Bạn tìm thông tin gì?

Blog

Kiểm tra màu ruột – phương pháp hỗ trợ quản lý thức ăn cho tôm thẻ chân trắng

Quản lý thức ăn hiệu quả là một công cụ quan trọng trong sản xuất tôm nuôi. Đặc biệt, trong nuôi tôm chi phí thức ăn chiếm từ 50% trở lên trong tổng chi phí sản xuất. Ngoài ra, việc quản lý thức ăn không đầy đủ có thể gây ảnh hưởng đến chất lượng nước và tích tụ dưới đáy ao.

Tôm thẻ chân trắng được tiêu thụ đầy đủ lượng thức ăn tổng hợp ruột sẽ có màu nâu nhạt (bên trái); trong khi ruột và thức ăn tự nhiên sẽ có màu hơi đen (bên phải)

Kiểm tra màu ruột

Gần đây, người ta đã phát triển kỹ thuật sử dụng màu sắc của ruột tôm để đánh giá mức tiêu thụ thức ăn, từ đó sử dụng thức ăn hợp lý và hiệu quả hơn. Để thực hiện kỹ thuật “kiểm tra màu ruột”, tiến hành lấy mẫu khoảng 100 con ngẫu nhiên từ các khu vực khác nhau của ao nuôi. Thức ăn công nghiệp trong ruột tôm có màu nâu nhạt trong khi đường ruột và thức ăn tự nhiên (chủ yếu là mùn bã, sinh vật phù du) sẽ khiến ruột tôm có màu hơi đen.

Việc cho ăn quá mức được tính khi một giờ trước khi cho ăn, quan sát tôm có trên 10% ruột vẫn còn màu của thức ăn. Điều này dựa trên thực tế rằng trước khi cung cấp thức ăn mới phải đảm bảo tôm đã tiêu thụ hết 90% lượng thức ăn cũ. Mặt khác, khi nghi ngờ lượng thức ăn thiếu, phải tiến hành kiểm tra đường ruột 1 giờ sau khi cho ăn. Dự kiến khoảng 60% số tôm được lấy mẫu ruột phải có màu thức ăn (nâu nhạt). Nếu trên 40% số tôm lấy mẫu có ruột màu hơi đen sau 1 giờ cho ăn thì cần tiến hành bổ sung thêm lượng thức ăn trong khẩu phần.

Thông thường, thức ăn nên được tôm tiêu thụ trong 3 giờ đầu tiên sau khi cho ăn, bởi thức ăn còn thừa sẽ mất dần chất dinh dưỡng (theo Dagoberto Sanchez). Đôi khi, việc kiểm tra màu ruột phải được thực hiện vào các thời điểm khác nhau, các giá trị tỷ lệ đã được thiết lập trong khoảng thời gian nửa giờ sau khi cho ăn.

Thời gian sau khi cho ănRuột chứa thức ăn công nghiệpRuột chứa thức ăn tự nhiên
1 giờTrên 60%Dưới 40%
1,5 giờ50%50%
2 giờ30%70%
2,5 giờ20%80%
1 giờ trước lần cho ăn tiếp theoDưới 10%Trên 90%

Bảng 1: Tỷ lệ mong đợi khi kiểm tra màu ruột trong các khoảng thời gian khác nhau

Trong một số trường hợp khi ruột tôm bị rỗng hoàn toàn hoặc rỗng một phần, các chất chứa trong ruột được gọi là thức ăn tự nhiên. Bởi điều đó có nghĩa là thức ăn không được tiêu thụ – có thể do sự hiện diện của mầm bệnh gây bệnh. Ngoài ra, khi ruột có màu sắc hỗn hợp, cho thấy cả màu thức ăn tổng hợp và màu thức ăn tự nhiên, điều này có thể chấp nhận được vì đôi khi tôm sẽ ăn cả hai loại thức ăn.

Sử dụng bảng nguồn cấp dữ liệu

Một phương pháp đã được thử nghiệm vào mùa hè tại một trang trại nuôi thâm canh ở Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Bình thường, trang trại sẽ tiến hành cho tôm ăn vào các khoảng thời gian 6 giờ sáng, 10 giờ sáng, 2 giờ chiều, và lần cuối vào 6 giờ chiều. Các mẫu thức ăn tổng hợp ở mức 3% khối lượng tính toán từ bảng thức ăn đã được đặt trong khay thức ăn để xác minh mức tiêu thụ sau ba giờ cho ăn. Nếu các khay trống, tiến hành kiểm tra khối lượng cho ăn sau một giờ thực hiện lần cho ăn tiếp theo.

Tại thời điểm mùa hè thử nghiệm, nhiệt độ dao động từ 30 – 40oC khiến việc tính toán liều lượng thức ăn trở nên khó khăn vì thức ăn trong khay được tôm tiêu thụ rất nhanh và ít có thức ăn thừa bị bỏ lại. Tôm tiêu thụ thức ăn nhanh có thể được giải thích là do việc tiêu hóa hoàn toàn thức ăn ở 34oC có thể chỉ mất chưa đến một giờ đồng hồ.

Mặt khác, khi tôm nuôi bị ảnh hưởng bởi sự tấn công của virus hội chứng Taura, bảng thức ăn này sẽ trở nên không chính xác cho việc quản lý liều lượng thức ăn hàng ngày vì rất khó xác định quần thể ao khi có tỷ lệ chết xảy ra.

Mùa hè, khay thức ăn thường trống rỗng khi kiểm tra vào thời điểm một giờ sau khi ăn  (Ảnh minh họa)

Một thử nghiệm đã được thực hiện để so sánh ba phương pháp đánh giá mức tiêu thụ thức ăn trong những tình huống bất thường này. Các ao được phân thành nhóm chỉ sử dụng bảng thức ăn cân bằng, ao sử dụng bảng thức ăn cân bằng và khay thức ăn, và ao sử dụng bảng thức ăn cân bằng và kiểm tra màu ruột

Phương phápDiện tích (ha)Mật độ thả (số con/m2)Năng suất (kg/ha)Trọng lượng (g)Tỷ lệ sống (%)Tỷ lệ chuyển đổi nguồn cấp dữ liệuThời gian (ngày)
Chỉ dùng bảng nguồn cấp dữ liệu *0,641479,79716,2264,22,0487
Sử dụng khay thức ăn *0,641459,37316,1162,71,5179
Bảng, kiểm tra ruột0,6414610,08316,7364,51,2370

Bảng 2: Kết quả của 3 phương pháp tính liều lượng thức ăn tại một trại nuôi tôm thâm canh Trung Quốc

(*) Kết quả trung bình cho 3 ao/nghiệm thức với mật độ thả, ấu trùng và diện tích thức ăn giống nhau

Kết quả cho thấy, việc sử dụng bảng thức ăn bổ sung với việc kiểm tra ruột đã chứng minh đây là phương pháp hiệu quả nhất để tính toán liều lượng thức ăn hàng ngày, giúp tỷ lệ chuyển hóa thức ăn tối ưu nhất cho năng suất cao nhất. Chỉ sử dụng bảng nguồn cấp dữ liệu thức ăn là phương pháp kém hiệu quả nhất, với tỷ lệ chuyển đổi thức ăn cao nhất và thời gian nuôi kéo dài nhất. Có thể thấy rằng các công cụ bổ sung đơn giản như khay thức ăn, kiểm tra màu ruột có thể giúp cho việc giảm thiểu chi phí thức ăn – một trong những yếu tố quan trọng bài toán kinh tế khi nuôi tôm.

Kiểm soát và ước tính lượng thức ăn cho tôm

Tôm thẻ có nhu cầu đạm thấp hơn tôm sú nhưng tôm thẻ lại là loài ăn liên tục nên kiểm soát lượng thức ăn là một trong những yêu tố giúp vụ nuôi thành công hơn.

Bảng 3: Cho ăn dựa vào trọng lượng tôm

Trọng lượng tôm (g)%
29.5
35.8
55.3
14.1
103.3
123
152.6
202.1
251.5
301.3

Bảng 4: Tính lượng thức ăn cho vào nhá

Trọng lượng (g)Thức ăn (g/kg/nhá)Thời gian kiểm tra (tiếng)
1.5 – 4.012.5
5.0 – 8.022.5
9.0 – 16.032
17.0 – 22.042
23.0 – 33.051.5

Bảng 5: Điều chỉnh thức ăn thông qua cách kiểm tra nhá cho ăn

Lượng thức ăn thừa (%)Điều chỉnh lượng thức ăn cho vào nhá
0Tăng 5%
30Giữ nguyên
60-70Giảm 5%
90Giảm 10%
100Giảm 30%

Theo http://nguoinuoitom.vn/

Những quan niệm sai lầm về kháng sinh trong nuôi tôm

Trong khi có những quan ngại xác đáng liên quan đến kháng sinh, cũng có nhiều những quan niệm sai lầm về việc sử dụng kháng sinh. Dưới đây là những giải thích về một số điều có liên quan đến nuôi trồng thủy sản

Bất kỳ hoạt động sử dụng kháng sinh nào trong nuôi trồng thủy sản cũng đều có hại

Việc sử dụng kháng sinh một cách có trách nhiệm trong bất kỳ một hoạt động nông nghiệp luôn được quan tâm. Việc sử dụng đúng cách sẽ làm giảm tác động tài chính khi tôm gặp vấn đề về bệnh tật và hạn chế được những tác hại của việc sử dụng kháng sinh không đúng cách.

Có kháng sinh tốt và xấu

Thuốc kháng sinh không tốt cũng không xấu. Nó tốt hay xấu phụ thuộc vào cách mà chúng được sử dụng. Như với bất kỳ nhóm hóa chất khác nhau nào, thuốc kháng sinh có thể có nhiều tác dụng phụ không mong muốn khác nhau, từ tối thiểu đến tử vong. Cần có trách nhiệm sử dụng kháng sinh để đảm bảo không còn tồn dư.

Dư lượng kháng sinh luôn không tốt

Thuốc kháng sinh là các phân tử mà động vật ăn vào, chuyển hóa và bài tiết. Các loại thuốc khác nhau được chuyển hóa theo những cách khác nhau và có thời gian bán hủy khác nhau ở các loài động vật khác nhau. Trong khi nhiều loài động vật không cho phép dư lượng kháng sinh thì ở một số loài động vật sẽ có dư lượng kháng sinh được cho phép.

Tất cả các loại thuốc kháng sinh đều giống nhau

Thuốc kháng sinh được chia thành hai loại chung: thuốc kháng sinh diệt khuẩn có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn và thuốc kháng sinh kìm khuẩn ngăn vi khuẩn phát triển nhưng không tiêu diệt được chúng. Tùy thuộc vào liều lượng sử dụng, một số loại kháng sinh phù hợp với cả hai loại.

Sử dụng kháng sinh là phương pháp tốt nhất

Mặc dù thuốc kháng sinh có thể ngăn chặn hiệu quả tỷ lệ tử vong cấp tính khi động vật ăn phải, nhưng chúng không phải là công cụ tốt nhất để giải quyết vấn đề về lâu dài. Giải quyết nguyên nhân cơ bản của bệnh là một công cụ quản lý tốt hơn. Điều này thường đòi hỏi những việc như kiểm soát lượng mầm bệnh và giảm thiểu căng thẳng cho động vật bằng cách duy trì một môi trường sạch sẽ và lành mạnh.

Thúc đẩy tăng trưởng nhờ kháng sinh

Mặc dù điều này có thể hợp pháp trong một số lĩnh vực, nhưng nhiều người trong lĩnh vực này coi đây là một hành vi không thể chấp nhận được và cấu thành hành vi lạm dụng. Tại Mỹ, việc thúc đẩy tăng trưởng nhờ kháng sinh không được chấp nhận.

Kháng sinh giúp ngăn ngừa bệnh

Ở một số ít trường hợp, kháng sinh được sử dụng để ngăn ngừa bệnh tái phát, nhưng đây là ngoại lệ chứ không phải là bản chất của kháng sinh.

Huệ Tây – http://nguoinuoitom.vn/

Tổng quan ngành tôm 2020: Tăng trưởng trong khó khăn

Năm 2020, được xem là một năm với nhiều thách thức cho nền kinh tế chung của cả thế giới. Trong khi các ngành công nghiệp đang lao đao giải quyết và khắc phục hậu quả do dịch bệnh Covid-19 gây ra, thì ngành thủy sản, đặc biệt là ngành công nghiệp tôm Việt Nam lại làm nên kỳ tích, biến “nguy” thành “cơ”, tăng trưởng 11% so với năm 2019.

Sản lượng nuôi trồng thủy sản của Việt Nam qua các năm (Dựa theo số liệu từ VASEP).

Diện tích nuôi tăng 2,24%

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thủy sản, năm 2020 tổng sản lượng thủy sản đạt 8.423,1 nghìn tấn, tăng 1,8% so với năm 2019. Trong đó, sản lượng nuôi trồng đạt 4560 nghìn tấn, tăng 1,5% so với năm trước; sản lượng khai thác đạt 3863,9 nghìn tấn, tăng 2,3% so với năm 2019. Về tôm, diện tích nuôi trồng năm 2020 đạt 736,5 nghìn ha, tăng 2,24% so với diện tích nuôi năm 2019 (720 nghìn ha).

Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp và sự khắc nghiệt về thiên tai, thì 2,24% diện tích tăng trưởng là một con số đáng được ghi nhận. Kết quả này có được là nhờ sự quan tâm sát sao của các cấp chính quyền, hỗ trợ can thiệp kịp thời và đưa ra những phương hướng cụ thể cho người nuôi tôm, từng bước vượt qua những giai đoạn khó khăn để bứt phá.

Sản lượng nuôi đạt 950.000 tấn

Năm 2020, sản lượng nuôi tôm của nước ta đạt 950.000 tấn, bằng 126,66% so với năm 2019 (750.000 tấn). Trong đó, tôm sú đạt 267,7 nghìn tấn, tôm thẻ chân trắng đạt 632,3 nghìn tấn, tôm khác đạt 50 nghìn tấn.

Tốc độ tăng giá trị sản xuất thủy sản đạt 3,05% so với năm 2019, tổng sản lượng thủy sản đạt 8,4 triệu tấn, tăng 1,8%. Trong đó, sản lượng khai thác đạt 3,85 triệu tấn, tăng 2,1%; nuôi trồng đạt 4,56 triệu tấn, tăng 1,5%.

Mức tăng trưởng không nhiều, nhưng trong bối cảnh hiện tại chúng ta vẫn duy trì và có tăng trưởng dương. Đây là một trong những điểm rất thành công trong việc chỉ đạo, điều hành lĩnh vực thủy sản năm 2020.

Xuất khẩu nhắm vào những thị trường lớn 

Theo Vasep, năm 2020, tổng giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam đạt 8,41 tỷ USD, giảm 1,9%. Năm 2020, Việt Nam mở rộng xuất khẩu tôm sang 135 thị trường xuất khẩu, tổng giá trị xuất khẩu đạt 3,37 tỷ USD, tăng 11% so với năm 2019. Tổng số các doanh nghiệp xuất khẩu đạt 508 doanh nghiệp. Trong đó, xuất khẩu mã hàng tôm thẻ chân trắng sống/tươi/đông lạnh (thuộc mã HS16) chiếm 38%; tôm thẻ chân trắng chế biến (thuộc mã HS16) chiếm 35%; Tôm sú sống/tươi/đông lạnh (thuộc mã HS03, trừ HS0304) chiếm 13%; tôm sú chế biến khác (thuộc mã HS16) chiếm 2%; còn lại 16% thuộc các sản phẩm tôm chế biến khác.

Có được những thành tích này một phần là nhờ việc thành công kiểm soát dịch bệnh Covid-19, nên việc xuất khẩu tôm của nước ta có nhiều lợi thế so với các nước có nguồn cung lớn tôm lớn trên thế giới như Ecuador, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan… bị thiệt hại nặng nề do dịch bệnh, sản xuất trong nước bị ngưng trệ. Cho tới hiện giờ, các doanh nghiệp tôm của những nước này vẫn đang gồng mình chống chọi với dịch bệnh, nên tôm Việt Nam có sức cạnh tranh hơn. Các doanh nghiệp tôm cố gắng vừa duy trì sản xuất, linh hoạt chuyển hướng thị trường, tận dụng thời cơ, nhờ đó giá trị xuất khẩu sang các thị trường lớn tăng trưởng khả quan như: Mỹ tăng 33%; Eu tăng 6,1%; Hàn Quốc tăng 3,3%; Anh tăng 20,1% so với năm 2019.

(Ảnh: Nguồn Vasep)

Cả nước có 2224 cơ sở sản xuất tôm giống

Diện tích nuôi tôm nước ta năm 2020 đạt 736,5 nghìn ha. Theo Tổng cục Thủy sản, sản lượng tôm bố mẹ cần để sản xuất giống tôm là 250.000 con, với nguồn tôm giống bố mẹ để sản xuất từ tự nhiên, nhập khẩu và chọn tạo trong nước. Đồng thời, cả nước có 2224 cơ sở sản xuất giống, sản xuất được 130 tỷ con tôm giống, trong đó tôm sú giống là 32 tỷ con; tôm thẻ chân trắng giống là 98 tỷ con, đạt 100% kế hoạch, trọng điểm tại các tỉnh khu vực Nam Trung Bộ. Hằng năm, các cơ sở này cung cấp khoảng 56% số lượng tôm nước lợ cho nhu cầu thả nuôi của cả nước. Kế hoạch năm 2021, nhu cầu tôm giống khoảng 130 tỷ con, nhu cầu tôm bố mẹ khoảng 250.000 con.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đặt ra mục tiêu xuất khẩu đạt 10 tỷ USD vào năm 2025. Để đạt được mục tiêu này, vấn đề giống cần đặc biệt chú trọng. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đã đề nghị các đơn vị liên quan từ Bộ, ban, ngành Trung ương đến địa phương cần quản lý tốt tôm giống nước lợ. Tăng cường kiểm tra, rà soát con giống đầu vào, cấp giấy chứng nhận vùng nuôi, cơ sở nuôi theo đúng quy định. Đồng thời, công tác kiểm soát dịch bệnh trên tôm giống xuất tỉnh cũng phải kiểm soát chặt chẽ, đúng quy trình.

Tình hình dịch bệnh vẫn tăng nhẹ

Theo số liệu báo cáo của Cục Thú y, năm 2020 cả nước có 43.000 ha tôm nuôi bị thiệt hại. Trong đó, thiệt hại ở tôm nước lợ là 42.738,81 ha, chiếm 93,83% trong tổng số diện tích tôm nuôi bị thiệt hại.

Thiệt hại do dịch bệnh là 6.684,27 ha, chiếm 15,64%, tăng 6,7% so với năm 2019. Thiệt hại do không xác định được nguyên nhân là 32.731,8 ha, chiếm 76,59% trong tổng số tôm bị thiệt hại. Thiệt hại do biến đổi môi trường, thời tiết là 3.322,75 ha, chiếm 7,77% trong tổng số tôm nuôi bị thiệt hại. Diện tích nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh bị thiệt hại là 9.335,25 ha; quảng canh, quảng canh cải tiến là 32.896,24 ha; còn lại là tôm lúa và các hình thức nuôi khác chiếm 534,32 ha.

Các loại mầm bệnh nguy hiểm như bệnh Hoại tử gan tụy cấp (EMS), Đốm trắng (WSSD)… vẫn lưu hành rộng ở nhiều vùng nuôi. Cụ thể, với bệnh EMS, Cục Thú y thống kê được 151 xã của 53 huyện, thị xã, thuộc 18 tỉnh thành mắc phải. Diện tích tôm mắc bệnh là 2.754,06 ha, chiếm 3,12% diện tích thả nuôi. Sóc Trăng là tỉnh chịu thiệt hại nặng nề nhất do EMS gây ra với 1.179,51 ha mắc bệnh (chiếm 42,83% tổng diện tích bị bệnh). Với bệnh WSSD, năm 2020 bênh xảy ra tại 202 xã của 68 huyện thuộc 22 tỉnh thành. Tổng diện tích nuôi bị bệnh là 2.629,39 ha, chiếm 2,18% diện tích thả nuôi tôm của các khu vực có bệnh. Trọng điểm nuôi tôm của cả nước, tỉnh Sóc Trăng là nơi có diện tích bị bệnh lớn nhất, chiếm 686,72 ha (26,12% tổng diện tích bị bệnh).

Nhìn chung, năm 2020 phạm vi và diện tích có tôm mắc bệnh đều tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2019. Diện tích tôm nuôi bị thiệt hại cũng tăng gấp 1,93 lần so với cùng kỳ 2019, trong đó hơn 76% diện tích thiệt hại nhưng không rõ nguyên nhân.

Năm 2021, kỳ vọng mục tiêu xuất khẩu tôm trên 4 tỷ USD

Tận dụng lợi thế từ EVFTA, cùng với đà tăng trưởng và thị phần hiện tại trên thị trường quốc tế, năm 2021 được kỳ vọng là mọt năm bứt phá của ngành tôm Việt Nam.

Ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT) nhận định, việc tham gia các hiệp định thương mại song phương với các nước sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu được thuận lợi hơn. Năm 2021, xuất khẩu tôm có thể tăng 15% so với năm 2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 4 tỷ USD, đây cũng là con số được VASEP dự đoán. Bên cạnh đó, các tập đoàn lớn như Minh Phú cũng đề ra chỉ tiêu đạt xuất khẩu 71 nghìn tấn tôm, kim ngạch 790 triệu USD cho năm 2021.

Để đạt được các chỉ tiêu này, ngành tôm Việt Nam cần tập trung cho các giải pháp như phát triển vùng nuôi, giảm giá thành tôm nguyên liệu. Trong đó, riêng sản lượng tôm thẻ cần đạt 1,1 triệu tấn. Các doanh nghiệp cần tập trung đầu tư công nghệ, chế biến chuyên sâu, gia tăng giá trị, đáp ứng tốt nhu cầu của các nước nhập khẩu.

Phạm Huệ – http://nguoinuoitom.vn/

Những xu hướng nuôi tôm thời hiện đại

Thời gian gần đây, nuôi tôm áp dụng công nghệ cao đang dần trở thành xu hướng mới trong ngành công nghiệp tôm. Không chỉ có lợi thế về diện tích, mật độ và số vụ nuôi, nuôi tôm công nghệ cao còn mang lại giá trị lợi ích cho sức khỏe tôm nuôi, giúp tôm đạt chất lượng cao, đáp ứng được với yêu cầu chất lượng tôm ngày một khắt khe. Phong trào nuôi tôm công nghệ cao ngày càng lan tỏa rộng rãi và được nhiều bà con nông dân các tỉnh trên cả nước đón nhận.

Mô hình nuôi tôm 2 giai đoạn mang lại hiệu quả cao

Trung tâm Khuyến nông Quảng Ninh có những mô hình làm thay đổi phần nào cách nuôi tôm truyền thống có năng suất thấp kèm theo rủi ro về dịch bệnh. Được chọn thí điểm sử dụng mô hình thử nghiệm bể ương di động cho quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng 2 giai đoạn do Trung tâm Khuyến nông Quảng Ninh phổ biến vào cuối năm 2019, ông Từ Văn Nam ở xã Cộng Hòa, TP Cẩm Phả đã mạnh dạn đầu tư, chuyển giao kỹ thuật trong nuôi tôm. Sau một thời gian áp dụng, mô hình cho gia đình ông Nam thu nhập cao gấp 2-3 lần so với những vụ nuôi trước, tỷ lệ tôm sống cao và phát triển khỏe mạnh. “Ưu điểm của bể ương nổi là dễ quản lý, không bị phụ thuộc vào nguồn nước, vụ nuôi, có thể tháo lắp, di chuyển, thay đổi được kích thước và hạn chế rủi ro thiên tai, dịch bệnh. Đặc biệt, với hệ thống này, có thể giảm thiểu được hội chứng tôm chết sớm EMS do hoại tử gan tụy cấp tính do có thể chủ động kiểm soát được môi trường nước”, ông Nam chia sẻ.

Bên cạnh khuyến khích người nuôi trồng thủy sản tăng cường đầu tư cho công nghệ, các ngành chức năng trong tỉnh Quảng Ninh cũng đã triển khai nhiều mô hình khuyến nông để phổ biến những phương pháp, kỹ thuật, công nghệ mới đến các hộ dân, như: Nuôi tôm sú bán thâm canh, đảm bảo ATTP tại các hộ dân phường Tân An và Minh Thành (TX Quảng Yên); nuôi tôm 2 giai đoạn tại TX Quảng Yên; ứng dụng thiết bị ương di động trong nuôi tôm thẻ chân trắng 2 giai đoạn tại TX Móng Cái, huyện Tiên Yên; ứng dụng KHCN nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh 2 giai đoạn ít thay nước theo công nghệ Trúc Anh…

Mô hình thử nghiệm bể ương di động cho quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng 2 giai đoạn do Trung tâm Khuyến nông Quảng Ninh chuyển giao kỹ thuật, bước đầu đem lại hiệu quả. – Ảnh: Anh Thắng

Nuôi thâm canh 3 giai đoạn nhanh lớn, ít bệnh

Ông Phan Thanh Tôn ở thôn Tây Tân An, xã Hải An, huyện Hải Lăng, Quảng Trị là một trong những hộ đi đầu trong thực hiện các mô hình nuôi mới đối với con tôm. Năm 2020, từ nguồn kinh phí gia đình và sự hỗ trợ từ Trung tâm Khuyến nông tỉnh, ông Tôn đã triển khai mô hình nuôi tôm 3 giai đoạn.

Hệ thống ao nuôi mô hình tôm thẻ chân trắng thâm canh 3 giai đoạn theo công nghệ Biofloc được thiết kế gồm có ao lắng, bể ương và 2 ao nuôi. Ao lắng diện tích 300 m2 đảm bảo đủ cấp và bù nước cho việc cung cấp đủ ao nuôi và ao ương trong vụ nuôi. Bể ương được làm bằng kim loại hình tròn bên trong lót bạt có thể tích hơn 120 m3 , phần trên có mái che kiên cố, có hệ thống thổi oxy đảm bảo. Đáy ao bể ương cao ngang mực nước cao nhất của ao nuôi. Ao nuôi giai đoạn 2 diện tích 1.800 m2 , ao nuôi giai đoạn 3 diện tích 2.000 m2 , hệ thống quạt nước, oxy đảm bảo. Thực hiện mô hình, gia đình ông Tôn đã tiến hành thả giống tôm thẻ post 12 với số lượng 400.000 con vào ao ương. Quá trình chăm sóc, quản lý bao gồm 3 giai đoạn: Giai đoạn ương thời gian 30 ngày, sau khi tôm đạt kích cỡ trung bình 900 con/kg tiến hành san xuống giai đoạn 2 thông qua ống xả. Tôm được nuôi ở giai đoạn 2 được 45 ngày, kích cỡ trung bình 145 con/kg tiến hành san sang giai đoạn 3. Việc san tôm lúc này được thực hiện bằng cách kéo lưới. Tại ao nuôi giai đoạn 3, tôm được nuôi tiếp đến khi đạt kích cỡ thu hoạch.

Ông Tôn cho biết, tuy nuôi theo quy trình 3 giai đoạn thì nguồn vốn đầu tư ban đầu lớn, song hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều quy trình nuôi trước đây. Lợi ích thấy rõ là giảm chi phí trong tháng nuôi đầu tiên. Việc áp dụng quy trình tạo biofloc, cũng như quy trình nuôi 3 giai đoạn đã giúp cho môi trường ao nuôi sạch hơn và thuận tiện cho việc chăm sóc, quản lý, tôm sinh trưởng tốt, hạn chế dịch bệnh. “Sau 4 tháng thả nuôi gia đình tôi đã tiến hành thu hoạch, tỉ lệ sống đạt 75%, khối lượng bình quân đạt 50 con/kg, sản lượng thu được trên 5,5 tấn, với giá bán 154.000 đồng/kg đã mang về cho gia đình tôi nguồn lợi nhuận trên 200 triệu đồng sau khi trừ toàn bộ chi phí. Với năng suất như vậy, thời gian tới, tôi sẽ mở rộng thêm diện tích nuôi theo quy trình này”, ông Tôn chia sẻ.

Nuôi tôm trong ao tròn nổi tăng tỷ lệ sống, mật độ thả cao

Hai năm gần đây, người nông dân vùng đất mặn lợ Kim Sơn (tỉnh Ninh Bình) đã mạnh dạn áp dụng phương pháp mới, đó là nuôi tôm thẻ trong ao tròn nổi, mang lại hiệu quả vượt trội. Con tôm thẻ nuôi trong ao nổi dạng tròn không những ít dịch bệnh mà còn rất khỏe mạnh, tỷ lệ sống và mật độ nuôi thả cao. Đây là một trong những phương pháp tiên tiến đang được nhiều địa phương trong cả nước áp dụng thành công.

Anh Nguyễn Quý Nghĩa (xã Kim Đông), là một trong những hộ đi tiên phong trong ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất. Không giống như cách làm thông thường trước đây, những ao đất hình vuông, hình chữ nhật đã được thay bằng ao hình tròn nổi trên mặt đất. Mô hình nuôi tôm trong ao tròn nổi mang lại nhiều ưu điểm như: kiểm soát được lượng thức ăn thừa và phân tôm; môi trường đảm bảo; tỷ lệ sống và mật độ nuôi cao; bể nuôi được đặt nổi hoàn toàn trên mặt đất, phủ bạt nên hạn chế mầm bệnh từ đất xâm lấn vào. Mặt khác, diện tích bể nhỏ nên tiện lợi cho người nuôi trong khâu chăm sóc, quản lý nguồn nước.

Với những ưu điểm đó, năm 2019 anh Nghĩa đã mạnh dạn đầu tư 4 ao tròn nổi, chi phí từ 15-20 triệu đồng/ao. Diện tích mỗi ao chừng 130 m2, chiều cao 1,2m, xung quanh được dựng bằng khung sắt kiên cố, trong lót bạt. Đặc biệt đáy được thiết kế có độ dốc, dạng hình phễu để thu gom thức ăn thừa và phân tôm. Sau 2 năm với 4 vụ tôm thẻ, hiệu quả mang lại từ mô hình mới rất khả quan. Mỗi vụ anh thu về trên 7 tạ tôm, cao hơn so với nuôi trong ao đất cùng diện tích khoảng 60- 70%. Như vậy, mỗi năm xuất bán ra thị trường trên 3 tấn tôm thương phẩm, sau khi trừ chi phí có lãi từ 250-300 triệu đồng.

“Chi phí đầu tư ao nuôi không quá cao, tùy từng hộ nuôi, có người chọn chất liệu là sắt, thép, có người chỉ cần làm bằng gỗ, thân cây tre. Diện tích nuôi thực tế được thu hẹp đáng kể so với trước kia, mật độ con giống tăng lên, công chăm sóc giảm, năng suất cao và trên hết là chất lượng thành phẩm vượt trội của con tôm nên sản xuất ra đến đâu thương lái đến tận nơi thu mua hết đến đó” – anh Nghĩa phấn khởi chia sẻ.

Mô hình nuôi tôm trong ao tròn nổi của anh Nguyễn Quý Nghĩa (Ninh Bình) – Ảnh Anh Tuấn

Một trong những giải pháp then chốt mà các Bộ, ngành đang hướng đến là tăng cường ứng dụng khoa học hiện đại vào khâu nuôi và đẩy nhanh hoàn thiện các vùng an toàn dịch bệnh nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, phấn đấu sớm xuất khẩu tôm nguyên con vào các thị trường khó tính. Ưu tiên xuất khẩu các mặt hàng giá trị gia tăng vào những phân khúc cấp cao là bước đột phá mà ngành tôm nước ta đang hướng đến. Chính vì vậy, nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao đã, đang và tiếp tục là xu hướng của ngành tôm Việt Nam.

Lê Bùi (Tổng hợp) -http://nguoinuoitom.vn/

10 vấn đề cơ bản làm nên một vụ tôm thành công

Nuôi tôm không dễ, nhưng nếu hiểu và nắm bắt chắc được những điều cơ bản có thể giữ cho ao nuôi sạch bệnh và đạt năng suất cao. An toàn sinh học là một trong những biện pháp quan trọng để ngăn ngừa sự lây nhiễm bệnh tật trong trang trại và những đợt bùng phát kế tiếp trong khu vực; nó không chỉ mang lại lợi ích cho một người nuôi, mà còn mang lại lợi ích cho cả cộng đồng nuôi tôm

1. Khử trùng

Khử trùng là một bước quan trọng để cung cấp một môi trường sạch bệnh cho tôm. Trước khi bắt đầu thả giống, điều quan trọng cần làm là khử trùng toàn bộ cho trang trại nuôi, tất cả các thiết bị nuôi, nước nuôi… đảm bảo rằng mầm bệnh được tiêu diệt, giảm thiểu nguy cơ bùng phát dịch bệnh.

+) Khử trùng ao nuôi và thiết bị

Đấu tiên, vệ sinh ao và thiết bị bằng vòi xịt cao áp có chứa chất khử trùng. Khuyến nghị sử dụng 10ppm axit trichloroisocyanuric (TCCA) và 30 ppm natri hypoclorit.

Nồng độ và thời gian tiếp xúc được khuyến nghị để khử trùng bằng clo

Sau khi khử trùng, cọ rửa lớp lót ao để đảm bảo rằng lớp màng sinh học được nâng cao. Sau đó, loại bỏ tất cả bùn rác còn sót lại của chu kỳ trước vì đây là nơi mầm bệnh lưu cữu. Nếu trước đó trại đã mắc dịch bệnh, sử dụng vôi có pH 11 để diệt trừ bào tử, ngăn chặn dịch bệnh bùng phát ở chu kỳ tiếp theo.

+) Khử trùng nước

Việc khử trùng nước cần thực hiện theo 2 bước: lọc sơ bộ và khử trùng. Đối với quá trình lọc sơ bộ, sử dụng các bộ lọc có mắt lưới nhỏ hơn 200-300  ở đầu vào để ngăn chặn sự xâm nhập của mầm bệnh, động vật ngoại lai, chất thải rắn. Các bộ lọc nên được bảo dưỡng thường xuyên bằng cách rửa qua nước sạch và loại bỏ cặn bẩn.

Đối với khử trùng nước, sử dụng hóa chất khử trùng để diệt trừ triệt để các loại mầm bệnh. Bổ sung 20-30 ppm natri hypoclorit 60%, 0,5-2,5ppm KMnO4 và 10ppm TCCA vào nước lọc trong 24 giờ. Duy trì sục khí đầy đủ trong quá trình khử trùng bằng hóa chất. Để loại bỏ lượng clo còn sót lại, sử dụng đúng lượng natri thiosulphat bằng cách nhân nồng độ clo còn lại với 3. Cuối cùng, áp dụng từ 2 đến 7 lần trong 24 giờ liên tục.

2. Cải thiện an ninh sinh học tại trang trại

Cơ chế hoạt động của an toàn sinh học là ngăn chặn sự xâm nhập của mầm bệnh và loại trừ chúng trong trang trại. Dưới đây là một số biện pháp an toàn sinh học đơn giản nhất mà người nuôi tôm có thể bắt đầu thực hiện tại chính trang trại của mình:

+) Sử dụng lớp lót ao: Polyethylene mật độ cao (HDPE) là vật liệu được sử dụng phổ biến nhất. Việc sử dụng lớp lót ao cho phép kiểm soát nước dễ dàng hơn bởi giúp ngăn nước không tiếp xúc trực tiếp với đất, sự tiếp xúc đó có thể gây ra phản ứng thiếu oxy phức tạp, rất độc cho tôm.

+) Làm hàng rào bảo vệ xung quanh trang trại: Việc làm này giúp ngăn động vật hoang dã chẳng hạn như cua, ốc… những động vật này có thể mang mầm bệnh không mong muốn xâm nhập vào trang trại.

+) Kiểm soát chặt chẽ sự di chuyển của người và phương tiện: Đảm bảo tất cả công nhân và khách đến trang trại phải thực hiện đúng quy trình khử trùng làm sạch trước và sau khi làm việc. Tất cả các phương tiện cũng thực hiện đúng các quy trình trước và sau khi xuất nhập trại.

+) Lưu trữ thức ăn trong một khu vực riêng: Giúp duy trì sự sạch sẽ, ngăn tiếp xúc với các vật trung gian bên ngoài có thể mang bệnh và giữ thức ăn ở một nhiệt độ ổn định hơn để duy trì chất lượng thức ăn tốt hơn.

+) Đảm bảo có các phòng thí nghiệm trong khu vực: Sự có mặt của các phòng thí nghiệm xung quanh khu vực nuôi cũng rất quan trọng cho việc đánh giá chất lượng nước và kiểm tra bệnh tật. Điều này cũng giúp việc kiểm tra tại địa phương nhanh hơn so với gửi mẫu nước, mẫu bệnh phẩm của tôm đến các thành phố khác.

Sử dụng lưới và lót bạt đáy ao cũng là một biện pháp an toàn sinh học đơn giản giúp ngăn ngừa dịch bệnh bùng phát. (Ảnh minh họa)

3. Duy trì mức độ kiềm tối ưu

Độ kiềm là một trong những thông số chất lượng nước quan trọng nhất bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự dao động pH và thành phần vi khuẩn. Nên duy trì độ kiềm ở 120-150 ppm. Việc này có thể được thực hiện bằng cách áp dụng các hợp chất bicabonat như CaCO3, CaMg(CO3)2, CaO và Ca(OH)2. Tốt nhất là áp dụng định kỳ đều đặn. Để tăng tối đa độ kiềm, lượng áp dụng cho mỗi lần xử lý không được quá 20 ppm.

Xử lý kiềm được khuyến khích thực hiện vào ban đêm hoặc sáng sớm. Các hợp chất bicabonat sẽ phản ứng với carbon dioxide (CO2) nhiều hơn vào đêm bởi quá trình hô hấp của tất cả các sinh vật.

4. Hiệu chỉnh tất cả các công cụ đo lường

Điều này có vẻ đơn giản nhưng trước mỗi chu kỳ, hãy đảm bảo tất cả các công cụ đo lường của trại đã được hiệu chuẩn. Bao gồm máy đo oxy hòa tan (DO), máy đo pH, khúc xạ kế và bộ kiểm tra hóa học. Các công cụ nếu chưa được hiệu chỉnh có thể gây những lỗi nghiêm trọng dẫn đến việc quản lý sai do dữ liệu không chính xác. Công cụ được hiệu chỉnh có thể cho những kết quả chính xác, giúp việc đưa ra những quyết định có cơ sở hơn.

5. Đánh giá hậu ấu trùng (PL) và sức khỏe tôm

Trước khi thả giống, tôm giống từ các trang trại giống nên được kiểm soát chặt chẽ thường xuyên bằng mắt thường hoặc tốt hơn là bằng kính hiển vi. Kiểm tra hàng tuần sức khỏe tôm nuôi sau khi thả, điều này có lợi cho việc duy trì tăng trưởng tối ưu của tôm và phát hiện kịp thời các dấu hiệu bệnh tật có thể xảy ra.

Những chỉ tiêu nên kiểm tra bao gồm: Tôm tích cực bơi, hình thái bình thường, ruột đầy, không có sinh vật bám dính, không có vẩn đục cơ, tỷ lệ chiều rộng cơ trên ruột là 3:1, gan tụy to và sẫm màu, mang có màu trắng hoặc hơi xám, không có melanisation (biểu hiện bằng các đốm đen đến nâu), không có cặn bẩn trên tôm và không có vết cắt hoặc xoắn trên cơ thể tôm.

Thường xuyên kiểm tra, đánh giá sức khỏe và các chỉ tiêu của tôm (Ảnh minh họa)

6. Lấy mẫu tôm thường xuyên

Việc lấy mẫu cho phép người nuôi hiểu được sự tăng trưởng của tôm và điều chỉnh chế độ thức ăn cho phù hợp, tránh cho ăn quá nhiều hoặc cho ăn quá ít. Nên lấy mẫu tôm từ 5-7 ngày một lần bằng cách sử dụng lưới phù hợp cới kích cỡ tôm hiện tại. Việc lấy mẫu được thực hiện để ước tính trọng lượng cơ thể trung bình (MBW), tính bằng cách chia tổng trọng lượng cho số lượng tôm. Lấy mẫu cần thực hiện một cách đồng đều, tránh lấy mẫu gần khay thức ăn vì tôm ở đó có xu hướng to hơn những con còn lại. Lấy mẫu ngẫu nhiên theo chiều dọc bao gồm đỉnh, giữa và đáy của cột nước cũng như theo chiều ngang bao phủ đều các mặt khác nhau của ao. Tránh lấy mẫu khi tôm đang lột xác.

7. Lấy mẫu theo dõi tôm vừa thả trong 24 giờ đầu

Tổng số tôm thu được ở trang trại giống thường được xác định bằng cách đếm một mẫu túi PL. Sau khi thả giống, người nuôi thường không lấy mẫu theo dõi, điều quan trọng nhất là nắm được tỷ lệ sống 24 giờ sau khi thả. Điều này có thể cung cấp cho người nuôi cái nhìn toàn diện về quần thể tôm sau khi chúng trải qua quá trình thích nghi căng thẳng

8. Lưu ý việc lột xác

Việc lột xác giúp cho tôm phát triển lớn hơn, đây cũng là thời điểm quan trọng cần được chú ý trong nuôi tôm. Người nuôi cần biết chính xác giai đoạn lột xác của tôm bằng cách lấy mẫu thường xuyên, điều này giúp chúng ta chuẩn bị tốt hơn khi quá trình lột xác của tôm diễn ra. Cách tốt nhất là chuẩn bị một môi trường thích hợp bằng cách cung cấp đủ các chất dinh dưỡng vi mô và vĩ mô giúp tôm nhanh chóng hình thành lớp vỏ mới. Việc này giúp giải quyết các vấn đề thề lột xác và tử vong do lột xác không thành công. Một số khoáng chất giúp tôm trong quá trình lột xác là: Ca, Cu, Mg, Na, P, K, Se, Zn.

9. Bổ sung men vi sinh đúng lúc

Probiotic là những vi khuẩn có lợi giúp thúc đẩy sự phát triển của tôm, ngăn ngừa căng thẳng và bệnh tật cũng như duy trì chất lượng nước. Chế phẩm sinh học nên áp dụng từ đầu chu kỳ, giúp tôm giống thích nghi với môi trường mới và tăng cường chất lượng nước nuôi. Đồng thời, khuyến cáo nên sử dụng probiotic trong các trường hợp tác động căng thẳng trên tôm như thay nước hay thu hoạch tỉa. Các vi khuẩn có lợi này hoạt động theo cách tăng cường sức khỏe đường ruột cho tôm, duy trì môi trường nuôi tốt, cả hai yếu tố này đều góp phần giảm căng thẳng trên tôm nuôi.

10. Thực hiện giai đoạn ương

Người nuôi thường thả giống trực tiếp từ trại giống sang ao nuôi thương phẩm. Điều này gây ra những rủi ro cho tôm bởi chúng có hệ miễn dịch tương đối kém. Mặc dù việc thực hiện giai đoạn ương này đòi hòi đầu tư chi phí cơ sở hạ tầng, song lại giúp giảm thiểu rủi ro bằng cách đảm bảo hệ thống miễn dịch cho tôm giống trước khi thả nuôi sang giai đoạn tôm thương phẩm.

Để đạt được điều này, PL từ trại giống nên được thả trong các ao hoặc bể tương đối nhỏ, với mật độ hơn 2000 PL/m2, trong 30 ngày. Kích thước ao/ bể nhỏ sẽ giúp tiêu tốn ít chế phẩm sinh học hơn và đạt hiệu quả hơn so với các ao nuôi thương phẩm có diện tích lớn. Do đó, nâng cao tỷ lệ sống và tối ưu hóa chi phí nuôi.

Giai đoạn ương PL giúp tôm nâng cao hệ thống miễn dịch của tôm (Ảnh minh họa)

Nhiên (Theo Thefishsite)

Liên hệ chặt chẽ giữa vi sinh vật đường ruột và bệnh xanh thân

Tôm thẻ chân trắng bị bệnh xanh thân
Sự khác biệt trong cộng đồng vi khuẩn đường ruột có liên quan chặt chẽ với mức độ nghiêm trọng của bệnh thân xanh trên tôm.

Sự suy giảm miễn dịch và mất cân bằng vi khuẩn đường ruột có liên quan chặt chẽ với hội chứng xanh thân trên tôm thẻ chân trắng nuôi.

Bệnh xanh thân trên tôm thẻ chân trắng

Trong những năm gần đây, người nuôi tôm Trung Quốc đã mô tả một hiện tượng ở tôm thẻ chân trắng nuôi mà họ gọi là “bệnh xanh thân” dựa trên các dấu hiệu tổng quát cơ thể tôm có màu xanh (với gan tụy, mang và cơ). Tôm cũng có biểu hiện chậm lớn, giảm hoặc không ăn và gầy yếu. Hiện tượng bất thường này không gây tử vong nhưng là biểu hiện sức khỏe tôm kém.

Vì nguyên nhân chưa được biết rõ và không xác định chính xác, nó được gọi là “hội chứng cơ thể xanh” hoặc “BBS”. Ngoài ra, tôm thẻ bị xanh thân rất nhạy cảm với các tác nhân gây bệnh khác và các bệnh cơ hội này gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế.

Vai trò của hệ vi sinh vật đường ruột tôm đối với tình trạng sức khỏe tôm

Ruột là môi trường sống tốt nhất cho một loạt các cộng đồng vi sinh vật trong cơ thể động vật, nơi cộng đồng vi sinh vật tác động đến nhiều chức năng quan trọng, trong suốt cuộc đời con vật. Những chức năng này bao gồm tiêu hóa, hấp thụ chất dinh dưỡng, ngăn ngừa sự xâm nhập của mầm bệnh, tốc độ tăng trưởng và kích thích phản ứng miễn dịch trên vật chủ. Do đó, việc duy trì một quần thể vi sinh vật cân bằng trong đường ruột là rất quan trọng. Bởi sự mất cân bằng trong hệ vi sinh vật đường ruột có thể dẫn đến suy giảm khả năng miễn dịch của vật nuôi gây ra các vấn đề về tăng trưởng, phát triển và thậm chí là bệnh tật. Hệ vi khuẩn trong các mẫu tôm bị bệnh đã bị mất đi sự cân bằng giữa nhóm vi khuẩn có lợi và nhóm vi khuẩn có hại. Sự xuất hiện nhiều hơn của các nhóm vi khuẩn có khả năng gây bệnh được xem có sự liên quan tới sự mắc bệnh và gây chết trên tôm.

Nghiên cứu trước đây cho thấy rằng những thay đổi do căng thẳng gây ra trong hệ vi sinh vật đường ruột, sự suy giảm đáp ứng miễn dịch và mất cân bằng hệ vi sinh vật có thể là những yếu tố dự báo sự xuất hiện của mầm bệnh cơ hội.

Vi khuẩn đường ruột và hội chứng xanh thân trên tôm thẻ

Các bằng chứng khoa học đã cho thấy vi khuẩn đường ruột có liên quan mật thiết đến sức khỏe và khả năng miễn dịch của động vật. Đặc điểm của sự khác biệt trong quần thể vi sinh vật trong ruột giữa vật chủ khỏe mạnh và vật chủ bị bệnh cung cấp bước đầu để dự đoán và điều trị bệnh tốt hơn (Berry và Reinisch, 2013). Trong các báo cáo trước đây, thành phần của hệ vi sinh vật trong đường ruột tôm thẻ chân trắng bị hội chứng xanh thân bệnh xanh thân đã không được báo cáo. Trong nghiên cứu của Qing Jian Liang và cộng sự 2020 đã đánh giá sự khác biệt trong cộng đồng vi khuẩn giữa tôm khỏe mạnh và tôm thẻ bị xanh thân bệnh xanh thân. 

Các nhà khoa học đã thu thập các mẫu nước từ các ao có tôm khỏe mạnh và tôm bệnh để tìm hiểu cộng đồng vi khuẩn trong giai đoạn đầu của tôm khỏe mạnh hoặc bị bệnh từ cùng một môi trường sống. 

Kết quả cho thấy, mức độ biểu hiện của các chất kháng khuẩn penaeidin, lectin, crushtins và defensin ở tôm bị hội chứng xanh thân đã giảm so với tôm khỏe mạnh, điều này chứng minh rằng tôm bị hội chứng xanh thân có khả năng tự miễn dịch thấp hơn.. 

Nghiên cứu cũng chỉ ra, các vi khuẩn thuộc ngành Proteobacteria (55,7%), Cyanobacteria (30,5%), Bacteroides (5. 4%), Actinomycetes (1,1%) và Trichomes (0,9%) chiếm ưu thế trong hệ vi khuẩn đường ruột của tôm thẻ chân trắng. 

Sự khác biệt trong cộng đồng vi khuẩn đường ruột có liên quan chặt chẽ với mức độ nghiêm trọng của bệnh tôm. Cấu trúc cộng đồng vi khuẩn trong đường ruột tôm bị bệnh bệnh xanh thân sẽ khác biệt đáng kể so với cấu trúc ở tôm khỏe mạnh và sự khác biệt này ở tôm bệnh xanh thân sẽ đi kèm với sự suy giảm chức năng miễn dịch bẩm sinh.


Tôm thẻ chân trắng bị bệnh xanh thân toàn cơ thể với gan tuy, mang và cơ có màu xanh lam (Hình trên); tôm bình thường (Hình dưới).

Đặc biệt, Rhodobacter là một vi sinh vật cộng sinh có lợi được tìm thấy trong đường tiêu hóa của động vật. Nghiên cứu gần đây cho thấy Roseobacter được phát hiện trong ruột tôm khỏe mạnh (Wang và cộng sự, 2014). Ở ấu trùng cá bơn đại tây dương (Scophthalmus maximus), Roseobacter có khả năng làm giảm tỷ lệ chết (Bruhn và cộng sự, 2005). Bổ sung Rhodobacter gallaeciensis có thể tăng cường khả năng sống sót của ấu trùng sò điệp (Pecten maximus) (Ruiz-Ponte et al., 1999) và Rhodobacter sphaeroides cũng có thể hạn chế sự tồn tại của vi khuẩn gây bệnh và cải thiện khả năng miễn dịch (Hjelm et al., 2004). Trong nghiên cứu này, đã thấy sự phong phú Rhodobacter tăng lên trong tôm nhiễm bệnh xanh thân bệnh xanh thân so với các nhóm tôm khác. Điều thú vị là khi Rhodobacter dồi dào hơn (≥ 5,5%) có thể gây ra bệnh xanh thân trên tôm thẻ chân trắng. 

Những vi khuẩn thuộc chi Pseudomonas và Ralstonia, được coi là những vi sinh vật gây bệnh. Do đó, khi sự phong phú tương đối của Pseudomonas và Ralstonia tăng nhanh chóng sẽ dẫn đến sự xuất hiện của dịch bệnh.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, sự phong phú của chi Shewanella đã giảm đáng kể trong đường ruột của nhóm tôm bị xanh thân BBS. Shewanella là một chủng lợi khuẩn được tìm thấy để thúc đẩy tăng trưởng và cải thiện khả năng chống chịu với căng thẳng ở cá (Varela và cộng sự, 2010). 

Ngoài ra, áp lực môi trường có thể tạo ra những thay đổi đáng kể trong cộng đồng thực vật phù du, do đó phá hủy sự cân bằng nội môi ban đầu của đường ruột tôm và cuối cùng dẫn đến bệnh tật. 

Năng suất vật nuôi có mối liên hệ mật thiết với sức khỏe, và hệ vi sinh vật đường ruột ngày càng được công nhận là động lực quan trọng dẫn đến thành công trong canh tác. Các vi khuẩn sống trong ruột đóng góp vào một số quá trình quan trọng của vật chủ, bao gồm tiêu hóa và miễn dịch. Do đó, cải thiện hệ vi sinh vật đường ruột đã được đề xuất như một giải pháp thay thế khả thi cho việc sử dụng kháng sinh phổ rộng trong quản lý dịch bệnh. Việc bổ sung vi sinh vật có lợi cũng đã chứng minh những tác động tích cực đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của một số loài thương mại khác nhau, bao gồm cả tôm.

Những kết quả này cho thấy, cộng đồng vi khuẩn đường ruột có liên quan chặt chẽ với mức độ nghiêm trọng của bệnh tôm. Sự rối loạn thành phần và suy giảm khả năng miễn dịch của hệ vi sinh vật đường ruột có liên quan chặt chẽ với hội chứng xanh thân ở tôm. Bổ sung vi sinh vật đường ruột có thể có tác động tích cực đến sự tăng trưởng và sức khỏe của tôm nuôi.

Lệ Thủy – https://tepbac.com/

Mỹ hủy bỏ thuế chống phá giá với “vua tôm” Minh Phú

tôm xuất khẩu
Sản phẩm tôm xuất khẩu của Minh Phú. Ảnh: Ngọc Ánh

Doanh nghiệp thủy sản lớn Minh Phú sẽ được tiếp tục xuất khẩu tôm đông lạnh sang Mỹ mà không bị áp thuế chống phá giá như Ấn Độ, hay bất kỳ loại thuế chống phá giá nào khác.

Ngày 17-2, ông Lê Văn Quang, Tổng Giám đốc Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, cho biết doanh nghiệp này vừa nhận được quyết định giải quyết khiếu nại từ Cơ quan Hải quan Mỹ (CBP).

Theo đó, CBP đã huỷ bỏ quyết định đã ban hành ngày 13-10-2020 về việc áp thuế chống phá giá với tôm Ấn Độ lên sản phẩm tôm xuất khẩu từ Minh Phú vào thị trường Mỹ.

“Quyết định mới nhất này cho phép Minh Phú tiếp tục được xuất khẩu tôm đông lạnh vào Mỹ mà không phải chịu thêm thuế chống phá giá áp dụng cho tôm Ấn Độ hay bất kỳ loại thuế chống phá giá nào khác. Tập đoàn thủy sản này cũng được hoàn lại các khoản thuế chống phá giá đã phải tạm nộp (tiền ký quỹ) trước đó” – ông Lê Văn Quang nói.

Trước đó, ngày 13-10-2020, CBP đã dựa theo Đạo luật Thực thi và Bảo hộ (EAPA) công bố kết luận rằng sản phẩm tôm đông lạnh do Minh Phú xuất khẩu vào thị trường Mỹ là đối tượng chịu thuế theo lệnh thuế chống bán phá giá đối với tôm Ấn Độ. Bởi lẽ, Minh Phú đã không cung cấp được đầy đủ bằng chứng như yêu cầu của CBP để chứng minh công ty không sử dụng tôm có nguồn gốc từ Ấn Độ nhằm xuất khẩu sang Mỹ. Với kết luận này, sản phẩm tôm của Minh Phú xuất khẩu sang Mỹ phải chịu lệnh thuế chống bán phá giá như tôm Ấn Độ (khoảng 10%).

Ngay sau đó, doanh nghiệp đã khiếu nại. Trên cơ sở khiếu nại của Minh Phú, cơ quan cấp cao phụ trách về luật pháp và phán quyết của CBP đã phân tích kỹ lưỡng các bằng chứng và hồ sơ truy xuất nguồn gốc từ tôm nguyên liệu, qua các công đoạn sản xuất và xuất khẩu vào Mỹ mà Minh Phú đã cung cấp trong suốt vụ điều tra EAPA từ tháng 10-2019. Từ đó, CBP kết luận doanh nghiệp này không vi phạm các quy định của EAPA và quyết định hủy bỏ việc áp thuế chống phá giá áp dụng cho tôm Ấn Độ đối với những sản phảm xuất khẩu từ Minh Phú.

“Quyết định mới nhất của CBP thể hiện sự xem xét thấu đáo, công bằng và đánh giá chính xác về hệ thống truy xuất nguồn gốc hiệu quả cũng như những nỗ lực hợp tác của Minh Phú trong suốt hơn một năm kể từ khi CBP đã khởi xướng vụ điều tra EAPA vào ngày 9-10-2019” – ông Lê Văn Quang nhận xét.

Ông Quang cho hay để nhận được sự công nhận tại quyết định mới nhất của CBP, Minh Phú đã nỗ lực xây dựng và duy trì hệ thống truy xuất nguồn gốc theo từng loại nguyên liệu, thậm chí từng vùng nuôi, cũng như hệ thống phần mềm lưu trữ và xử lý dữ liệu sản xuất – kế hoạch hiện đại trong nhiều năm.

Ngọc Ánh – Thái Phương Báo Người Lao Động