (đây là yếu tố quyết định) vì tôm thẻ chân trắng rất dễ phát sinh dịch bệnh. Bên cạnh việc bảo đảm nguồn nước, nuôi tôm đòi hỏi nông dân phải có 70% diện tích để làm ao ươm tôm giống, hệ thống ao lắng 1 để lọc sinh học và ao lắng 2 xử lí mầm bệnh trước khi cấp nước cho ruộng nuôi. Sử dụng nguồn giống phải uy tín, bảo đảm chất lượng con giống khỏe mạnh, không bị nhiễm bệnh, nắm vững quá trình sinh trưởng và quy trình kỹ thuật nuôi bền vững”.

Từ 5.000m2 đất, gia đình anh Trung kiếm được lợi nhuận 300-500 triệu đồng/năm từ nghề nuôi tôm thẻ chân trắng. Anh Trung nói: “Với diện tích trên, tổng vốn đầu tư ban đầu trên 500 triệu đồng. Vốn đầu tư lớn, thời gian nuôi ngắn, năng suất cao, tôm phát triển ổn định sau thời gian nuôi khoảng 90 ngày sẽ đạt 40 – 50 con/kg, sản lượng đạt khoảng 3 tấn/ha, nếu trúng giá thì một vụ lời cả trăm triệu là chuyện bình thường”.

Tại huyện Tân Trụ, nhiều nông dân cũng “khá” lên nhờ con tôm thẻ chân trắng. Anh Nguyễn Văn Đời, ngụ xã Nhựt Ninh, chia sẻ: “Tôi gắn bó với con tôm gần 20 năm. Ban đầu, tôi nuôi tôm càng xanh nhưng lợi nhuận không cao. Sau đó, tôi bắt đầu chuyển qua nuôi tôm thẻ chân trắng. Nếu 1ha nuôi tôm thẻ thì trung bình mỗi năm nông dân kiếm lời trên 500 triệu đồng, cao gấp nhiều lần so với lúa và vật nuôi khác”. Cũng như anh Đời, chị Nguyễn Thị Sương, ngụ xã Đức Tân, vui mừng nói: “Hơn 2 năm nay tôi nuôi tôm vụ nào cũng có lợi nhuận. Vụ rồi, nuôi trên 5.000m2, tôi kiếm được hơn 300 triệu đồng”. Chỉ tay vào căn nhà đang xây dỡ dang, chị Sương nói: “Đó, nhờ nuôi tôm mà tôi xây được nhà và lo các con ăn học. Gia đình tôi được như vậy xem như là rất may mắn. Có nhiều hộ nuôi ròng rã cả năm trời mà chưa thấy đồng lời nào”.

Không dễ “ăn”

Nhiều người khá lên nhờ nuôi tôm, tuy nhiên nhiều người trắng tay cũng vì con tôm. Ông Nguyễn Văn Hải, ngụ xã Tân Chánh, huyện Cần Đước, có diện tích 20.000m2, vốn đầu tư lên hàng tỉ đồng nhưng vẫn không có lời. Ông Hải chia sẻ: “Thấy người ta nuôi tôm trúng ham quá, nhưng không “dễ ăn” tí nào. Khi mình “nhảy” vào nuôi mới biết, nuôi tôm đầu tư các dụng cụ: Máy cho ăn, quạt nước, máy thổi oxy đáy,… và thức ăn, thuốc nhưng khi tôm xảy ra dịch bệnh hoặc không đạt năng suất là lỗ hàng trăm triệu”.

“Nhiều người mong muốn đổi đời nhờ con tôm cũng rất khó” – ông Hải ngao ngán. Còn ông Nguyễn Văn Hanh, ngụ cùng địa phương, cho biết: “Tôi nuôi tôm nay cũng hơn 5 năm nhưng có năm lời, năm lỗ. Trước đây, với cách nuôi truyền thống trong ao đất, tôi thường thả 50 con giống/m2, năng suất không cao. Vài năm gần đây, tôi lót bạt ao và thả mật độ dày đến 200 con/m2. Mật độ dày đòi hỏi nhiều kỹ thuật và nhờ quy trình nuôi an toàn sinh học, chọn lọc con giống tốt nên con tôm khi thu hoạch đạt được cỡ lớn từ 25-30 con/kg, năng suất cao hơn gấp 4 lần so với cách nuôi truyền thống, lợi nhuận cũng khá hơn. Tuy vậy, tôi thấy nghề nuôi tôm này cũng khá bấp bênh”.

Bí thư Đảng ủy xã Tân Chánh, huyện Cần Đước – Nguyễn Thị Thu Vân cho hay: “Toàn xã có 954ha mặt nước thả nuôi tôm, đạt trên 100% kế hoạch năm, năng suất trung bình đạt 1.610 tấn/năm, ước tính tổng lợi nhuận trên 55 tỉ đồng/năm. Xã hiện có 13 tổ hợp tác, 1 Hợp tác xã và 1 Hội quán nuôi tôm, với tổng diện tích trên 26ha. Xây dựng 2 mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao với tổng diện tích 3ha tại ấp Hòa Quới và ấp Lăng, đạt sản lượng gần 60 tấn/năm, mang lại cho người nuôi lợi nhuận hàng tỉ đồng. Ngoài diện tích thử nghiệm, hiện nay, toàn huyện có hơn 150ha nuôi tôm công nghiệp (mật độ trên 60 con/m2, được trang bị đầy đủ dụng cụ như máy cho ăn, máy quạt nước, máy thổi oxy đáy), năng suất trung bình từ 4-5 tấn/ha/vụ. Tuy nhiên, thời gian gần đây, thời tiết không thuận lợi, chất lượng con giống kém, tôm bị dịch bệnh đốm trắng, đỏ thân, sưng mang, chết hàng loạt, người nuôi tôm gặp khó khăn”.

Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh – Nguyễn Thanh Toàn cho biết: “Thời gian qua, người nuôi tôm bị ảnh hưởng rất nhiều về điều kiện thời tiết: Tình hình biến đổi khí hậu, thời tiết phức tạp; tình trạng xâm nhập mặn kéo dài đã ảnh hưởng đến nuôi tôm, cùng với ô nhiễm môi trường, môi trường luôn biến động dẫn đến nguy cơ phát sinh các loại dịch bệnh trên tôm rất cao, tôm chết thu hoạch không kịp thời gây thiệt hại cho người nuôi. Một số diện tích thả nuôi trước vụ khi dịch bệnh xuất hiện nhưng người nuôi không khai báo để được dập dịch kịp thời ở thời điểm nuôi, vì vậy mầm bệnh thường xuyên tồn lưu, lây lan ảnh hưởng đến các ao đầm thả nuôi chính vụ”.

Huỳnh Phong – Bùi Tùng – Kim Thoa Báo Long An

Cơ hội lớn cho ngành tôm ở kênh tiêu thụ bán lẻ

COVID-19 kéo dài hơn, hệ thống nhà hàng, điểm du lịch còn đóng cửa sẽ làm giảm sức cầu, nhất là tôm giá trị cao. Tuy nhiên, bù lại hệ thống siêu thị, bán lẻ sẽ có nhu cầu tăng vì xu thế mua về chế biến ở nhà.

Nhu cầu tiêu thụ tôm ở kênh bán lẻ tăng mạnh

TS Hồ Quốc Lực – Nguyên Chủ tịch VASEP, Chủ tịch HĐQT FIMEX Việt Nam cho biết ngày 7/5, lãnh đạo Bộ NN&PTNT và các đơn vị trong ngành họp tại Cần Thơ bàn giải pháp ổn định hoạt động ngành cá tra.

Do COVID-19, 4 tháng đầu năm nay, tiêu thụ cá giảm trên 20% so với năm rồi. Thị trường Trung Quốc chiếm thị phần cao nhất cá tra của nước ta, trên 30%.

Các địa phương, các doanh nghiệp cá và các Hiệp hội đã đề xuất nhiều ý kiến, trong đó, trước mắt hỗ trợ để ngành vượt qua khó khăn lúc này như giãn nợ, giảm lãi suất tiền vay, giảm tiền điện, giãn tiền thuế…

Song song, chú trọng hơn công tác dự báo thị trường, bởi ngoài khó khăn bất ngờ bất khả kháng do dịch bệnh trên người hiện nay, còn phải chú trọng tình hình cung cầu cá thịt trắng, nhất là sản phẩm tương đồng, thay thế.

Bên cạnh đó, Bộ sẽ phối hợp các Bộ liên quan từng bước tháo gỡ các khó khăn ở thị trường; riêng các doanh nghiệp tích cực làm việc với các đối tác, nhất là bên Trung Quốc để nối lại việc tiêu thụ, khi COVID-19 đang đi qua.

Cái nổi bật ngành cá tra là đã có nhiều doanh nghiệp tổ chức nuôi quy mô lớn theo công nghệ cao, khép kín, an toàn cho sản phẩm lẫn môi trường.

Tuy nhiên, ông Lực cũng cho biết điểm nhấn hàng đầu ngành cá tra là phải kiểm soát được sản lượng cá nuôi hàng năm, không thể quá nhiều khi cá thay thế là minh thái đang có sản lượng khai thác tự nhiên rất tốt. Ao thừa có thể nuôi các loài thuỷ sản khác.

Điểm nhấn tiếp theo là gia tăng chế biến các mặt hàng từ phụ phẩm như mỡ cá, da cá…; nỗ lực đa dạng sản phẩm và chú trọng phát triển thị trường nội địa.

Những nội dung này ngành đều có cố gắng và có kết quả khá tốt; nhưng tốt hơn phải thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa. Đây là giải pháp căn cơ để giám giá thành, tăng tiêu thụ, tăng nuôi sắp tới.

Ngày 8/5, Bộ họp tổng kết nuôi tôm nước lợ ở Sóc Trăng. Con tôm, cá tra là hai sản phẩm chủ lực xuất khẩu của ngành thuỷ sản. Đồng bằng sông Cửu Long đang chuẩn bị chuyển mùa, cao điểm thả tôm nuôi.

“Việc tổng kết và triển khai nuôi tôm lúc này đúng lúc, đầy ý nghĩa. Ý nghĩa lớn nhất con tôm năm nay là con tôm có thể là một cơ hội lớn khi nguy nan COVID-19 đi qua”, ông Lực nhận định.

Các năm qua, dù đương đầu nhiều yếu tố bất lợi như giá cả trồi sụt bất thường, dịch bệnh rình rập, vật tư đầu vào nuôi tôm đều có xu hướng lên giá… khiến người nuôi tôm bất an vì đầy thụ động, bất lợi vây quanh.

Tuy nhiên, sản lượng tôm vẫn tăng qua từng năm, dù chỉ một con số, năm 2019 đạt trên 800.000 tấn, đứng thứ hai thế giới.

Năm nay, đầu mùa nắng nóng và xâm nhập mặn khiến nhiều ao tôm thả sớm bị thiệt hại, mặt khác Covid tác động sức cầu nên giá cả cũng không tốt lắm.

Ông Lực cho rằng trước tình hình này, hội nghị diễn ra để xốc lại lực lượng, thông tin những tín hiệu tích cực tới đây là hết sức cần thiết để hoạt động nuôi tôm khởi sắc hơn.

COVID-19 đã tạo ra những thiệt hại vô cùng to lớn trên toàn cầu. Chính phủ Ấn Độ phong toả toàn quốc kéo dài cả tháng, chuỗi cung ứng ngành tôm sẽ bị gãy đổ.

Ecuador quá thiếu lao động cho ngành tôm vì giới nghiêm phòng chống covid; tương tự ở Indonesia, thậm chí Thái Lan.

Trung quốc ngoài tác động từ Covid dài ngày, tôm nuôi ở đây đang bị virus Div1 tấn công, gây thiệt hại diện rộng, khá trầm trọng.

“Tín hiệu tích cực nói gọn lại là nguồn cung từ các cường quốc tôm đều có xu hướng giảm sút, thậm chí giảm sút nặng nề như ở Ấn Độ, Trung Quốc

COVID-19, tan đầu quý III là quá tốt. COVID-19 kéo dài hơn, hệ thống nhà hàng, điểm du lịch còn đóng cửa sẽ làm giảm sức cầu, nhất là tôm giá trị cao. Tuy nhiên, bù lại hệ thống siêu thị, bán lẻ sẽ có nhu cầu tăng vì xu thế mua về chế biến ở nhà”,  ông Lực nói.

Theo ông Lực, đây là cơ hội cho người nuôi và cơ sở chế biến tôm của Việt Nam. Do vậy, người nuôi an tâm thả giống ngay bây giờ, bởi thời tiết đang có xu hướng ngày một thuận lợi hơn.

Lo bệnh dịch trên tôm

Ông Lực cho rằng điều đáng lo ngại của nuôi tôm trước mắt là bệnh tôm như vi bào tử trùng chưa có phác đồ điều trị, chỉ có giải pháp ngăn ngừa.

Cái lo xa, liệu virus Div1 có lây lan qua ta tới đây!

“Dĩ nhiên đây là những bài toán khó, thủ lĩnh ngành phải có chỉ đạo xử lý quyết liệt, để ngành tôm đi lên bền vững hơn.

Rất tiếc, hội nghị chỉ kéo dài không đầy bốn tiếng đồng hồ, nhiều tham luận; khiến việc cần thiết là đào sâu tìm giải pháp ngăn chặn dịch bệnh trên tôm để người nuôi bớt lo lắng, lại không được chú trọng đúng mức!”, ông Lực nói.

Lĩnh vực nông nghiệp ít có cơ hội phát triển tốc độ cao, bởi còn lệ thuộc không nhỏ thời tiết, khí hậu.

Nhưng mặt khác, lĩnh vực này có nền tảng ổn định khá tốt xuất phát từ nhu cầu thực phẩm khá ổn định và sự cần cù, nhẫn nại của hàng triệu lao động trong ngành.

(Theo Vietnambiz)

Trà Vinh: Thiệt hại hàng triệu con tôm giống do nắng nóng kéo dài

Huyện Cầu Ngang, huyện Duyên Hải và thị xã Duyên Hải (Trà Vinh) đang chịu thiệt hại từ 25 đến 30% diện tích thả nuôi tôm giống do nắng nóng.

Nông dân Trà Vinh tranh thủ thu hoạch tôm vì thời tiết bất lợi

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tỉnh Trà Vinh cho biết, dù bố trí lịch thả giống chậm hơn mọi năm và khuyến cáo nông dân chuẩn bị kỹ điều kiện nuôi nhưng mấy ngày qua, tôm nuôi trên địa bàn vẫn bị chết hàng loạt.

Tôm chết hàng loạt là do thời tiết bất lợi, nắng nóng kéo dài làm độ mặn tăng cao, trong khi vẫn còn nhiều hộ sử dụng nguồn giống tôm kém chất lượng, nhất là các hộ nuôi với quy mô nhỏ. Địa phương có nhiều nuôi tôm nuôi bị thiệt hại gồm huyện Cầu Ngang, huyện Duyên Hải và thị xã Duyên Hải với mức độ thiệt hại từ 25 đến 30% diện tích thả nuôi.

Từ đầu vụ đến nay, nông dân tỉnh Trà Vinh thả nuôi tôm trên 30.000 ha mặt nước, tăng hơn 4.000 ha so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó 579 triệu con tôm giống các loại bị thiệt hại, chiếm gần 29% lượng con giống thả nuôi.

Minh Nguyệt (T/h) – https://moitruong.net.vn/

Sản xuất tôm ở hàng loạt nước gặp khó khăn và cơ hội cho Việt Nam

Ngành tôm Việt Nam đang được cho là đứng trước cơ hội lớn sau dịch COVID-19 được kiểm soát trên thế giới, trong khi nguồn cung tôm ở các nước giảm do chịu tác động của dịch bệnh.

Nguồn cung các nước lớn dự báo giảm mạnh

Trao đổi với người viết TS Hồ Quốc Lực, nguyên Chủ tịch Hiệp Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Sao Ta Việt Nam, hiện nay COVID-19 đang tác động trên thế giới khiến hệ thống nhà hàng cơ sở du lịch còn đóng cửa.

Điều này dẫn đến nhu cầu tôm giá trị cao giảm mạnh nhưng tổng cầu chung giảm nhẹ do các hộ gia đình có xu hướng tiêu thụ tôm cỡ nhỏ nhiều hơn, bù đặp với sụt giảm đối với các loại tôm khác.

Theo đó, nguồn cung của các nước nuôi tôm lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Ecuador do chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 hoặc bệnh trên tôm.

Theo VASEP, dịch COVID-19 đã làm toàn bộ chuỗi sản xuất tôm tại các nước sản xuất lớn như Ấn Độ, Ecuador phải đối mặt với nhiều khó khăn.

Người nuôi tôm Ấn Độ gặp khó khăn do Chính phủ nước này áp lệnh phong tỏa cả nước từ 23/3 đến 3/5.

Tại bang Andhra Pradesh, bang sản xuất tôm lớn nhất Ấn Độ, hoạt động nuôi tôm bị đe dọa bởi dịch COVID-19 do hiện là cao điểm của mùa thu hoạch. Nhiều nhà chế biến đang hoạt động trong tình trạng thiếu nhân công.

Hơn 50% nhân công tại các nhà máy chế biến của Andhra Pradesh là người từ các bang khác nên họ phải về gia đình khi lệnh phong tỏa có hiệu lực và rất khó để quay lại làm việc tại các nhà máy do lệnh hạn chế đi lại của chính quyền địa phương.

Người nuôi không bán được tôm. Mặc dù chính quyền bang đứng về phía người nuôi đe dọa sẽ rút giấy phép hoạt động của các nhà chế biến nếu họ không hoạt động trở lại.

Đến thời điểm giữa tháng 4/2020, phần lớn các lô hàng đã xuất từ đầu tháng 3 trước khi lệnh phong tỏa diễn ta vẫn bị mắc kẹt trên biển hoặc tại cảng đến.

Ngành tôm Ecuador đang phải hoạt động chỉ với 50% công suất trong bối cảnh COVID-19 vì số ca nhiễm và tử vong vẫn tăng ở nước này.

Sản xuất tôm tại nước này bị ảnh hưởng nặng nề do các công ty chế biến chủ yếu nằm ở Guayaquil, thuộc tỉnh Guayas- đây cũng là tâm dịch COVID-19 ở Ecuador. Một số công ty có nguy cơ phải đóng cửa nếu tình hình dịch bệnh không được cải thiện.

Một số nhà máy chế biến không mua thêm nguyên liệu vì không có nhân công làm việc tại các nhà máy do lệnh phong tỏa. Trong khi ngành tôm nước này không nhận được hỗ trợ gì từ phía Chính phủ.

Nguồn cung tại Việt Nam có thể giảm 10%

Người nuôi tôm Việt Nam đối diện với khó khăn là dịch bệnh. Bệnh từ năm ngoái đến giờ ảnh hưởng quá nhiều đến sản lượng. Đây cũng là lí do cuối năm ngoái Việt Nam giảm chỉ tiêu xuất khẩu tôm.

“Theo phản ánh của các doanh nghiệp, dự kiến năm nay sản lượng tôm sẽ giảm khoảng 10% do người dân lo ngại dịch bệnh kèm theo thời tiết không thuận lợi, nên không dám thả nuôi”, ông Lực nói.

Cơ quan chuyên môn khuyến cáo người nuôi tiếp tục thả nuôi, doanh nghiệp, người dân tối ưu hóa chuỗi sản xuất để giảm giá thành sản phẩm; áp dụng quy trình công nghệ nuôi tôm an toàn để có nguồn nguyên liệu chất lượng cao, truy xuất nguồn gốc phục vụ cho chế biến.

Đối với tôm nuôi đến kì thu hoạch cần hỗ trợ người dân kết nối với doanh nghiệp chế biến để tiêu thụ sản phẩm. Đối với các cơ sở đang nuôi với mật độ dày, tôm cỡ nhỏ cần san thưa để chăm sóc tốt, hạn chế rủi ro, giảm thiểu chi phí sản xuất…

Bộ Công Thương cho biết các công ty kinh doanh tôm hàng đầu Việt Nam lo ngại có thể xảy ra tình trạng thiếu tôm nguyên liệu trong nửa cuối năm 2020 do người dân trì hoãn việc thả giống vì lo sợ đại dịch COVID-19 ảnh hưởng tới xuất khẩu.

Tại Sóc Trăng, tỉnh có năng suất nuôi tôm cao nhất Việt Nam, tính đến nay thả giống được 6.000 ha, chỉ chiếm 24% tổng diện tích 25.000 ha.

Giá tôm sẽ dần cải thiện do cung giảm hơn cầu

Ông Lực cho rằng kịch bản giá tôm năm 2020 sẽ vẫn tốt do nguồn cung sụt giảm mạnh hơn nhu cầu.

Sau một thời gian sụt giảm do ảnh hưởng từ dịch COVID-19, từ đầu tháng 4/2020, giá tôm nguyên liệu tại ĐBSCL đang dần tăng trở lại. Việc giá tôm nhích lên mở ra kỳ vọng thuận lợi cho sản xuất vụ tôm mới.

Theo số liệu từ VASEP, cuối tháng 4, giá tôm chân trắng loại 100 con/kg có giá từ 95.000 – 100.000 đồng, so với cách đây 3 tháng, tăng từ 15.000 – 20.000 đồng/kg. Tôm sú cỡ 30 con/kg có giá từ 200.000 – 230.000 đồng, tăng 30.000 – 40.000 đồng/kg.

Giá tôm chân trắng tại Bạc Liêu hiện tăng hơn trước 20.000 đồng/kg (đối với loại nhỏ). Cụ thể, tôm chân trắng loại 100 con/kg có giá 90.000 đồng/kg đối với nuôi ao lót bạt; tôm nuôi ao đất giá từ 80.000 – 85.000 đồng/kg.

Các loại tôm chân trắng cỡ lớn tăng nhẹ so với trước: loại 70 con/kg có giá 110.000 đồng/kg; loại 50 con/kg có giá từ 120.000 – 125.000 đồng/kg.

Theo VASEP, thời gian của vụ tôm nước lợ năm 2020 vẫn còn dài, những dấu hiệu thuận lợi cũng bắt đầu xuất hiện ngày một rõ ràng hơn như nhu cầu tiêu thụ tôm thế giới vẫn có.

Nguyên nhân là tôm là thực phẩm thiết yếu, việc kiểm soát dịch COVID-19 ở Trung Quốc, Hàn Quốc đang có chiều hướng tốt hơn sẽ có thêm hi vọng cho người nuôi và nhà máy chế biến khi đầu ra phần nào được tháo gỡ.

Tăng tốc để tận dụng cơ hội

Nhìn vào khía cạnh tích cực hơn, việc nguồn cung tôm giảm sẽ tác động tốt đối với giá tôm trong thời gian tới, nhất là sau khi dịch COVID-19 được kiểm soát.

Tại hội nghị đối thoại giữa Thủ tướng và doanh nghiệp diễn ra cuối tuần trước, ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư kí VASEP kì vọng xuất khẩu tôm năm nay đạt 3,8 tỉ tăng 15% so với 2019 để bù đắp phần sụt giảm của cá tra chỉ có thể đạt 1,6 tỉ USD

Ông Hòe kiến nghị đẩy mạnh tuyên truyền, triển khai hỗ trợ tối đa cho người nông dân nuôi tôm để thực hiện ngay từ tháng 5 thả lại tôm bắt kịp tháng 7,8 khi thị trường và thị trường thế giới phục hồi, tăng tiêu thụ trong khi một số nước cạnh tranh chưa quay lại sản xuất bình thường.

Trên thực tế, một số thị trường lớn nhập khẩu tôm Việt Nam cho thấy những tín hiệu tích cực theo.

Chẳng hạn như Mỹ – thị trường đứng thứ 2 về nhập khẩu tôm Việt Nam, chiếm tỉ trọng 18,4% tổng giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam. Quí I/2020, xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường Mỹ đạt 115,5 triệu USD, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm 2019.

VASEP cho biết trong khi nguồn cung tôm từ Ấn Độ, Ecuador và Thái Lan đang giảm sút do lệnh phong tỏa quốc gia, khách hàng Mỹ quay sang mua tôm Việt Nam.

Nhằm tận dụng cơ hội thời gian tới, sau khi thế giới đã kiểm soát được dịch bệnh và nguồn cung thế giới bị thiếu hụt, ông Lực cho biết bản thân Sao Ta cũng đang cố gắng tăng diện tích nuôi để cố gắng chủ động nguồn nguyên liệu.

“Doanh số bán hàng các tháng có thể trồi sụt so với năm ngoái nhưng tính chung năm 2020, tôi kì vọng doanh số của Sao Ta ít nhất bằng hoặc cao hơn năm ngoái”, ông Lực nói.

Trong báo cáo thường niên được công bố mới đây, Sao Ta đặt mục tiêu doanh thu tiêu thụ năm 2020 đạt 176 triệu USD, tăng 10% so với thực hiện năm 2019; lợi nhận trước thuế tăng 5%, ước khoảng 240 – 250 tỉ đồng.

Trong quí I, lũy kế ba tháng đầu năm, lãi trước thuế và lãi sau thuế của Sao Ta lần lượt đạt 41 tỉ đồng và 40 tỉ đồng, tương đương so với cùng kì năm trước.

Nguồn: Kinh tế & Tiêu dùng

Giải pháp giảm chất thải ao nuôi tôm

TTCT (Litopenaeus vannamei) được nuôi phổ biến ở Việt Nam; nhưng với hình thức nuôi thâm canh và siêu thâm canh mật độ cao như hiện nay đã tạo ra lượng chất thải lớn gây ô nhiễm môi trường. Do đó, việc giảm lượng chất thải, và xử lý chất thải còn lại ở cuối vụ nuôi là vấn đề cần được quan tâm.

Chất thải chính phát sinh trong nuôi tôm

Nuôi tôm thâm canh thường phát sinh các loại chất thải như nước thải, bùn thải, chất thải rắn trên bờ. Lượng phát thải thường phụ thuộc vào mức độ thâm canh, quy trình công nghệ áp dụng và khả năng quản lý ao nuôi của người nuôi. Đặc điểm kỹ thuật và chất thải từ một số công nghệ nuôi tôm thâm canh điển hình tại Việt Nam được tóm tắt như sau.

Các giải pháp chính nhằm giảm chất thải

Sử dụng cá rô phi

Sử dụng cá rô phi để xử lý chất thải hữu cơ trong ao nuôi tôm là giải pháp phù hợp cho các hộ nuôi tôm thâm canh có trên 2 ao. Trong hệ thống nuôi, sử dụng 1 ao nuôi tôm, dùng chế phẩm sinh học để thay thế hóa chất trong xử lý chất hữu cơ và khí độc dưới đáy ao; một ao nuôi rô phi để xử lý nước thải từ ao nuôi tôm chuyển sang, nước sau khi cá rô phi xử lý được cấp ngược trở lại ao nuôi tôm.

Sử dụng chế phẩm sinh học

Hiện nay các hộ nuôi tôm đã sử dụng nhiều loại chế phẩm sinh học khác nhau để xử lý nước và xử lý bùn đáy ao nuôi. Chế phẩm sinh học đã góp phần rất lớn vào việc xử lý chất thải hữu cơ trong ao nuôi tôm, đồng thời hỗ trợ cho tôm tiêu hóa tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn.

Loại bỏ chất thải giúp giảm rủi ro và nâng cao năng suất cho vụ nuôi Ảnh: CTV

Ao nuôi lót bạt sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý chất thải cho bùn thải tốt, chủ yếu chất thải gồm phân tôm, vỏ tôm lột xác, xác tảo, có một phần nhỏ (dưới 2%) dư lượng hóa chất (vôi, dolomite) xử lý môi trường, không lẫn đất từ bờ và đáy ao. Hình thức nuôi tôm trong ao đất sử dụng chế phẩm sinh học có diện tích nuôi khoảng 27.461 ha, lượng bùn thải khoảng 290.991 tấn/năm (chiếm khoảng 29%). Bùn thải có dư lượng hóa chất xử lý đáy ao nuôi và chất thải từ nuôi tôm như phân tôm, vỏ tôm lột xác, xác tảo (chiếm 15 – 20%) và lẫn với đất từ bờ và đáy ao (chiếm khoảng 80 – 85%)

Quản lý chất lượng thức ăn và tỷ lệ cho ăn

Thức ăn chiếm gần 80% giá thành nuôi tôm, nên đây là giải pháp được nghiên cứu nhiều nhất cả trong và ngoài nước. Việc kiểm soát thức ăn trong NTTS nhằm tránh lãng phí, giúp thủy sản phát triển nhanh và giảm ô nhiễm môi trường.

Kiểm soát sử dụng hóa chất và kháng sinh

Hiện nay, hình thức nuôi tôm trong ao đất có sử dụng hóa chất và kháng sinh là chính có diện tích nuôi khoảng 52.081 ha tạo ra lượng bùn thải khoảng 551.880 tấn/năm (chiếm khoảng 55%). Bùn thải chứa hóa chất xử lý đáy ao nuôi, dư lượng kháng sinh trị bệnh và chất thải từ nuôi tôm như phân tôm, vỏ tôm lột xác, xác tảo và lẫn với đất lở từ bờ và đáy ao, chiếm khoảng 80 – 85%.

Các cơ sở nuôi tôm ở Việt Nam hiện đã ý thức được việc giảm dần sử dụng hóa chất để xử lý môi trường, cải tạo ao nuôi và hạn chế việc sử dụng kháng sinh trị bệnh. Mặc dù người nuôi đã biết các kỹ thuật để giảm dư lượng kháng sinh trong tôm, ví dụ ngừng sử dụng hóa chất, kháng sinh vài tuần trước khi thu hoạch, để giảm nguy cơ ATTP; nhưng hóa chất và kháng sinh tồn tại trong nước và bùn thải sẽ tạo ra vi khuẩn kháng kháng sinh trong môi trường. Do vậy, lựa chọn các hình thức nuôi và công nghệ nuôi giúp người nuôi từ bỏ thói quen sử dụng hóa chất, kháng sinh là rất quan trọng.

Ứng dụng công nghệ nuôi

Nuôi tôm siêu thâm canh, ít thay nước đã được nuôi thành công tại Việt Nam trong khoảng 5 năm gần đây; tuy nhiên, đến nay diện tích nuôi theo hình thức này còn thấp (khoảng 1% diện tích nuôi tôm của cả nước). Khối lượng bùn thải khoảng 6.021 tấn/năm (chiếm khoảng dưới 1%). Bản chất của nuôi tôm siêu thâm canh, ít thay nước là bổ sung vào nước ao nuôi một lượng carbon (thông thường là mật rỉ đường hoặc bột mỳ) để tổng lượng carbon/nitơ trong nước nuôi đạt tỷ lệ từ 12/1 trở lên (thức ăn cho tôm chỉ đạt tỷ lệ C/N giao động trong khoảng 9/1), khi có tỷ lệ C/N >12/1 sẽ là điều kiện tốt cho nhóm vi khuẩn có chức năng chuyển hóa các chất gốc nitơ thành protein và gom các chất lơ lửng trong nước (tảo, hữu cơ, vi khuẩn, động vật phù du …) thành viên làm thức ăn cho tôm, qua đó giảm chất thải trong ao nuôi tôm. Chất lượng bùn thải từ hình thức nuôi này tốt. Chất thải chủ yếu gồm phân tôm, vỏ tôm lột xác, xác tảo, có một phần nhỏ (dưới 1%) dư lượng hóa chất (vôi, khoáng) xử lý môi trường trong quá trình nuôi chiếm 100%; không lẫn đất từ bờ và đáy ao. Nuôi tôm theo công nghệ siêu thâm canh, ít thay nước là giải pháp giảm khối lượng bùn và nâng cao chất lượng bùn tốt nhất so với các công nghệ nuôi hiện nay.

>> Chất thải sinh ra trong quá trình nuôi là yếu tố quan trọng cần được xem xét và xử lý đúng kỹ thuật, đặc biệt là trong nuôi tôm thâm canh; vì vậy cần một chiến lược quản lý chất thải có hệ thống trong đó bao gồm xử lý, xả bỏ và tái chế nhằm quản lý nuôi tôm bền vững.

Nguyễn Hà – http://www.thuysanvietnam.com.vn/

Tảo tươi hay tảo bột thì tốt hơn cho tôm giống?

tảo cho tôm giống
Tảo tươi hay tảo bột?

Ấu trùng tôm sú tiêu thụ vi tảo tươi hay tảo bột nhiều thì sẽ “lớn nhanh như thổi” và đẩy lùi được dịch bệnh?

Tôm sú là một trong những loài nuôi chính ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, cũng như những loài thủy sản khác, tôm sú cũng phải gồng mình chống lại những bất lợi do dịch bệnh, thời tiết và nguồn cung giống khó khăn mang lại. Tôm giống là mắc xích đầu tiên cũng như quan trọng nhất trong hệ thống nuôi tôm sú, con giống rất nhạy cảm với những thay đổi dù là nhỏ nhất trong môi trường nước. Từ lâu các trại giống đã biết sử dụng bột tảo hay tảo tươi với chi phí thấp để góp phần thúc đẩy tăng trưởng và khả năng kháng bệnh của ấu trùng tôm. Mặc dù hiệu quả của tảo là không thể chối cãi nhưng chúng cũng có thể gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng môi trường nước.

Tảo cùng với sinh vật phù du là nguồn thức ăn ban đầu quý giá cho ấu trùng tôm. Trong đó, vi tảo tươi là một nguồn thức ăn bền vững, cung cấp rất nhiều dinh dưỡng. Ấu trùng tôm có sử dụng tảo cho thấy rõ sự tăng trưởng vượt trội, cải thiện cường độ tiêu hóa, các cơ chế miễn dịch bảo vệ cơ thể cũng được tăng cường ngay cả khi tôm ở những giai đoạn nhỏ nhất.

Một số loài tảo tươi được tôm ưa chuộng hiện nay là Chaetoceros với kích thước nhỏ, vừa cỡ miệng ấu trùng, thúc đẩy tăng trưởng cao, cải thiện tỷ lệ sống sót một cách vượt trội, thành phần dinh dưỡng cao, và dễ nuôi cấy. Thalassiosira, một loài tảo khác chứa hàm lượng dinh dưỡng cao hơn. Ở dạng bột, tảo Spirulina có hàm lượng protein dồi dào đang được sử dụng nhiều nhất trong các trại giống. Nhưng tảo bột không thể thay thế hoàn toàn cho tảo tươi, do vắng mặt các vi sinh vật có lợi. Vi tảo cho tôm giống chứa một lượng vi khuẩn rất lớn, nhưng chưa có báo cáo nào đánh giá mức độ ảnh hưởng của chúng đến ấu trùng tôm. Do vậy nghiên cứu này phân tích sự phong phú cũng như các mặt lợi và hại của các chủng vi khuẩn đối với ấu trùng tôm sú giống, hơn nửa là với môi trường mà tôm đang sinh sống.

Tôm sú giống có cùng kích thước được thu tại một trại giống ở Trung Quốc. Dùng cho nghiên cứu này là hai loài tảo tươi Chaetoceros muelleri và Thalassiosira weissflogii được nuôi cấy tại phòng thí nghiệm cùng với bột tảo Spirulina. Chia số ấu trùng thành 3 nhóm bằng nhau, mỗi nhóm tương ứng với mỗi loài tảo khác nhau. Kí hiệu lần lượt là A (tảo Chaetoceros muelleri), B (tảo Thalassiosira weissflogii) và C (bột tảo Spirulina). Và đương nhiên để kiểm tra sự khác biệt về tác dụng của tảo với tôm thì các chỉ tiêu chất lượng nước và sự chăm sóc hằng ngày với các nhóm là như nhau. Cho ăn tảo kết hợp thức ăn nhân tạo cho ấu trùng từ giai đoạn Zoea đến giai đoạn Postlarvae rồi bắt đầu đánh giá kết quả. Khi tôm tăng lên một giai đoạn đều lấy mẫu nước để kiểm tra các chỉ tiêu và các chủng vi khuẩn có mặt, lấy mẫu tôm để đánh giá sự tỷ lệ tăng trưởng và biến thái hình dạng qua các giai đoạn của ấu trùng. Xét nghiệm DNA và phân tích thống kê để có được kết quả cuối cùng.

Kết quả phân tích chất lượng nước cho thấy nồng độ NH3 ở nhóm C trong giai đoạn PL là cao nhất . Trong khi đó nồng độ NO2 lại cao nhất ở nhóm C khi tôm ở giai đoạn Mysis. Và mật độ Vibrio ở nhóm A trong giai đoạn PL là phong phú nhất theo đánh giá. Tỷ lệ biến thái hình dạng, tỷ lệ sống của ấu trùng và hoạt động của các enzyme tiêu hóa ở nhóm A và B cao đáng kể hơn nhóm C ở tất cả các giai đoạn. Sự đa dạng của các chủng vi khuẩn giảm dần từ giai đoạn Zoea đến PL, nhóm C lại có mật độ thấp hơn nhiều so với nhóm A và B.

Hệ vi khuẩn đường ruột rất quan trọng đối với sức khỏe, các quá trình trao đổi chất và khả năng kích hoạt hệ thống miễn dịch của tôm. Việc cho ăn sẽ làm cấu trúc của hệ thống này thay đổi, từ đó tác động trực tiếp đến sức khỏe của tôm. Khi cho ăn có bổ sung tảo tươi cho thấy tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của ấu trùng cũng cao hơn hẳn so với khi chỉ cho ăn bột tảo. Do tảo tươi đã làm thay đổi hệ vi sinh vật trong ấu trùng. Còn với bột tảo Spirulina, tỷ lệ sống bắt đầu giảm khi ấu trùng chỉ mới đến giai đoạn Zoea. Hơn nửa là tỷ lệ vi khuẩn trong đường ruột cũng giảm đi rất nhiều, nên khả năng tiêu hóa và chức năng miễn dịch của ấu trùng cũng trở nên suy giảm nghiêm trọng.

Microbacteriaceae, Pseudoalteromonas, Rhodobacteraceae là những loài vi khuẩn phổ biến nhất trên cấu trúc của cả 3 nhóm tảo. Và đã được chứng minh là có lợi cho sự tăng trưởng và phát triển của tôm sú, kích thích hoạt động của các enzyme tiêu hóa trong đường ruột, và cạnh tranh tiêu diệt những vi khuẩn có hại gây bệnh cho tôm.

Vi tảo tươi ngoài tác dụng thúc đẩy tăng trưởng, tăng tỷ lệ sống cho tôm còn được sử dụng như Prebiotic tiềm năng để thúc đẩy sự điều hòa của hệ vi sinh vật đường ruột. Trong khi bột tảo trong quá trình sản xuất đã bị phá hủy thành tế bào nên mất đi tính chất hòa tan trong nước và trở nên nghèo dinh dưỡng hơn rất nhiều so với tảo tươi. Đáng chú ý là do sự thích nghi dần từ chế độ ăn thực vật sang động vật nên hoạt động của các enzyme tiêu hóa ngày càng thấp dần, có thể giải thích là vì không phải tiêu thụ quá nhiều năng lượng để đồng hóa thức ăn nữa. Vi tảo tươi còn được chứng minh là có thể làm sạch nước và ức chế vi khuẩn có hại trong môi trường.

Đối với hầu hết các động vật thủy sản, vi khuẩn bổ sung theo đường tiêu hóa và bên ngoài môi trường đều ảnh hưởng có lợi hoặc có hại đến cấu trúc vi sinh vật trong cơ thể vật chủ. Ở những giai đoạn khác nhau thì ưu thế cũng thuộc về những loài vi khuẩn khác nhau. Tôm sú giai đoạn ấu trùng, Photobacterium chiếm ưu thế, trong khi Vibrio là chủ yếu khi tôm một tháng tuổi trở lên và tỷ lệ Vibrio này này ngày càng tăng theo tuổi của tôm. Ngoài ra ở những môi trường khác nhau thì cấu trúc của cộng đồng vi sinh vật này cũng khác nhau.

Tóm lại nghiên cứu này đã chỉ ra được rằng hai loại tảo T. weissflogii và C. muelleri cải thiện đáng kể tỷ lệ sống và tỷ lệ biến thái hình dạng của ấu trùng. Ngoài ra còn kích thích hoạt động của các enzyme tiêu hóa và sự đa dạng của cộng đồng vi sinh vật trên cơ thể tôm sú. NH3 và NO2 cũng giảm độ độc đáng kể khi cho ấu trùng ăn tảo tươi, do đó có thể kết luận hai loại tảo này rất thích hợp cho hệ thống ương nuôi ấu trùng tôm sú. Việc cho ăn các loại tảo khác nhau có thể ảnh hưởng đến sự thay đổi cộng đồng vi sinh vật ở ấu trùng, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển và tình trạng sức khỏe của ấu trùng tôm sú.

Hà Tử – https://tepbac.com/

Tôm nguyên liệu chỉ đáp ứng tối đa 70% cho nhu cầu chế biến, xuất khẩu

Chế biến tôm
Dự báo nhiều nhà máy chế biến tôm sẽ thiếu hụt nguyên liệu.

Theo ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Vasep, nguồn cung tôm nguyên liệu đang bị sụt giảm trên cả 3 mặt: nuôi trồng, đánh bắt, nhập khẩu.

Nguyên nhân là do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 việc khai thác biển, nhập khẩu bổ sung tôm nguyên liệu rất khó khăn. Bên cạnh đó do xuất khẩu bị hạn chế, giá tôm giảm cộng thêm tình hình hạn, mặn, nắng nóng kéo dài nên người nuôi tôm chậm thả nuôi vụ mới; nguồn tôm giống đạt chất lượng cũng hạn chế khiến năng suất nuôi chưa cao.

Với những khó khăn đó, theo dự báo của Vasep trong nửa cuối năm nguồn cung tôm nguyên liệu sẽ rất hạn chế chỉ đáp ứng được tối đa từ 50-70% nhu cầu chế biến xuất khẩu và tiêu thụ nội địa.

Còn theo báo cáo của Cục Thú y-Bộ NN&PTNT, tình hình dịch bệnh trên tôm cũng đang ở mức đáng lo ngại, trong 4 tháng đầu năm đã có 25.252ha nuôi tôm tại 19 tỉnh, thành bị thiệt hại, tăng 3,86 lần so với cùng kỳ. Trong đó có đến hơn 23.000ha thiệt hại không rỏ nguyên nhân, 1.579ha thiệt hại do bệnh, 638ha bị thiệt hại do biết động thời tiết.

Theo Tổng cục Thủy sản: diện tích thả nuôi tôm đến thời điểm hiện tại đạt hơn 481.000ha bằng 71% kế hoạch năm.

Tuy nhiên, theo ngành chức năng thì việc thả giống chậm lại của người nuôi trong những tháng đầu năm là hợp lý để hạn chế thấp nhất rủi ro, nhưng điều này sẽ gây thiếu hụt nguyên liệu cho các nhà máy trong khoảng 1 – 2 tháng tới.

Qua cân đối cung cầu thị trường tôm nguyên liệu theo nhận định của ông Hồ Quốc Lực-Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta: cho dù dịch bệnh COVID-19 trên thế giới có kéo dài hơn dự kiến thì giá tôm vẫn khá ổn, nếu có giảm cũng sẽ không nhiều, nhưng xu hướng tăng vẫn được đánh giá là nhiều khả năng hơn, bởi vì trong điều kiện khó khăn như hiện nay nguồn cung tôm xuất khẩu sẽ rất hạn chế, giá tăng là hợp lý.

Năm 2020, ngành nông nghiệp đặt mục tiêu thả nuôi 730.000ha tôm, sản lượng dự kiến đạt 830.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 3,5 tỷ USD, tăng 2-3% so với năm 2019.

Ninh Thới Enternews