Khoảng 1 tuần nay, giá tôm hùm xanh thương phẩm tại Khánh Hòa liên tục tăng, hiện có giá 670 ngàn đồng/kg (loại 3-4 con/kg) và 550 ngàn đồng/kg (loại 5 con/kg) tại bè.
Sáng ngày 16/9, ông Nguyễn Ân, Chủ tịch UBND xã Cam Bình, TP Cam Ranh – thủ phủ nuôi tôm hùm xanh ở Khánh Hòa, cho biết, khoảng 1 tuần nay, giá giá tôm hùm xanh trên địa bàn được thương lái thu mua liên tục nhích lên. Hiện tôm loại 3-4 con/kg giá khoảng 670 ngàn đồng, còn tôm loại 5 con/kg khoảng 550 ngàn đồng tại bè. Trong khi trước đó, giá tôm này chỉ ở mức từ 450-470 ngàn đồng/kg.
Theo ông Ân, mặc dù giá tôm hùm tăng nhưng sản lượng tôm thịt đến thời kỳ thu hoạch trên địa bàn không còn nhiều.
Giá tôm hùm tăng nhưng ít người nuôi xuất bán vì không có hàng. Ảnh: KS.
Về vấn đề trên, anh Nguyễn Văn Hậu, một người nuôi tôm hùm ở thôn Bình Ba Tây, xã Cam Bình xác nhận và cho biết, để xuất bán lứa tôm đợt này, người nuôi phải thả giống từ tháng 11 âm lịch năm ngoái. Tuy nhiên thời điểm đó giá tôm giống ở mức cao dao động từ 40-50 ngàn đồng/con nên ít người thả.
“Với giá tôm hiện nay, người nuôi xuất bán cũng không lời bao nhiêu vì các chi phí đầu tư từ con giống, thức ăn, hao hụt đều tăng cao. Như anh bạn vừa mới xuất bán tôm chỉ lời 8-10 triệu/lồng”, anh Hậu nói.
Với giá tôm hùm xanh hiện nay, người nuôi xuất bán cũng không lãi mấy, vì các chi phí đầu tư lứa này đều tăng cao. Ảnh: KS.
Không chỉ giá tôm hùm xanh nhích lên, mà tôm hùm bông (tôm sao) cũng tăng mạnh. Theo người nuôi, hiện tôm này được thu mua từ 1,1-1,3 triệu đồng/kg (tùy loại), trong khi tuần trước giảm xuống chỉ còn khoảng 800-900 ngàn đồng/kg.
Liên quan về giá tôm hùm tăng, một doanh nghiệp ở Cam Ranh chuyên xuất tôm hùm sang thị trường Trung Quốc cho biết, nguyên nhân giá tôm tăng là do nguồn cung khan hiếm, trong khi nhu cầu người tiêu dùng vẫn bình thường. Hiện việc xuất khẩu tôm hùm sang thị trường Trung Quốc của doanh nghiệp vẫn đóng hàng bay, chứ chưa đi được qua các cửa khẩu.
Xuất khẩu tôm khả quan giúp ngành tôm được vực dậy sau khoảng thời gian ảm đạm do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
Giá tôm tại vùng ĐBSCL đã tăng trở lại, thị trường xuất khẩu tôm cũng đã xuất hiện những tín hiệu khởi sắc. Với việc Hiệp định Thương mại tự do EU – Việt Nam (EVFTA) có hiệu lực, các tỉnh có thế mạnh về con tôm tại ĐBSCL đang rất kỳ vọng tình hình xuất khẩu thời gian tới sẽ khả quan hơn, ngành tôm được vực dậy sau khoảng thời gian ảm đạm do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
Tại tỉnh Trà Vinh, hiện tôm sú được các thương lái đến tận ao thu mua với giá khoảng 180.000 – 200.000 đồng/kg; tôm thẻ chân trắng có giá 95.000 – 150.000 đồng/kg, bình quân tăng khoảng 20.000 đồng/kg so với đầu vụ.
Ông Trần Thanh Nghiệp (ở xã Hiệp Mỹ Đông, huyện Cầu Ngang) nơi có diện tích chuyên canh tôm thẻ lớn nhất tỉnh Trà Vinh cho biết, đầu vụ thời tiết bất lợi tôm hao hụt nhiều, giá thấp. Nay giá tôm tăng trở lại nông dân phần nào đỡ khó khăn hơn.
“Trong vụ đầu nuôi tôm có gặp thất bát nhưng mọi người tiếp tục nuôi vụ thứ hai. Đến nay chỉ còn 2 tháng nữa là cho thu hoạch, dự kiến thu lãi trên dưới trăm triệu đồng, gỡ được phần lỗ trước đây”, ông Nghiệp cho biết.
Tại tỉnh Bạc Liêu, giá tôm gần đây cũng đã có chuyển biến. Hiện giá tôm sú loại 20 – 25 con/kg có giá từ 190.000 – 200.000 đồng/kg; tôm càng xanh từ 20-30 con/kg, có giá từ 170.000 – 200.000 đồng/kg. Tín hiệu tích cực từ giá tôm làm bà con phần nào đỡ lo lắng và kích thích họ cải tạo ao, mở rộng diện tích nuôi.
Tại huyện Hồng Dân, đến thời điểm này, nông dân trong huyện đã thu hoạch tôm nuôi vụ 2 được gần 20.000 trong tổng số 25.500 ha, với năng suất tăng hơn 50kg/ha so với cùng kỳ. Niềm vui của bà con nhân đôi khi vừa được mùa mà giá tôm thương phẩm cũng đã tăng.
Dự báo tình hình thị trường tôm thời gian tới được dự báo tiếp tục khởi sắc.
“Nuôi tôm sú năm nay đạt năng suất từ 200-300 kg/ha, tôm càng đạt khoảng 500 – 700kg/ha. Hồi đầu năm giá tôm có phần bấp bênh nhưng đến nay giá tôm kể cả tôm thẻ, tôm sú và tôm càng đang có chiều hướng tăng từ 5%-10% nên người nuôi tôm thấy phấn khởi”, ông Nguyễn Công Danh (ở xã Vĩnh Lộc, huyện Hồng Dân) chia sẻ.
Theo ngành chức năng các địa phương trong vùng ĐBSCL, nguyên nhân giá tôm tăng là do dịch Covid-19 ở nước ta đã từng bước được khống chế. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã mở cửa lại thị trường, tình hình xuất khẩu tôm đang từng bước ổn định trở lại. Đặc biệt, vừa qua hiệp định EVFTA có hiệu lực, những lợi thế về thuế quan tại thị trường EU cũng góp phần không nhỏ trong kích thích thị trường xuất khẩu, làm giá tôm nguyên liệu tăng.
Tại Cà Mau – tỉnh đứng đầu cả nước về xuất khẩu tôm, kim ngạch xuất khẩu tháng 7 vừa qua đạt 94 triệu USD, tháng 8 đạt khoảng 100 triệu USD. Trong 3 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu tôm của Cà Mau tăng trung bình khoảng 10% mỗi tháng.
Ông Dương Vũ Nam, Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Cà Mau cho biết, thị trường xuất khẩu tôm trong nước bắt đầu từ tháng 3 nhưng đối diện với khó khăn do dịch Covid-19. Tuy nhiên, những dấu hiệu hiện nay là hết sức khả quan, dự báo thời gian tới xuất khẩu tôm sẽ còn tăng.
Ông Nam cho rằng, cú hích quan trọng cho thị trường đến từ mức ưu đãi thuế quan đối với xuất khẩu tại thị trường EU khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay nước ta đang nắm lợi thế khi khống chế tốt dịch Covid-19, tình hình sản xuất không bị trì trệ, trong khi nhiều nước cạnh tranh trực tiếp với ta vẫn đang phải đối mặt với làn sóng Covid-19.
“Nhìn chung tôm Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh với Ấn Độ, Ecuador vì các nước này chưa kiểm soát được dịch Covid-19 nên các đối tác không nhập hàng của nước này. Trong khi sản phẩm tôm của nước ta đã có thương hiệu, nên được các nước trên thế giới lựa chọn, khiến kim ngạch xuất khẩu tôm những tháng gần đây tăng rất nhanh”, ông Nam phân tích.
Trước những tín hiệu tích cực từ thị trường, dự báo thời gian tới tình hình xuất khẩu tôm sẽ khả quan hơn. Đặc biệt, tại thị trường EU với Hiệp định EVFTA đang mang lại nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp nước ta. Tuy nhiên, EU luôn là thị trường rất khó tính, người dân, doanh nghiệp cần chủ động trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, nguồn và chất lượng hàng để đáp ứng được các tiêu chuẩn của thị trường này.
Nhiều năm qua, trồng lúa kết hợp nuôi tôm sú được xem là mô hình bền vững trên địa bàn huyện Thới Bình. Con tôm sú đã giúp giảm nghèo, nhiều hộ vươn lên khá giàu, cá biệt có những hộ thu nhập hơn 300 triệu đồng/ha/năm. Tuy nhiên, vụ nuôi năm 2019 – 2020, tôm sú mùa nước mặn phát triển chậm, giá cả không ổn định, người nuôi chịu nhiều thiệt hại. Bù lại, bà con thắng lợi vụ thu hoạch tôm thẻ chân trắng.
Ông Nguyễn Văn Hiện, Trưởng ban Nhân dân ấp Lê Hoàng Thá, xã Tân Bằng, cho biết: “Vụ tôm sú vừa qua, gia đình tôi thả nuôi hơn 2ha, sau hơn 3 tháng chăm sóc, tôm không lớn do nắng nóng và độ mặn tăng cao, buộc phải thu hoạch sớm, tôm chỉ đạt trọng lượng 70 – 80 con/kg, giá bán hơn 70.000 đồng/kg. Thu hoạch hòa vốn, lỗ công chăm sóc và mất thời gian. Đây là năm đầu tiên gia đình tôi và người dân nơi đây thất bại trong vụ tôm sú đầu. Hơn nữa, mùa hạn mặn năm 2019 – 2020 này, người nuôi tôm sú đạt hiệu quả không cao, nhất là từ sau Tết Nguyên đán, nhiều người dân địa phương nuôi tôm sú bị lỗ nặng, vì tôm quá nhỏ, không bán được; trong khi đó, các điểm thu mua tôm nguyên liệu tại các xã và ở các xóm ấp cũng hạn chế thu mua. Gia đình tôi cùng nhiều bà con đã quyết định chuyển hẳn sang mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng”.
Với 4ha nuôi tôm sú không thành công, ông Lê Minh Toàn (ấp Sông Cái, xã Biển Bạch Đông) chuyển sang thả nuôi hơn 150.000 con tôm thẻ chân trắng giống. Hơn 2 tháng chăm sóc, ông thu hoạch gần 3 tấn, bán được gần 200 triệu đồng. Ông Toàn cho biết, dọc tuyến Kênh 500 này, trước đây bà con đều nuôi tôm sú, nhưng từ ngày độ mặn tăng cao, tôm sú chậm lớn, rủi ro liên tục, nhiều hộ tự chuyển đổi sang nuôi tôm thẻ chân trắng và trúng đậm.
Khoảng tháng 10/2019, gia đình anh Nguyễn Văn Tổng (Ấp 2, xã Thới Bình) thả nuôi tôm sú trên diện tích hơn 5ha, nhưng gần 3 tháng chăm sóc, thấy tôm chậm lớn, gia đình chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng. “Lúc đầu, mô hình này cũng không mấy hiệu quả, do chúng tôi chưa nắm vững kỹ thuật nuôi. Nhờ tìm tòi, học hỏi, nên từ sau tết Nguyên đán đến nay, gia đình thu hoạch hơn 10 tấn tôm, thu nhập hơn 600 triệu đồng”, anh Tổng chia sẻ.
Theo anh Trịnh Thanh Luận (ấp Trương Thoại, xã Biển Bạch) cho biết, nuôi tôm thẻ chân trắng là mô hình mới với người dân nơi đây. Mô hình này dễ chăm sóc, tiện lợi và kỹ thuật nuôi đơn giản hơn nhiều so với nuôi tôm sú, cũng không tốn nhiều thời gian, nên đã thu hút nhiều hộ dân thực hiện. “Vụ tôm thẻ chân trắng vừa qua, chỉ gần 2 tháng chăm sóc, với 3ha, gia đình tôi thu hoạch được hơn 1,2 tấn, tôm đạt trọng lượng 100 con/kg, giá bán 70.000 đồng/kg, sau khi trừ các chi phí, lợi nhuận gần 70 triệu đồng”, anh Luận nói.
Ông Nguyễn Trang Nghiêm, Chủ tịch UBND xã Biển Bạch Đông cho biết, theo thống kê của xã, mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng ở địa phương đang phát triển mạnh trên diện tích hơn 4.000ha. Hơn nữa, gần đây các đại lý tôm giống đã đến thuê đất xây dựng trại ương, vèo tôm giống phục vụ người dân nơi đây, nên diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng tăng cao. Thêm nữa, các công ty, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đến thành lập các điểm thu mua, đến trực tiếp tại từng hộ dân, tạo sự ổn định về đầu ra cho con tôm thẻ chân trắng nguyên liệu, nên người dân mạnh dạn thả nuôi, thu nhập bình quân từ tôm thẻ chân trắng hơn 15 triệu đồng/ha/vụ. “Nhờ vậy, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng tiếp tục mở rộng, sản lượng tôm cũng tăng cao, đồng nghĩa với việc nhiều hộ dân địa phương ổn định thu nhập”, ông Nghiêm khẳng định.
Với sự linh hoạt của nông dân, cùng sự quan tâm chuyển đổi đối tượng nuôi phù hợp của các cấp, các ngành, mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng mùa hạn mặn tại Thới Bình đã “cứu” mùa tôm sú kém hiệu quả. Ông Nguyễn Hoàng Lâm, Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện, cho biết: “Hiện nay, tổng diện tích thả nuôi tôm thẻ chân trắng của huyện ngày càng tăng cao. Dự kiến sản lượng thu hoạch vụ này đạt trên 20.000 tấn. Nhờ sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt kết quả cao nên sẽ bù đắp nguyên liệu thiếu hụt từ hơn 10.000ha tôm sú chậm lớn. Huyện đang kiến nghị xây dựng đề án chuyển đổi cây trồng vật nuôi theo hướng đa canh, đa con trên cùng diện tích, nhằm nâng cao thu nhập cho người dân trong bối cảnh dịch COVID-19 còn diễn biến phức tạp”.
Những năm gần đây nuôi tôm trong bể ngày càng phát triển mạnh ở Bắc Mỹ và Châu Âu. Mô hình đang dần trở nên quen thuộc đối với các khu vực nuôi ở vùng nhiệt đới.
Một trong những lí do mô hình trở thành xu hướng tất yếu chính là sự gần gũi với thị trường, khả năng cung cấp sản phẩm tươi sống đến người tiêu dùng. Bên cạnh đó mô hình sẽ giảm đi các trung gian về đông lạnh trong chuỗi cung ứng. Đặc biệt hơn xu hướng này sẽ phù hợp với các quốc gia thiếu đất canh tác, thiếu nguồn nước thích hợp mặc dù các điều kiện còn lại đều rất thỏa mãn.
Thực tế, nuôi tôm trong hệ thống bể không phải là một khái niệm mới lạ. Năm 2004, Baron Sevilla và cộng sự đã công bố kết quả thí nghiệm nuôi tôm trong hệ thống RAS (hệ thống nuôi tuần hoàn khép kín). Mô hình nuôi trong hệ thống có tổng thể tích là 11m3 và gần phân nữa là trong bể nuôi. Sau 5 tháng, thu hoạch khoảng 10kg tôm/m3.
Ở những hộ nuôi quy mô nhỏ, họ áp dụng cả phương pháp RAS và Biofloc. Tỉ lệ thu hoạch trong hệ thống RAS ở Mỹ trung bình từ 4-7 kg/m3. Trong giai đoạn ương, mật độ nuôi là 2000-3000 con giống/m3 và khi tôm đạt khoảng 1g (1000 con/m3) thì chuyển sang bể nuôi thương phẩm với mật độ là 250 con/m3, tỉ lệ sống đạt gần 80%. Với sự biến động về số lượng, Biofloc được áp dụng thêm nhằm tối ưu hóa FCR (hệ số chuyển đổi thức ăn). Như vậy hệ thống này đảm bảo sử dụng năng lượng hiệu quả hơn, dễ quản lí, chất lượng nước cũng được giữ ngày qua ngày. Tuy vậy, khả năng dễ tổn thương từ sự cố máy móc, an toàn sinh học cũng là vấn đề đáng quan tâm của nuôi tôm trong hệ thống bể.
Biofloc, một phương pháp quản lí chuyên sâu có thể thay thế cho RAS trong các mô hình nuôi bể bằng cách nuôi quần thể vi khuẩn chung nguồn nước với nuôi tôm nhằm xử lý chất thải trong nước và cung cấp thêm nguồn dinh dưỡng. Chúng ta có thể kết hợp cả 2 phương pháp, nhưng thực tế việc kết hợp không phổ biến mấy. Một thí nghiệm kết hợp của 2 phương pháp trên cho kết quả như sau: thả 500 giống/m3, sản lượng 2.7 kg/m3 tại 60 ngày nuôi (FCR là 1.1, tỉ lệ sống là 78% và trọng lượng trung bình là 7g) và 4.2 kg/m3 vào ngày thứ 84 (FCR 1.54, tỉ lệ sống 70%, trọng lượng trung bình 12.06 g).
Các vấn đề thường gặp trong nuôi tôm hệ thống bể
Khi áp dụng nuôi bằng mô hình này, người nuôi sẽ gặp các câu hỏi như: kĩ thuật như thế nào, chi phí và vốn ra sao, con giống, sự phân phối điện năng và chất lượng nước,… và câu trả lời thì hoàn toàn khác nhau ở mỗi vùng, chúng phụ thuộc vào các dự án đã được phát triển tại khu vực đó để có số liệu cụ thể nhất.
Tại Indonesia, công nghiệp nuôi tôm quy mô nhỏ đều có định mức. Ridwan Latif và đồng sự đã thực hiện nuôi tôm trong hệ thống RAS quy mô nhỏ với mật độ giống là 400 con/m3, tỉ lệ sống là 70%, FCR là 1-1.11. Như vậy tỉ lệ giữa lợi nhuận và chi phí là 1.56, tỉ lệ hoàn vốn là 32.66% và tỉ lệ doanh thu/ chi phí là 1.49.
Cũng như các hệ thống RAS và Biofloc khác thì yêu cầu thiết nhất của hệ thống là sục khí, nguồn điện phải liên tục và thiết kế dụng cụ phải phù hợp với kiểu bể nuôi. Sục khí sẽ ngăn chặn việc lắng tụ của các chất rắn và luôn giữ DO trên 5ppm, với khoảng 200 dòng khí/phút cho mỗi kg thức ăn. Ở vùng ôn đới, việc duy trì nhiệt độ ở 27oC thể hiện sự cân bằng về chi phí nhiệt, sự tăng trưởng và giảm stress. Máy bơm nhiệt nối đất hoặc máy nước nóng có vòng PEX sẽ luân chuyển nước ấm qua các ống chìm. Độ mặn 20ppt (20 phần nghìn) giúp cân bằng chất lượng nước, sức khỏe tôm và chi phí vận hành. Chúng ta có thể hòa muối cùng một số hỗn hợp nguyên liệu khác sẽ rẻ hơn gói hỗn hợp có sẵn.
Ở châu Âu và Bắc Mỹ, mô hình nuôi tôm trong bể có ý nghĩa tài chính đối với nuôi quy mô nhỏ nhằm mục đích bán tôm lớn hơn 20 g.
Những lưu ý trong nuôi tôm trên bể
Nuôi tôm trong bể ở cả vùng ôn đới và nhiệt đới đều có thể xây trong nhà nuôi (tùy theo mục đích người sử dụng). Cần đặc biệt chú ý đến đường dây điện và chỗ ra điện cho sản xuất, đối với nuôi bể ngoài trời cần có thêm mạch ngắt điện chạm đất. Nền nuôi có thể đơn giản là trải cát, đá hoặc tráng xi măng và có đường rãnh thoát nước. Ở khu vực ôn đới cần chú ý tường và trần nhà phải cách điện, đảm bảo đủ thông thoáng nhằm hạn chế ảnh hưởng của độ ẩm và nấm mốc. Ở vùng nhiệt đới, xây nhà nuôi không cần thiết lắm, nhưng nếu có thì đây sẽ trở thành khu vực an toàn sinh học tốt hơn.
Khi nuôi tôm trong hệ thống bể thì yếu tố về kĩ thuật và kinh tế cần được giải quyết rõ ràng và hợp lí. Sự lựa chọn kĩ thuật và chuyên môn quản lí sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi của mô hình. Dù áp dụng kĩ thuật và cách quản lí như thế nào thì lợi nhuận khi nuôi luôn phụ thuộc vào chi phí vốn đầu tư, chi phí vận hành, tỉ lệ sống, tỉ lệ tăng trưởng và thị trường. Cả Bắc Mỹ và Châu Âu đều quan trọng về quy mô kinh tế của mô hình nuôi này. Để có thể cạnh tranh ở các thị trường này, con tôm đòi hỏi phải có kích thước lớn, trọng lượng trung bình mỗi con phải lớn hơn 20g.
Ví dụ điển hình
Công ty Nuôi trồng thủy sản RDM, một trong những công ty tiên phong về nuôi tôm trong bể theo hệ thống Biofloc ở Fowler, Indiana (Mỹ). RDM đã trải qua 12 năm hoạt động và đang phát triển ổn định, phó chủ tịch Karlanea Brown cho biết rằng khi hệ thống bắt đầu thì điều cô không lường trước được chính là “không biết nuôi tôm” và với sự thành công như bây giờ cô chia sẽ “tất cả là nhờ sự thiết kế hệ thống riêng của công ty và cách quản lí nước”.
Một thuận lợi của RDM’s Biofloc chính là không xả thải, điều này cho phép công ty tránh được các vấn đề về pháp luật môi trường. RDM tự làm nước nuôi của riêng họ và họ chỉ làm thêm nước này khi mở rộng sản xuất. Như vậy nước nuôi ban đầu đến nay họ đã quản lí được 10 năm. Những ngày đầu họ chỉ có 2 bể ương và 6 bể nuôi, nay đã tăng lên 19 bể lớn, 7 bể nhỏ và 10 bể ương. Họ đang có kế hoạch nâng thêm 24 bể nữa trong năm 2021.
RDM cho biết rằng những trang trại vận hành theo mô hình hệ thống bể nếu muốn mở rộng sản xuất dần cần phải có nguồn nước hợp lí, đó chính là chìa khóa của vấn đề. “Cần phải kiên trì, nhiều người không thể theo đuổi nổi vì hai nguyên nhân, hoặc thiếu vốn hoặc thiếu lao động, năm đầu tiên hoạt động sẽ cực kì tồi tệ” theo Brown.
RDM cho biết, mô hình nuôi có tỉ lệ sống chiếm 70-90% phụ thuộc vào giống tôm. Nguồn giống của RDM được cung cấp bởi các trại giống ở Mỹ. Tuy nhiên những năm gần đây nguồn giống trở nên khó khăn hơn khi bị ảnh hưởng từ bão và một số trại giống phải đóng cửa do dịch bệnh. Hiện họ sử dụng trên 3 nhà cung cấp giống tiềm năng.
Ngoài những yếu tốt trên thì để thúc đẩy việc tiêu thụ, họ đặt vị trí trang trại nằm ở giữa các thành phố chỉ mất không quá vài giờ để đến, bên cạnh đó họ mở bán 6 ngày trên tuần nhằm mang đến dịch vụ tôm tươi sống tốt nhất cho khách hàng. Trong tương lại RDM muốn mở rộng thêm việc nuôi tôm nước ngọt, đa dạng hóa sản phẩm của họ.
Xác định nuôi tôm là một trong những hướng đi chủ lực trong phát triển nông nghiệp, Hà Tĩnh tiếp tục đẩy mạnh nuôi tôm thâm canh công nghệ cao tại nhiều địa phương.
Theo Chi cục Nuôi trồng thủy sản Hà Tĩnh, đến thời điểm này, toàn tỉnh có gần 920 ha nuôi tôm thâm canh công nghệ cao, góp phần tận dụng tiềm năng của địa phương, mang lại giá trị kinh tế cao trên đơn vị diện tích cho người dân.
Thời gian qua, Hà Tĩnh tiếp tục nhân rộng mô hình nuôi tôm thâm canh công nghệ cao trên cát, trong hệ thống bể tròn, nuôi an toàn sinh học theo quy trình VietGAP…
Nuôi tôm công nghệ cao mang lại giá trị kinh tế cao trên đơn vị diện tích cho người dân.
Với hình thức này, người nuôi có thể chủ động kiểm soát tốt môi trường, cung cấp dinh dưỡng theo quy trình chuẩn, tôm lớn nhanh, chống dịch bệnh tốt, cho năng suất vượt trội với trung bình: từ 10 – 20 tấn/ha/vụ trong ao đất; 20 – 30 tấn/ha/vụ trên cát hoặc trong bể tròn nổi, bể vuông.
Diện tích nuôi thâm canh công nghệ cao hiện đang tập trung ở các “vựa” tôm quy mô lớn của tỉnh là: Nghi Xuân, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, Lộc Hà…
Nuôi tôm thâm canh công nghệ cao, an toàn sinh học vẫn là hướng đi phù hợp trong thời gian tới.
Nhiều doanh nghiệp, HTX nhờ đầu tư công nghệ đã liên tục phát triển và đem lại giá trị kinh tế cao trong sản xuất, tiêu biểu như: HTX Nuôi trồng thủy sản Xuân Thành, hộ nuôi tôm ông Bùi Tùng Phong (Nghi Xuân), HTX Nuôi trồng thuỷ sản Xuân Quý (Lộc Hà), HTX Nuôi trồng thủy sản Tiểu Láng (Kỳ Anh), Công ty Grobest (TX Kỳ Anh).
Thời gian tới, mô hình nuôi tôm thâm canh công nghệ cao, an toàn sinh học theo quy trình VietGAP vẫn là hướng đi phù hợp, mang lại giá trị kinh tế cao cho các vùng nuôi tôm của tỉnh. Vì thế, tỉnh cần tiếp tục có chính sách hỗ trợ, đầu tư xây dựng hạ tầng vùng nuôi để tạo điều kiện cho người dân phát triển sản xuất. Thái Oanh Báo Hà Tĩnh
Nhiều nhà nhập khẩu châu Âu đã tìm đến tôm Việt Nam khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực. Nửa đầu tháng 8 năm nay, XK mặt hàng này sang EU đạt 29,4 triệu USD, tăng 26% so với cùng kỳ năm 2019.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, EU là thị trường nhập khẩu (NK) tôm lớn thứ tư của Việt Nam sau Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc, chiếm 13,3% tổng giá trị xuất khẩu (XK) tôm của Việt Nam. XK tôm Việt Nam sang EU giảm liên tục từ tháng 3 đến tháng 6 năm nay. Tuy nhiên, XK sang thị trường này tháng 7 và 8 có dấu hiệu tăng so với những tháng trước đó và so với cùng kỳ năm ngoái.
Xuất khẩu tôm sang thị trường EU được dự báo tăng mạnh trong những tháng cuối năm 2020 (Ảnh Int)
Cụ thể, sau khi giảm liên tục từ tháng 3 đến tháng 6 năm nay, XK tôm Việt Nam sang EU trong tháng 7/2020 đạt 54,2 triệu USD, tăng 2% so với tháng 7/2019. Nửa đầu tháng 8 năm nay, XK mặt hàng này sang EU đạt 29,4 triệu USD, tăng 26% so với cùng kỳ năm 2019. XK tôm sang EU tháng 8 năm nay có thể tăng khoảng 20% so với tháng 8/2019.
Ngay khi EVFTA có hiệu lực, thuế xuất khẩu một số mặt hàng tôm Việt Nam sang EU về 0%: Tôm mã HS 03061100 (tôm hùm xanh ướp đá; tôm sú HOSO, DP đông lạnh; tôm sắt PD tươi đông lạnh; tôm mũ ni vỏ, nguyên con, xẻ đông lạnh…) từ mức hiện tại 12,5%; Tôm mã HS 03061710 (tôm sú PD đông lạnh, tôm sú nguyên con HOSO đông lạnh, tôm sú tươi đông lạnh, tôm sú thịt đông lạnh, tôm sú HLSO tươi đông lạnh, tôm sú đông IQF, tôm chân trắng thịt đông lạnh…) từ mức hiện tại 20%; Tôm mã HS 03061791, 03061792, 03061793, 03061799 từ mức 12% hiện tại.
Sau 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, tôm mã HS 03061794 sẽ giảm về 0% từ 18%. Sau 7 năm: tôm mã HS 16052110 (tôm dạng bột nhão) và tôm mã HS 16052190 (tôm khác) sẽ được điều chỉnh từ mức 20% về 0%.
Trong khi các đối thủ cạnh tranh chủ yếu trên thị trường EU như Thái Lan không được hưởng GSP, không có FTA nên có mức thuế cơ bản 12%; Ấn Độ không có FTA nên chịu thuế GSP 4,2%; Indonesia chịu thuế GSP 4,2% và Ecuador vẫn chịu mức thuế cơ bản 12%. Vì vậy, Hiệp định EVFTA có hiệu lực từ đầu tháng 8/2020 sẽ mang đến hi vọng cho XK tôm Việt Nam sang thị trường EU trong những tháng cuối năm.
Tuy nhiên, VASEP cho rằng, ngành tôm Việt Nam cần biết rõ thị hiếu của người tiêu dùng châu Âu để tận dụng được cơ hội này. Tại châu Âu, dịch bệnh COVID-19 đã có tác động nhiều tới xu hướng của các nhà nhập khẩu châu Âu và thói quen tiêu thụ tôm của người dân châu Âu. Nhu cầu tôm tại lĩnh vực dịch vụ nhà hàng giảm mạnh trong khi nhu cầu tôm tại các hệ thống bán lẻ tăng do người dân mua về chế biến tại nhà. Tiêu thụ các sản phẩm tôm tươi ít hơn trong khi các sản phẩm đông lạnh, đóng gói ăn liền, sản phẩm đóng gói kiểu MAP tăng.
Những năm gần đây, người tiêu dùng châu Âu ngày càng chủ động quan tâm đến sản phẩm bền vững. Khi dịch COVID-19 xảy ra, xu hướng này lại càng rõ nét. Người châu Âu ưu tiên sản phẩm được chứng nhận, đảm bảo không chỉ tính bền vững mà còn phải truy xuất được nguồn gốc, lành mạnh, được sản xuất an toàn và vệ sinh.
Hiện nay, hầu hết hệ thống phân phối sản phẩm tôm cao cấp tại EU đều yêu cầu ASC nhưng diện tích nuôi tôm đạt chứng nhận này ở Việt Nam mới đạt khoảng 6%/tổng diện tích nuôi. Nguyên nhân là do tôm nuôi của Việt Nam đa phần nhỏ lẻ, các hộ nuôi không kham nổi chi phí chứng nhận, chỉ có trang trại nuôi lớn mới đáp ứng được. Do đó, để đón đầu được cái ưu đãi mà EVFTA mang lại, Nhà nước cần có những biện pháp khuyến khích, ưu tiên nhằm đẩy mạnh diện tích nuôi tôm đạt tiêu chuẩn này.
Sau một thời gian giảm sâu, những ngày cuối tháng 8 đầu tháng 9 này giá tôm nguyên liệu tại Bạc Liêu tăng trở lại, thị trường mua bán nhộn nhịp, nhiều nơi đang xảy ra hiện tượng hút hàng.
Theo người nuôi tôm tỉnh này cho biết, hiện giá tôm thẻ chân trắng tăng trên dưới 20.000 đồng/kg so với tháng trước. Cụ thể, tôm thẻ chân trắng nuôi theo mô hình công nghiệp, loại từ 22-25con/kg giá 160.000 đồng; loại 26-30 con giá 146.000 đồng/kg; loại 35-40 con 126.000 đồng/kg; loại 55-60 con giá 100.000 đồng/kg.Tôm sú loại 20 con có giá dao động từ 180.000 – 190.000 đồng/kg; riêng tôm sú sống (chạy oxy) loại 30 giá trên 200.000 đồng/kg. Đặc biệt, loại tôm sú sống luôn hút hàng, thị trường tiêu thụ trong nước ưa chuộng, người tiêu dùng ngày một tăng, dù trong tình hình dịch COVID-19 còn diễn biến phức tạp.Ông Ngô Quang Hùng, nuôi tôm tại huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu phấn khởi cho biết, hiện tôm nuôi của gia đình đạt size khoảng 30 con/kg. Với 2.000 m2 mặt nước tôm nuôi theo mô hình siêu thâm canh, ước tính vụ này cho năng suất đạt khoảng 14 tấn. Theo tính toán, với giá tôm hiện tại, sau khi trừ các khoảng chi phí, vụ này cho lãi lên đến 50% so với tổng vốn đầu tư ban đầu.Theo ông Hùng, giá tôm nguyên liệu tăng mạnh trong những ngày gần đây là nhờ thị trường xuất khẩu tôm Việt Nam thuận lợi trở lại. Nhiều công ty, doanh nghiệp có hợp đồng, đơn đặt hàng mới, nguồn hàng tồn kho dần được “giải phóng”, đã kích thích thị trường sản xuất, chế biến, nuôi mới trên địa bàn.Theo nhận của các doanh nghiệp, nếu nhu cầu tiêu thụ các nước tăng trở lại, thị trường xuất khẩu ổn định, thì giá tôm nguyên liệu sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới, người nuôi tôm trong nước dần sản xuất ổn định trở lại.Trước giá tôm tăng trở lại, người nuôi tôm tỉnh này đang có xu hướng mở rộng diện tích thả nuôi, nhất là đầu tư nuôi tôm theo mô hình công nghiệp, siêu thâm canh. Tuy nhiên, vấn đề người dân đang gặp phải khó khăn là nguồn vốn tái đầu tư, hệ thống cơ sở hạ tầng, điện phục vụ nuôi tôm công nghiệp. Bên cạnh đó, vấn đề môi trường nước vùng nuôi, dịch bệnh trên tôm, khâu quản lý vật tư đầu vào, giá cả thức ăn, thuốc…Bạc Liêu có diện tích nuôi trồng thủy sản hơn 130.000 ha; trong đó, 80% người dân nuôi tôm theo mô hình nhỏ lẻ, hộ gia đình. Phần lớn, trong số này sản xuất theo mô hình truyền thống, còn hạn chế về kỹ thuật, thông tin thị trường… lợi nhuận chưa tương xứng so với vốn đầu tư, công lao động, hoặc thua lỗ nặng một khi giá tôm trên thị trường không ổn định.