Bạn tìm thông tin gì?

Blog

Đa dạng đối tượng nuôi ghép trong ao tôm

Tôm thẻ chân trắng
Tôm thẻ chân trắng

Những mô hình nuôi ghép là hướng đi phù hợp cho người nuôi tôm, giúp kiểm soát môi trường ao nuôi và mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Trong quá trình nuôi tôm, bà con luôn gặp phải vấn đề lớn nhất chính là kiểm soát và  quản lí môi trường nước trong ao nuôi. Thức ăn thừa, mùn bã hữu cơ là nguồn dinh dưỡng dồi dào khiến cho rong tảo trong ao nuôi phát triển nhanh chóng, chúng “tranh giành” oxy với tôm, đạt cực đại và xảy ra hiện tượng tảo tàn trong ao nuôi tôm. Đó là những vấn đề gây biến động trong ao nuôi, gây thiệt hại lớn đến hiệu quả kinh tế vụ nuôi.

Trước tình hình trên, các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm nuôi ghép các đối tượng khác như cá đối mục, cá rô phi, cá dìa, cua biển,.. với tôm sú hay tôm thẻ để tăng hiệu quả làm sạch môi trường nuôi, hạn chế dịch bệnh, giảm chi phí đầu tư, đồng thời tăng hiệu quả sản xuất.

Đặc điểm chung của các loài này là loài cá ăn tạp, thức ăn chủ yếu là mùn bã hữu cơ, là đối tượng được sử dụng nhằm mục đích tận dụng thức ăn thừa, các chất dinh dưỡng từ chất thải của tôm và rong tảo trong ao nuôi. Hầu hết các đối tượng nuôi ghép đều là loài rộng muối, rộng nhiệt, có thể sống trong môi trường nước mặn và cả nước lợ (độ mặn từ 3-35‰), tùy từng đối tượng. Hình thức nuôi xen kẽ nhiều đối tượng có thể hạn chế rủi ro trong nuôi trồng, giúp ổn định kinh tế cho người dân địa phương.

Năm 2019, Trung tâm khuyến nông tỉnh Khánh Hòa đã triển khai đề tài khoa học cấp cơ sở “Nuôi kết hợp tôm sú với cá đối mục” tại Trại Thực Nghiệm nuôi trồng thủy sản Ninh Lộc, xã Ninh Lộc, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Thực nghiệm thả nuôi 20.000 con tôm sú với mật độ 10con/m2 và 1000 con cá đối mục với mật độ 0,5con/m2. Đề tài được thực hiện trong 2 ao đất với diện tích mỗi ao gần 2000m2. Trước khi thả giống tôm, ao nuôi đã được cải tạo kỹ lưỡng gồm các khâu như: tháo cạn nước, rải vôi bột, bừa kỹ cho vôi ngấm vào đáy ao, phơi đáy ao. Sau đó, tiến hành lấy nước vào ao khi thủy triều lên cao, rồi diệt tạp, gây màu nước và đo các yếu tố môi trường nằm trong ngưỡng thích hợp thì tiến hành thả giống tôm. Cá đối mục được thả vào ao sau 15 ngày thả tôm. Sau 5 tháng thu hoạch cho năng suất tôm trung bình đạt 1,6tấn/ha, năng suất cá trung bình đạt 1,7tấn/ha. Tổng kết quá trình triển khai cho thấy rằng, môi trường ao nuôi ổn định hơn, năng suất tôm, cá cao hơn so với nuôi đơn 1 đối tượng.

Nhiều mô hình nuôi ghép khác giữa tôm sú và cua biển cho thấy tỉ lệ sống của tôm sú đạt từ 50-60%, còn cua biển đạt từ 50-70%. Mô hình này có chi phí đầu tư ít, tỉ lệ rủi ro và dịch bệnh thấp, giúp người nông dân sản xuất bền vững hơn. Mật độ nuôi của tôm và cua biển lần lượt là 12-15con/m2 và 1-1,5con/m2. Cua càng lớn thì mật độ thả càng thấp. Điều quan ngại của bà con khi áp dụng mô hình này là “sự ăn nhau” trong quá trình lột xác của hai loài này. Điều này là không tránh khỏi. Tuy nhiên, bà con có thể chú ý thời điểm thả cua thích hợp (thường sau khi thả tôm từ 1-2 tuần) có thể hạn chế hiện tượng ăn nhau giữ hai loài. Sau khi áp dụng nuôi thử nghiệm đã cho thấy kết quả thành công ngoài mong đợi.

Hầu hết những loài được nuôi ghép với tôm đều có giá trị kinh tế ổn định. Các loài nuôi ghép có thể thả nuôi luân canh hoặc xen canh. Nguyên tắc lựa chọn đối  tượng nuôi ghép của mô hình này là dựa vào tập tính ăn và tập tính sống của các loài này. Cần phải lựa chọn loài nuôi ghép thích hợp với điều kiện ao nuôi, không cạnh tranh với loài nuôi chính. Mục đích của việc nuôi ghép là để tận dụng triệt để không gian sống và lượng thức ăn dư thừa trong ao nuôi tôm, nhằm tạo ra thêm nguồn lợi kinh tế cho người nuôi.

Đứng trước những khó khăn của ngành thủy sản nhất là về sự biến đổi khi hậu bất thường như hiện nay, tình hình dịch bệnh trong các ao nuôi thủy sản ngày càng khó kiểm soát hơn, đòi hỏi người nuôi phải tìm ra các giải pháp nhằm khai thác, sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo cân bằng hệ sinh thái đồng thời tận dụng được tối đa các sản phẩm trong chuỗi nuôi trồng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. Mô hình nuôi ghép đang là một trong những hướng đi bền vững cho nghề nuôi tôm hiện nay.

Tường Vi – https://tepbac.com/

Câu chuyện tôm hùm giống Indonesia: Tiếng thở dài giữa bảo tồn và kinh tế

Tôm hùm giống
Hậu ấu trùng không sắc tố thuộc giống tôm hùm Puerulus vừa được Indonesia cho phép xuất khẩu.

Sau 4 năm cấm xuất khẩu tôm hùm giống ra nhằm bảo tồn và duy trì nòi giống tôm hùm tự nhiên, Indonesia đã cho phép xuất khẩu trở lại. Quyết định này gây ra tranh cãi dữ dội, một cuộc chiến điển hình giữa bảo tồn giống loài và lợi ích kinh tế.

Năm 2016 cựu Bộ trưởng Thủy sản Susi Pudjiastuti đã ban lành lệnh cấm xuất khẩu giống tôm hùm nhằm bảo vệ sản lượng tự nhiên. Sau bốn năm ngày 04/05/2020, Bộ trưởng Edhy Prabowo đã kí sắc lệnh cho phép xuất khẩu trở lại tôm hùm giống (loại tôm hậu ấu trùng không sắc tố) thuộc giống Puerulus và Panulirus.

Quyết định này đã gây tranh cãi rộng rãi từ các nhà bảo tồn cho đến cựu Bộ trưởng Thủy sản – Susi Pudjiastuti. Việc cho phép xuất khẩu trở lại sẽ đe dọa xóa sổ quần thể tôm hùm tự nhiên của đất nước. Các chuyên gia cũng kêu gọi Chính phủ thay vì xuất khẩu hãy ưu tiên phát triển bền vững ngành tôm hùm trong nước cả nuôi quy mô nhỏ và đánh bắt truyền thống.

Edhy muốn khôi phục lại kế sinh nhai cho người dân sống phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu đồng thời ông cho biết, lệnh cấm trước đây hoàn toàn thất bại trong việc ngăn chặn thị trường chợ đen buôn bán trái phép tôm hùm giống.

Vào giữa tháng 1 đến tháng 10, 2016. Các nhà chức trách đã báo cáo rằng các vụ buôn lậu liên quan đến 800.000 ấu trùng tôm hùm trị giá 8.3 triệu đô đã được bán đến Việt Nam, Singapore và Trung Quốc, những quốc gia tập trung nuôi và có giá bán khá cao.

Các chuyên gia đã chỉ trích gay gắt về quyết định này. Họ cho rằng quyết định thiếu sự kiểm soát và sự rằng buộc của luật pháp đối với chuỗi xuất khẩu, cùng với cơ sở hạ tầng không đủ điều kiện để đáp ứng phát triển nuôi trồng thủy sản tôm hùm trong nước sẽ dẫn đến sự cạn kiệt nguồn tôm hùm giống tự nhiên.

Một vấn đề chính được đề cập trong tranh luận này chính là về tỉ lệ sống. Theo Bộ Thủy sản thì tỉ lệ sống của tôm hùm giống chưa tới 1% và việc đánh bắt, xuất khẩu chúng sẽ giúp nâng được tỉ lệ này lên cao hơn. Một số ý kiến khác lại cho rằng, hãy giữ tôm hùm trong tự nhiên, điều đó mới là cách giúp ngăn chặn sự tuyệt chủng tốt nhất. Có thể quyết định này được đưa ra bởi ảnh hưởng của sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, những người đang có nhu cầu về tôm hùm giống rất lớn.

Để giải quyết những mối lo trên, Bộ Thủy sản đã đưa ra một số điều kiện trong xuất khẩu như thiết lập hạn ngạch xuất khẩu và hạn chế khu vực đánh bắt tôm hùm giống. Yêu cầu của Bộ không được thu hoạch tôm hùm giống khi có kích thước của chúng phải nhỏ hơn 8cm và trọng lượng không quá 200g.

Các công ty xuất khẩu được yêu cầu phải phát triển cơ sở hạ tầng để nuôi tôm hùm con và phải phóng thích 2% lượng tôm nuôi về với tự nhiên thì mới được phép xuất khẩu chúng bằng đường hàng không.

Bên cạnh các yêu cầu mới trong sắc lệnh và các tranh cãi về kinh tế. Các chuyên gia cũng chỉ ra rằng việc cho xuất khẩu lại sẽ làm người dân quên đi nghĩa vụ bảo tồn tôm hùm giống trong tự nhiên, đồng thời sự xuất khẩu cũng chẳng đóng góp gì vào sự phát triển của kinh tế miễn là thị trường chợ đen vẫn còn tồn tại.

“Nghị định mới sẽ thay đổi từ mục đích bảo tồn sang phát triển xuất khẩu và nuôi tôm. Từ đầu sắc lệnh này đã thất bại vì cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi tôm khá hạn hẹp, chúng ta chỉ có thể kết hợp với người dân nuôi trồng quy mô nhỏ và ngư dân, vừa giải quyết vấn đề cơ sở hạ tầng vừa tăng tạo việc làm cho bà con lao động”, Dani Setiawan giám đốc điều hành Hiệp hội đánh bắt cá truyền thống của Indosian cho biết.

Bờ biển phía Bắc của các đảo Java và Lombok là trái tim sản xuất tôm hùm lớn nhất cả nước. Và chiếm 90% lượng tôm đánh bắt ngoài tự nhiên. Tôm hùm sau đánh bắt sẽ được nuôi trên các lồng nổi và cam kết cung cấp đúng giá.

Và một trở ngại lớn khác trong hiệu quả kinh tế về nuôi trồng tôm hùm chính là tỉ lệ tử vong khá cao, hơn 50% trong giai đoạn ươm giống. Điều này được báo cáo rộng rãi ở Indonesia và Việt Nam.

Theo Dani, những nông hộ nuôi tôm hùm họ có nhiều tiềm năng và kĩ thuật để ngành công nghiệp nuôi trồng loài giáp xác này phát triển toàn diện nhât. Tuy nhiên, họ lại thiếu nguồn lực về tài chính và khả năng tiếp cận với thị trường trong nước cũng như quốc tế. Đây chính là cơ hội để chính phủ sử dụng ấu trùng tôm hùm một cách hiệu quả cả trong nước và xuất khẩu.

Riêng các nhà bảo tồn cho rằng nên ưu tiên phát triển kinh tế bền vững với môi trường. Với những gì chúng ta đang làm, chỉ có các doanh nghiệp lớn là có lợi lớn nhất trong vấn đề này.

Liệu chúng ta sẽ đồng tình với ý kiến nào, mặc dù đất nước chúng ta không hạn chế người dân đánh bắt thủy hải sản nhưng đánh bắt như thế nào để hiệu quả và bền vững nhất. Từ đó chúng ta sẽ không cần thiết phải tranh cãi với nhau khi có một quyết định được ban ra để hạn chế năng lực con người, đảm bảo môi trường thân thiện,… Vì từ đầu chúng ta đã hợp tác phát triển bền vững, cam kết môi trường xanh.

Triệu – https://tepbac.com/

Quảng Trị: Nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh 3 giai đoạn

tôm giống
Bàn giao tôm giống cho hộ tham gia mô hình.

Trung tâm Khuyến nông tỉnh Quảng Trị vừa chuyển giao mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh 3 giai đoạn theo công nghệ Biofloc.

Mô hình do hộ gia đình ông Phan Thanh Tôn ở thôn Tây Tân An, xã Hải An, huyện Hải Lăng thực hiện.

Thực hiện mô hình Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã tiến hành thả giống tôm thẻ P12 với số lượng 400.000con vào ao ương. Tham gia thực hiện mô hình hộ dân được Trung tâm hỗ trợ ban đầu 50% chi phí giống và 40% chi phí thức ăn công nghiệp cho tôm nuôi.

Hệ thống ao nuôi mô hình tôm thẻ chân trắng thâm canh 3 giai đoạn theo công nghệ Biofloc được thiết kế gồm 3 ao: 01 ao ương giai đoạn 1 với diện tích 200m2 được lót bạt hoàn toàn, bố trí hệ thống oxy, mái che bằng lưới lan; 01 ao nuôi giai đoạn 2 diện tích 1.000m2 và 01 ao nuôi giai đoạn 3 diện tích 2000m2. Ngoài ra, còn có hệ thống ao lắng và ao xử lý nước.

Bên cạnh hỗ trợ nguồn giống, thức ăn Trung tâm Khuyến nông còn chuyển giao khoa học kỹ thuật để hộ dân thả nuôi theo đúng quy trình, đạt hiệu quả. Hình thức nuôi tôm thâm canh 3 giai đoạn là hình thức nuôi mới cho giá trị kinh tế cao và lần đầu tiên được Trung tâm Khuyến nông hỗ trợ chuyển giao mô hình trên địa bàn tỉnh.

Việc triển khai mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh 3 giai đoạn theo công nghệ Biofloc nhằm chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nuôi tôm mới cho bà con nông dân. Thực hiện mô hình sẽ giảm thiểu rủi ro do dịch bệnh trong tháng nuôi đầu tiên, nâng cao kích cỡ tôm nuôi thương phẩm; mở ra hướng đi mới trong phát triển kinh tế cho các hộ dân, nhất là đối với những địa phương có tiềm năng, lợi thế về nuôi trồng thủy hải sản.

Phan Việt Toàn Nông nghiệp Việt Nam

Tạo động lực cho nghề nuôi tôm

nuôi tôm
Mô hình nuôi tôm trên cát ở Quảng Nam

Đối nghịch với nuôi tôm thua lỗ ở vùng triều, nuôi tôm bằng hình thức lót bạt trên cát lại được mùa được giá. Quảng Nam đang quy hoạch và có các giải pháp thiết thực để tạo động lực phát triển nghề nuôi tôm trong thời gian đến.

Hiệu quả cao

Ông Nguyễn Trí Toàn (thôn An Trân, xã Bình Hải, Thăng Bình) nuôi tôm trên cát bằng hình thức lót bạt quanh năm trên 5 ao nuôi có tổng diện tích 5.000m2. Nuôi tôm thâm canh, ông Toàn thả nuôi 15 vạn con giống tôm thẻ chân trắng ở mỗi ao nuôi. Trung bình ở mỗi ao nuôi, ông Toàn thu được 3 tấn tôm thương phẩm, bán được hơn 450 triệu đồng, thu lãi 250 triệu đồng. Mỗi năm, với ít nhất 3 vụ nuôi, ông Toàn có thu nhập khoảng 3 tỷ đồng sau khi trừ chi phí.

“Xác suất thành công của nuôi tôm lót bạt trên cát rất cao vì có thể khống chế được các yếu tố gây bệnh cho tôm. Dù rất nhạy cảm nhưng được chăm sóc tốt, con tôm thẻ chân trắng sinh trưởng rất nhanh, sau chừng 3 tháng nuôi là thu hoạch, bán thương phẩm” – ông Toàn nói.

Quy trình nuôi tôm của ông Toàn là lấy nước biển cho vào ao chứa lắng, dung hòa độ mặn, xử lý sạch rồi cho vào ao nuôi tôm thương phẩm. Tôm giống có chất lượng tốt, ương nuôi kỹ càng sau khi mua về cho đủ lớn rồi mới chuyển qua nuôi thương phẩm. Ông Toàn luôn túc trực chăm sóc tôm và ghi chép cẩn thận để quản lý tốt mọi yếu tố như nguồn nước, độ kiềm, độ pH, nhiệt độ… Thay vì dùng kháng sinh, ông Toàn sử dụng nhiều chuối cây và các yếu tố vi sinh khác để tăng sức đề kháng, miễn dịch bệnh cho tôm nuôi.

Nhận thấy các điều kiện tốt để nuôi tôm thâm canh, Công ty TNHH Đầu tư thủy sản công nghệ cao Nam Mỹ (có 3 địa chỉ ở Bạc Liêu, Ninh Thuận và Quảng Nam) đã kết hợp với ông Nguyễn Xuân Cần nuôi tôm thâm canh bằng hình thức lót bạt trên cát với tổng cộng 26 ao nuôi. Doanh nghiệp này luôn phân công trách nhiệm để đội ngũ chuyên môn giám sát chặt chẽ mọi công đoạn nuôi tôm thẻ chân trắng.

Ông Nguyễn Văn Quang – Giám đốc điều hành Công ty TNHH Đầu tư thủy sản công nghệ cao Nam Mỹ cho biết, không chỉ nuôi tôm thương phẩm để thu lãi mà còn đang đầu tư 3ha để sản xuất giống tôm thẻ chân trắng ở thôn Phương Tân (xã Bình Nam, Thăng Bình) và đang chọn địa điểm để trình diễn mô hình nuôi tôm công nghệ cao.

Doanh nghiệp này đầu tư đồng bộ cho quá trình nuôi tôm công nghệ cao, có 2 ao ương nuôi tôm giống diện tích 1.000m2, ao chứa lắng, ao xử lý nước thải, hệ thống điện, đường giao thông nội bộ khang trang, hệ thống giàn lưới hạn chế nhiệt độ cao ảnh hưởng xấu đến phát triển của tôm nuôi.

“Chúng tôi đã thực hiện thành công mô hình nuôi tôm công nghệ cao. Vấn đề quan trọng là chỉ với 3 tháng nhưng tôm nuôi đạt trọng lượng tốt, cỡ dưới 40 con/kg, thu lãi lớn” – ông Quang nói. Sau mỗi năm đầu tư nuôi tôm trên cát, lãi ròng của công ty đạt hàng chục tỷ đồng.

Chú trọng quy hoạch

Ông Ngô Tấn – Phó Giám đốc Sở NN&PTNT cho rằng, mấu chốt để nuôi tôm thành công ở Quảng Nam là người dân, doanh nghiệp cần thay đổi cách đầu tư. Ở các vùng triều nuôi tôm, với diện tích 3.000ha nhưng do người dân đầu tư theo kiểu ăn xổi, không quản lý chặt môi trường nước nên hiệu quả thấp. Trong khi đó, nuôi tôm trên cát chỉ với 320ha ở vùng đông nhưng sản lượng tôm thương phẩm thu hoạch được mỗi năm lên đến 10 nghìn tấn.

“Nuôi tôm thẻ chân trắng bằng hình thức lót bạt cho năng suất ổn định từ 10 – 15tấn/ha/vụ. Nhiều ao có thể cho năng suất hơn 20 tấn/ha/vụ. So với nuôi tôm ở vùng triều thì nuôi tôm lót bạt trên cát ít rủi ro, ít chịu ảnh hưởng của bão lụt, dễ quản lý dịch bệnh, nguồn nước cấp trong sạch, ổn định độ mặn, xử lý nước thải tốt, có thể phát triển bền vững, bảo vệ môi trường xung quanh” – ông Ngô Tấn nói.

Ngành nông nghiệp đang quy hoạch lại nghề nuôi tôm trên cát, chỉnh trang, sắp xếp lại các vùng nuôi theo hướng tập trung. Việc quan trọng là thu hút tối đa các nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực nuôi tôm. Ngân sách của tỉnh sẽ tăng đầu tư cơ sở hạ tầng cho các vùng nuôi kết hợp với kêu gọi đầu tư từ doanh nghiệp.

Bà Phạm Thị Hoàng Tâm – Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Quảng Nam cho biết, nhiệm vụ quan trọng của ngành là tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực nuôi tôm thương phẩm, sản xuất tôm giống, từng bước đưa các cơ sở nuôi tôm tuân thủ các quy định pháp luật trong lĩnh vực này. Ngành thủy sản đang xây dựng dữ liệu thống kê và dự báo về tình hình sản xuất, thị trường tiêu thụ để hỗ trợ về đầu ra cho người dân, doanh nghiệp đầu tư nuôi tôm.

Việt Nguyễn Báo Quảng Nam

Tôm thẻ và thực vật phù du: Bạn hay thù?

thực vật phù du
Thực vật phù du là mắt xích quan trọng trong ao nuôi thủy sản

Hiểu biết rõ hơn về hệ sinh thái ao nuôi tôm để thiết lập điều chỉnh hợp lý để hướng tới sự ổn định của toàn hệ thống.

Cộng đồng thực vật phù du có mặt trong nhiều môi trường nước khác nhau và ao tôm là một trong những môi trường thuận lợi nhất để chúng tồn tại và phát triển. Được xem là mắt xích quan trọng trong các hệ sinh thái nuôi thủy sản, nhân tố không thể thiếu để duy trì dòng năng lượng và chu kỳ dinh dưỡng. Trong quá trình nuôi, thức ăn dư thừa, phân của tôm và các chất hữu cơ nhờ vi khuẩn sẽ chuyển hóa thành các chất dinh dưỡng. Và những chất dinh dưỡng này sau đó sẽ được những thực vật phù du trong nước sử dụng, giúp chúng tăng sinh. Đổi lại sự tăng trưởng này, những thực vật đó sẽ làm giảm hàm lượng amoniac và nitrat có thể gây ức chế hệ thống miễn dịch của tôm. Các chất hữu cơ do thực vật phù du sinh ra sẽ ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật, tạo điều kiện cho các vi khuẩn có lợi phát triển trong ao. Do đó, thực vật phù du có thể được xem là một nhân tố quản lý môi trường, nhờ vào mật độ của chúng mà đánh giá được mức độ ô nhiễm của nước.

Mỗi loài thực vật phù du khác nhau cũng đòi hỏi những điều kiện dinh dưỡng khác nhau để phát triển khỏe mạnh. Cùng với sự tăng trưởng của tôm nuôi thì các chỉ tiêu chất lượng nước và điều kiện dinh dưỡng trong ao nuôi cũng sẽ thay đổi, điều này làm cho thành phần của cộng đồng thực vật phù du cũng thay đổi theo một cách linh hoạt. Với những lợi ích mang lại như vậy, cho nên cộng đồng phù du này đã góp mặt trong khá nhiều nghiên cứu và mang lại lợi ích rất khả quan. Tuy nhiên về thành phần của cộng đồng này, sự gia tăng sinh khối, sự trao đổi giữa các thành phần trong cộng đồng và khả năng hoạt động của từng thành phần riêng lẻ vẫn chưa được làm rõ.

Tôm thẻ chân trắng, loài nuôi có sản lượng cao nhất trong ngành thủy sản, với những lợi ích mà cộng đồng thực vật phù du mang lại thì người ta bắt đầu nghiên cứu sự phát triển của cộng đồng này trong ao tôm thẻ. Trong đó sẽ khám phá quá trình phát triển của các thành phần trong cộng đồng, mối quan hệ giữa cộng đồng này với môi trường, sự tăng sinh khối của chúng và cuối cùng là tiềm năng phát triển của chúng đối với hiệu suất của tôm.Từ đó bổ sung thêm kiến thức về ý nghĩa của hệ sinh thái đối với các mô hình nuôi trồng thủy sản.

Thông qua việc sử dụng công nghệ để phân tích, người ta thấy rằng cấu trúc của cộng đồng thực vật này sẽ thay đổi theo thời gian, tháng thứ nhất, tháng thứ 2 và tháng thứ 3 của chu kỳ nuôi là hoàn toàn khác biệt nhau. Và sự khác biệt này được giải thích là do có mối tương quan chặt chẽ với những biến đổi của môi trường. Tổng cộng có 85 loài (hoặc chi) đã được xác định trong tất cả các mẫu được phân tích, sinh khối dĩ nhiên cũng tăng lên theo thời gian canh tác, cụ thể ngày thứ 77 so với ngày thứ 7 đã tăng gấp 10 lần. Sự ảnh hưởng của các yếu tố thủy lý hóa trong môi trường lên cấu trúc của cộng đồng thủy sinh này đã được khám phá và cho ra những kết luận hết sức bất ngờ. Ở tháng đầu tiên trong chu kỳ nuôi tôm, tuy mật độ thực vật phù du này còn thấp nhưng thành phần lại phức tạp nhất và có sự cạnh tranh gay gắt với nhau trong cộng đồng. Còn khi tôm đã nuôi đến tháng thứ 3 thì mật độ cộng đồng này lớn, nhưng ổn định và cấu trúc lại tương đối đơn giản.

Thêm một phát hiện nữa là những loài đầu tiên hình thành trong cộng đồng này là những loài tiên phong, có khả năng phản ứng nhanh chóng với các thay đổi bất ngờ của môi trường, chúng cung cấp nhiều “nguyên liệu” xử lý môi trường với áp lực cạnh tranh ít hơn. Một cộng đồng thực vật phù du tốt phải có đầy đủ các “phẩm chất” bao gồm sự đa dạng các loài cao, sinh khối lớn, ít cạnh tranh và những điều này phù hợp nhất với tháng thứ 2 trong chu kỳ nuôi. Tại tháng thứ 2 này, đa dạng nhất trong cộng đồng là tảo khuê, loài tảo có lợi trong ao nuôi. Khi mật độ cộng đồng thực vật phù du này trong ao giảm xuống thì áp lực lại được đặt lên hệ vi sinh vật đường ruột, buộc chúng phải làm việc nhiều hơn, cạnh tranh với những vi khuẩn cơ hội trong ao.

Trên thực tế các chất dinh dưỡng trong những ao nuôi tôm thâm canh rất nhiều thậm chí là quá mức trong suốt quá trình nuôi nên sẽ không trở thành yếu tố cản trở sự phát triển của cộng đồng thực vật phù du được. Cấu trúc của cộng đồng này thay đổi được xác định là do các động vật phù du, vì hai cộng đồng này sẽ cạnh tranh trực tiếp về không gian sống chật hẹp và các “nguyên liệu sống” trong tự nhiên. Tuy nhiên khi cộng đồng thực vật phù du giải phóng “năng lượng” sẽ tạo điều kiện cho động vật phù du phát triển.

Chúng ta đều biết sự phú dưỡng của tảo sẽ làm tôm nuôi giảm tốc độ tăng trưởng hoặc nặng hơn là tử vong. Nguyên nhân chính được giải thích là do phá vỡ sự ổn định của cộng đồng sinh vật, từ đó tạo những “lỗ hổng” cho những loại tảo này phát triển quá mức và bên cạnh đó là không gian kín của ao nuôi làm một loạt các yếu tố môi trường thay đổi cùng lúc sau thời gian dài cuối cùng là sự “bùng nổ” của thực vật. Do đó, sự ổn định của cộng đồng thực vật phù du phải là sự quan tâm hàng đầu trong quá trình nuôi tôm, sự bất ổn của cộng đồng này sẽ gây ra hiện tượng tảo nở hoa và dẫn tới sự phát triển của các mầm bệnh cơ hội cho tôm.

Thú vị hơn là cộng đồng động vật phù du sẽ có nhiều biến động hơn cộng đồng thực vật trong ao. Điều đó có thể là do sự thích nghi tốt của vi khuẩn ở nhiều môi trường khác nhau làm cho chúng  phân tán rộng rãi. Nhưng cộng đồng thực vật phù du lại thể hiện sự mạnh mẽ hơn rất nhiều trước những thay đổi của môi trường. Đã có thêm một sự hiểu biết rõ hơn về hệ sinh thái ao nuôi tôm, từ đó những điều chỉnh hợp lý sẽ được thiết lập hướng tới sự ổn định của toàn hệ thống. Và cung cấp những hướng tiềm năng nhằm mục đích tối ưu hóa và phát triển các chiến lược quản lý những nguồn tài nguyên có sẵn trong ao.

Hà Tử – https://tepbac.com/

Kết hợp chế phẩm sinh học trên tôm càng xanh

Tôm càng xanh.
Tôm càng xanh.

Giới thiệu vai trò toàn diện của Clostridium butyricum và emodin trên tôm càng xanh và cho biết chính xác liều lượng sử dụng để đem lại hiệu quả tối ưu.

Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) là loài giáp xác nước ngọt có kích thước lớn, giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao, được thị trường ưa chuộng. Ở Việt Nam, tôm càng xanh phân bố chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ, đặc biệt là ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và hiện đang được nuôi phổ biến trong ao, mương vườn, đặc biệt là trên ruộng lúa ở vùng ngập lũ thuộc các tỉnh Đồng Tháp, An Giang và Cần Thơ. Tuy nhiên, ở Đồng bằng sông Cửu Long  có nhiều vùng bị nhiễm phèn, pH đất và nước thấp,…ảnh hưởng xấu đến sự phát triển và tỉ lệ sống của tôm càng xanh. Do đó, biện pháp sử dụng chất kích thích miễn dịch như β-glucan, quercetin, MOS (Mannan Oligosaccharide)…và có một phương pháp phổ biến là sử dụng probiotics cho tôm.

Clostridium butyricum là vi khuẩn kỵ khí bắt buộc, gram dương, thường được tìm thấy trong đất và phân và hệ vi khuẩn đường ruột của người và động vật.

So với các chế phẩm sinh học khác như Bacillus, Lactobacillus và nấm men thì C. butyricum có khả năng chịu được môi trường có độ pH, nhiệt độ cao hơn và chịu được nhiều loại kháng sinh. Ngoài ra, C. butyricum cũng có thể sản xuất một số chất chuyển hóa có thể ức chế vi khuẩn gây bệnh xâm nhập vào đường ruột, chẳng hạn như bacteriocin (Clarke và Morris, 1976) và axit lipoteichoic (Gao et al., 2011). Các axit béo mạch ngắn, đặc biệt là axit butyric được sản xuất bởi C. butyricum có thể cung cấp các chất dinh dưỡng cho quá trình tái tạo và sửa chữa tế bào biểu mô ruột (Pryde et al., 2002).

Emodin là một hợp chất hóa học có thể được phân lập từ đại hoàng Himalaya, cây hắc mai và cây bần Nhật Bản. Emodin cũng được sản xuất bởi nhiều loài nấm, bao gồm các loài của chi Aspergillus, Pyrenochaeta và Pestalotiopsis.

Nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá các tác động riêng lẻ và kết hợp của emodin và Clostridium butyricum đối với sự tăng trưởng và khả năng miễn dịch không đặc hiệu của tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) trong tám tuần với trọng lượng cơ thể ban đầu là 0,19 ± 0,5 g.

Chín chế độ ăn được chuẩn bị để chứa ba mức emodin (0,25 và 50 mg/kg) và ba mức C. butyricum (0,250 và 50 mg/kg, 2×107CFU/g). Các chế độ ăn kiêng được đặt tên là 0/0, 250/0, 500/0, 0/25, 250/25, 500/25, 0/50, 250/50 và 500/50 ( C. butyricum/emodin), tương ứng.

Kết quả cho thấy hiệu quả tương tác đối với việc tăng trọng và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn đã được quan sát thấy ở nghiệm thức tôm được cho ăn chế độ ăn có chứa 250mg/kg C. butyricum và 50mg/kg emodin. Ngoài ra, tăng trọng và tốc độ tăng trưởng cụ thể (SGR) của tôm được cho ăn 250mg/kg C. butyricum đều  cao hơn đáng kể ( P<0,05) so với các phương pháp điều trị khác liên quan đến C. butyricum.

Ngoài ra các quá trình tổng hợp nitric oxide (iNOS) và hoạt động hô hấp cao hơn quan sát thấy khi tăng nồng độ emodin trong khẩu phần ăn. Các hoạt động Aspartate aminotransferase (AST) và tổng protein (TP) được cải thiện với mức độ tăng dần của C. butyricum (P<0,05). Hơn nữa, các chỉ tiêu miễn dịch interferon-(INF-), IL-1, TNF-α và IL-6 đã được tăng cường bởi emodin trong chế độ ăn uống và sự tương tác của C. butyricum và emodin.

Nghiên cứu hiện tại chỉ ra rằng các tác dụng riêng lẻ hoặc kết hợp của C. butyricum và emodin có thể cải thiện đáng kể hiệu suất tăng trưởng và cải thiện tình trạng chống oxy hóa của tôm càng xanh M. rosenbergii. Sự kết hợp tối ưu của các thành phần này lần lượt là 250mg/kg C. butyricum (2×107 CFU/g) và 5mg/kg emodin.

Như Huỳnh – https://tepbac.com/

Ngăn chặn dịch bệnh trên tôm

Từ đầu năm đến nay, do điều kiện thời tiết, môi trường diễn biến bất lợi, làm dịch bệnh tôm nuôi phát sinh, lây lan. Ghi nhận tại một số địa phương như Hải Phòng, Nghệ An, Quảng Bình, nhiều diện tích nuôi tôm của người dân đã bị chết, ngành chức năng các tỉnh đang triển khai nhiều biện pháp khắc phục.

Tôm chết vì bệnh

Theo thống kê của Sở NN&PTNT Hải Phòng, bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp tính xuất hiện từ ngày 14/4, tại 2 huyện, quận, tổng diện tích tôm nuôi nhiễm bệnh trên địa bàn thành phố 250,43 ha, diện tích nuôi tôm có nguy cơ nhiễm bệnh trên 503 ha tại quận Dương Kinh và huyện Tiên Lãng. Tại xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, tổng diện tích nuôi tôm trên địa bàn là 508,12 ha, đến 21/4 tổng diện tích tôm mắc bệnh là 15 ha tại 11 hộ nuôi tôm, diện tích nguy cơ 340,6 ha; ước tính thiệt hại khoảng 7,5 tỷ đồng. Còn tại phường Tân Thành, quận Dương Kinh, tính đến 27/4 tổng diện tích tôm bị bệnh 235,43 ha, trong đó có 80,186 ha thuộc Xí nghiệp NTTS Kiến Thụy và 155,24 ha của các hộ nuôi riêng lẻ.

tôm thiếu tiền chữa bệnh

Ảnh minh họa (Phan Thanh Cường)

Trước tình hình phức tạp của dịch bệnh ở tôm nuôi, Sở NN&PTNT Hải Phòng đã kịp thời trình UBND thành phố sử dụng nguồn hóa chất dự phòng chống dịch thủy sản, xuất cấp cho huyện Tiên Lãng, quận Dương Kinh 8,8 tấn Chlorine 65% min và 20 tấn Sodium Chlorite 20% giúp 2 địa phương này phòng, chống dịch bệnh.

Tại vùng nuôi tôm ở tỉnh Nghệ An, hơn 1 tháng qua, hàng chục ha TTCT vụ 1 bị dịch bệnh chết đồng loạt. Với hơn 186 ha nuôi TTTC tập trung ở xóm Tân Xuân, Mai Giang 1, xã Quỳnh Bảng, huyện Quỳnh Lưu người dân đã thả trên 80% diện tích ao nuôi nhưng có hàng chục ha phải xử lý lại toàn bộ để thả tiếp vụ mới do dịch bệnh, thiệt hại ước tính trên 2 tỷ đồng. Còn theo thống kê, toàn xã Quỳnh Bảng có khoảng 30 ha tôm bị dịch bệnh, riêng tôm bị đốm trắng là 0,5 ha; còn lại tôm bị bệnh nuôi chậm lớn. Toàn huyện Quỳnh Lưu hiện có 460 ha nuôi tôm; đến giữa tháng 4/2020, tổng diện tích tôm nuôi bị dịch bệnh, chậm lớn khoảng hơn 35 ha, tập trung chủ yếu ở 2 xã Quỳnh Bảng và An Hòa. Tại thị xã Hoàng Mai cũng có khoảng trên 10 ha tôm bị thiệt hại do dịch bệnh, tập trung ở một số vùng nuôi các phường Quỳnh Xuân, Quỳnh Liên… Các bệnh thường gặp ở tôm như đốm trắng, hồng thân, đường ruột…

Tình hình dịch bệnh trên tôm cũng khá phức tạp tại tỉnh Quảng Bình; khi theo thông tin từ Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh, từ đầu năm đến nay, dịch bệnh trên tôm đã xảy ra tại 3 huyện, thị xã với tổng diện tích bị bệnh 30,414 ha; trong đó, tôm chủ yếu nhiễm bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp tính, hoại tử cơ quan tạo máu và biểu mô. Riêng trong tháng 4, dịch bệnh trên tôm nuôi xảy ra ở 47 ao nuôi của 34 hộ với tổng diện tích bị bệnh là 17,45 ha. Tại huyện Quảng Ninh, dịch bệnh đốm trắng xảy ra ở 37 ao nuôi của 26 hộ thuộc 2 xã Hàm Ninh, Võ Ninh với diện tích bị bệnh là 12,26 ha. Tại thị xã Ba Đồn, bệnh đốm trắng xảy ra ở 6 ao nuôi của 6 hộ thuộc 3 xã Quảng Phúc, Quảng Lộc, Quảng Tiên với diện tích bị bệnh là 2,895 ha. Dịch bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và biểu mô, hoại tử gan tụy cấp tính xảy ra ở 4 ao của 2 hộ thuộc 2 xã Hải Phú, Đồng Trạch (huyện Bố Trạch) với diện tích bị bệnh là 2,3 ha.

Tăng cường quản lý

Ngay khi có dịch bệnh trên tôm, các địa phương đã chủ động cử cán bộ kỹ thuật xuống địa bàn hướng dẫn người dân làm tốt công tác cải tạo ao nuôi; các cơ sở nuôi tôm cần phải có ao chứa/lắng để chủ động xử lý nước trước khi cấp vào ao nuôi; những ao bị dịch bệnh không tiếp tục thả nuôi tôm mà nên chuyển sang nuôi đối tượng khác. Cần chăm sóc, quản lý đúng quy trình kỹ thuật, đặc biệt là thời điểm giao mùa luôn phải bảo đảm các điều kiện môi trường thích hợp cho tôm sinh trưởng, như: ôxy hòa tan, pH, độ mặn, nhiệt độ nước; định kỳ sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý môi trường; cho ăn thức ăn bảo đảm chất lượng, tránh dư thừa.

Người nuôi tôm cũng cần lựa chọn tôm giống có nguồn gốc rõ ràng tại các cơ sở giống có uy tín, tôm giống sạch bệnh (nên TEST, kiểm tra phát hiện mầm bệnh ở tôm giống), thả nuôi với mật độ thích hợp. Cần thường xuyên theo dõi hoạt động của tôm, kiểm tra và phát hiện sớm dịch bệnh, chủ động khai báo sớm cho chính quyền địa phương, cơ quan chuyên môn để khoanh vùng dập dịch đúng quy định; không được xả nước thải từ các ao nuôi bị bệnh ra môi trường chung làm lây lan dịch bệnh.

Ông Phạm Văn Thép, Giám đốc Sở NN&PTNT Hải Phòng cho biết, người dân tuyệt đối không xả thải nước từ cơ sở nhiễm bệnh chưa qua xử lý ra ngoài môi trường làm lây lan dịch bệnh. Tiêu độc, khử trùng toàn bộ nước trong ao nuôi, dụng cụ liên quan bằng hóa chất có trong danh mục được phép lưu hành, sử dụng trong nuôi thủy sản tại Việt Nam theo quy định của Bộ NN&PTNT như Chlorine, Sodium chlorite, BKC… Đối với các hộ nuôi có mật độ vi khuẩn Vibrio sp trong nước vượt ngưỡng cho phép; dùng hóa chất, chế phẩm sinh học để xử lý đáy ao định kỳ 15 ngày/lần; quản lý thức ăn hàng ngày, tránh dư thừa gây ô nhiễm ao. Thường xuyên giám sát dịch bệnh, khi phát hiện thủy sản có dấu hiệu bất thường báo ngay cho chính quyền địa phương và Chi cục Chăn nuôi và Thú y để có các biện pháp xử lý kịp thời.

Ngọc Hân – http://www.thuysanvietnam.com.vn/