Bạn tìm thông tin gì?

Blog

Đài Loan tăng mua tôm Việt

Theo thống kê của ITC, Việt Nam đứng thứ 2 trong top các thị trường tôm xuất vào Đài Loan.

9 tháng đầu năm, xuất khẩu tôm sang thị trường Đài Loan (Trung Quốc) đạt 41,9 triệu USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ 2018. Đây là mức tăng tốt nhất trong top 10 thị trường nhập khẩu chính tôm của Việt Nam.

dai loan tang mua tom viet

Đài Loan ưa chuộng tôm sú từ Việt Nam, chủ yếu như tôm sú nguyên con tươi đông lạnh, tôm sú nguyên con tươi xẻ bướm đông lạnh, tôm sú thịt đông lạnh, tôm sú PUD đông lạnh. Tôm sú nguyên con tươi đông lạnh xuất sang Đài Loan có giá 6-8 USD một kg. Bên cạnh đó, Đài Loan cũng nhập từ Việt Nam tôm chân trắng thịt đông lạnh, tôm chân trắng PTO nobashi, tôm chân trắng PD luộc đông lạnh, tôm chân trắng sushi hấp đông lạnh…

Theo thống kê của ITC, Việt Nam đứng thứ 2 trong top các thị trường tôm xuất vào Đài Loan, chiếm 16,6%.

Sáu tháng đầu năm, trong top 4 nguồn cung chính, nhập khẩu tôm vào Đài Loan từ Việt Nam và Honduras tăng trưởng tốt trong khi tôm từ Thái Lan sụt giảm mạnh.

Tỷ trọng xuất khẩu tôm Việt Nam sang Đài Loan chưa tăng như kỳ vọng là do thuế nhập vào thị trường này còn cao (khoảng 20%), đồng thời thị trường này áp dụng quy định khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm, kiểm dịch thường xuyên điều chỉnh, sửa đổi.

Tuy nhiên, Đài Loan là thị trường nhiều tiềm năng cho tôm Việt Nam với thị hiếu đa dạng, cộng đồng người Việt khá đông đảo. Nhu cầu nhập tôm của Đài Loan cũng có xu hướng tăng những năm gần đây.

Đầu tháng 10/2019, Cơ quan Quản lý Thực phẩm Dược phẩm Đài Loan đã công bố danh sách 638 nhà máy, công ty thủy sản Việt Nam được phép xuất khẩu vào thị trường này.

Người Đài Loan thường ít dự trữ thực phẩm, do đó đóng gói hàng hóa nên nhỏ gọn, thiết kế đẹp mắt, kèm đầy đủ hướng dẫn sử dụng.

“Chạy” theo thịt lợn, giá tôm vụ thu – đông tăng 30%

Hơn một tuần nay, giá tôm bất ngờ tăng mạnh khiến cho người nuôi tôm vụ thu đông Hà Tĩnh rất phấn khởi. Nhiều vùng nuôi tôm đang tập trung chăm sóc chờ ngày thu hoạch.

Vùng nuôi tôm của một công ty ở huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh) hiện đang tiến hành thu hoạch tỉa tôm vụ thu – đông, công ty cho biết: Vụ tôm thu – đông của công ty có diện tích hơn 2,5 ha với 10 ao nuôi. Sau 80 ngày thả giống, đến nay, tôm đã bắt đầu bước vào kỳ thu hoạch. Ước tính, vụ tôm này cho sản lượng khá cao, khoảng 25 tấn tôm thương phẩm.


Nông dân Hà Tĩnh thu tỉa tôm vụ thu – đông.

“Năm nay, công ty đổi mới công nghệ sản xuất giống, du nhập tôm bố mẹ từ Mỹ về nên đạt năng suất cao. Hiện, công ty đang cho thu hoạch với nhiều kích cỡ tôm khác nhau, trong đó có loại đạt 48 – 50 con/kg. Điều đáng nói, giá tôm hiện tại đang tăng mạnh, tôm có kích cỡ 40 – 50 con/kg bán với giá hơn 200 nghìn đồng/kg; cỡ tôm 60 – 70 con/kg bán với giá 180.000 đồng/kg; 80 – 90 con/kg bán với giá 150.000 đồng/kg… Tính bình quân, giá tôm hiện tại tăng khoảng 30%” – Giám đốc công ty này cho biết thêm.

Vùng nuôi tôm trên cát ở xã Cẩm Hòa (Cẩm Xuyên) có khoảng 20 ha nuôi vụ thu – đông. Chủ đầm tôm Trần Văn Ngô ở xóm Bắc Hòa cho biết: Vụ tôm này anh thả hơn 1 triệu con vào nuôi 3 ao với diện tích gần 1 ha. Đến thời diểm này, tôm nuôi đã đạt kích cỡ gần 80 con/kg, khoảng gần tháng nữa sẽ cho thu hoạch.

Qua các kênh thông tin được biết, giá tôm hiện tại tăng cao nên anh rất phấn khởi. Để vụ nuôi thành công, anh đang tập trung chăm sóc, phòng bệnh cho tôm. Với sản lượng ước đạt 15 tấn, vụ tôm này gia đình anh sẽ thu về hơn 2 tỷ đồng.


Vụ thu – đông chủ yếu là nuôi ở các vùng nuôi tôm công nghệ cao trên cát.

Nuôi tôm vụ thu – đông ở tỉnh Hà Tĩnh mặc dù rủi ro cao do thời tiết, dịch bệnh nhưng giá trị mang lại sau thu hoạch rất lớn. Bởi vậy, tôm vụ này được nuôi chủ yếu tại các vùng nuôi tôm công nghệ cao trên cát. Đây là những vùng nuôi được đầu tư kỹ lưỡng và tuân thủ lịch thời vụ, là những yếu tố hết sức quan trọng để giành thắng lợi trong vụ tôm này…

Ông Lưu Quang Cần – Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản cho biết: Toàn tỉnh có gần 3.000 ha nuôi tôm nhưng vụ thu – đông chỉ có khoảng 300 ha đủ điều kiện, rải rác ở các huyện Nghi Xuân, Cẩm Xuyên, Thạch Hà, TP Hà Tĩnh, Kỳ Anh…

Bình thường, giá tôm vụ thu – đông cũng cao hơn so với vụ xuân hè nhưng gần một tuần lại nay, giá tăng mạnh, bình quân khoảng 30%. Trước tình hình giá thịt lợn tăng “đột biến” như hiện nay, nhận định giá tôm thương phẩm sẽ tiếp tục duy trì và tăng mạnh, nhất là vào dịp cuối năm. Đây thực sự là tín hiệu vui cho người dân nuôi tôm trên địa bàn tỉnh.

“Tuy nhiên, phần lớn diện tích thả nuôi tôm – thu đông thời điểm này chưa đến kỳ thu hoạch, vì vậy, người nuôi phải hết sức thận trọng bởi thời tiết diễn biến bất thường. Đặc biệt, biên độ, nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm rất lớn, không thích hợp với điều kiện phát triển của tôm, nhưng lại là điều kiện thích hợp cho mầm bệnh phát sinh. Bởi vậy, phải theo dõi, chăm sóc kỹ lưỡng, đảm bảo tốt các quy trình kỹ thuật, phòng chống dịch bệnh tốt thì mới thành công ” – ông Cần khuyến cáo.

Giải pháp phòng trừ dịch bệnh trên tôm

Hiện nay, tình hình dịch bệnh thủy sản nói chung nhất là với con tôm ngày một diễn biến phức tạp, nhiều bệnh chưa có giải pháp chữa trị dứt diểm, chính vì vậy, công tác phòng bệnh là hết sức quan trọng và người nuôi cần thực hiện nghiêm ngặt quy trình nuôi tôm được khuyến cáo.

Chuẩn bị ao nuôi: Cần phải chuẩn bị ao trước khi thả giống theo quy trình từ khâu tẩy dọn ao, diệt tạp, phơi đáy, khử trùng nền đáy và đảm bảo môi trường nước phù hợp cho sự sinh trưởng, phát triển của tôm. Chất lượng nước cấp vào ao nuôi bảo đảm giá trị của các thông số như sau: Ôxy hòa tan > 3,5 mg/l, pH từ 7 – 9 và giao động trong ngày không quá 0,5, độ mặn 5 – 35‰, độ kiềm từ 60 – 180 mg/l, độ trọng 20 – 50 cm, NH3 < 0,3 mg/l, H2S < 0,05 mg/l, nhiệt độ 18 – 33oC. Nước cần được xỷ lý kỹ và khử trùng trước khi đưa vào ao nuôi.

Chọn và thả giống: Tôm giống sạch bệnh là điều kiện quan trọng quyết định đến sự thành công của vụ nuôi. Người nuôi cần chọn mua con giống ở những cơ sở sản xuất giống có uy tín, có giấy tờ đảm bảo chất lượng giống, có giấy chứng nhận kiểm dịch (nếu mua từ tỉnh khác). Tôm giống phải đáp ứng TCVN 10257: 2014 (TTCT – tôm giống – yêu cầu kỹ thuật. Thả giống đúng lịch thời vụ theo khuyến cáo của cơ quan quản lý. Tôm giống cần được kiểm tra bệnh trước khi thả nuôi để đảm bảo tôm giống không bị nhiễm các bệnh theo quy định. Tôm giống cần đáp ứng được các phản ứng gây sốc bằng formalin 100 ppm và hạ độ mặn đột ngột xuống 0‰ trong 30 phút nhưng tôm có tỷ lệ sống 100%.

Cho ăn: Cho tôm ăn các loại thức ăn nằm trong danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam, có nhãn hàng hóa đầy đủ theo quy định về ghi nhãn hàng hóa và được bảo quản theo hướng dẫn ghi trên nhãn hàng hóa. Sử dụng loại thức ăn tùy thuộc cỡ tôm, tỷ lệ cho ăn và số lần cho ăn trong ngày thực hiện theo hướng dẫn của nhà sản xuất hoặc cơ quan quản lý nhà nước. Không sử dụng thức ăn đã hết hạn sử dụng.

Quản lý tốt và theo dõi các yếu tố môi trường: Dinh dưỡng được tích tụ trong ao từ thức ăn thừa, chất thải của tôm nuôi là nguyên nhân gây ra giảm chất lượng nước, ô nhiễm môi trường và dẫn tới bùng phát dịch bệnh. Do đó, hàng ngày kiểm tra các chỉ tiêu môi trường gồm oxy hòa tan, pH, độ mặn, độ trong, nhiệt độ và kiểm tra 3 – 5 ngày/lần đối với các chỉ tiêu độ kiềm, NH3, H2S bảo đảm giá trị nằm trong ngưỡng cho phép. Cần đặc biệt chú ý đến việc duy trì ổn định môi trường nuôi bằng các biện pháp cơ học như: quạt nước, sục khí đáy; các biện pháp sử dụng hóa chất và chế phẩm sinh học để cải tạo và ổn định môi trường ao nuôi. Tránh gây biến động môi trường đột ngột, dẫn đến sốc môi trường cho tôm làm cho tôm dễ mẫn cảm với tác nhân gây bệnh và cũng là điều kiện tốt cho bệnh bùng phát.

Sử dụng hợp lý thuốc, vi sinh vật, chế phẩm sinh học, hóa chất và chất xử lý cải tạo môi trường: Chỉ sử dụng các loại thuốc, hóa chất, chế phẩm sinh học có trong danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam trong NTTS để xử lý môi trường, phòng, chữa bệnh, quản lý sức khỏe tôm nuôi. Sản phẩm sử dụng phải có nhãn hàng hóa đầy đủ theo quy định về ghi nhãn hàng hóa và được bảo quản theo hướng dẫn ghi trên nhãn hàng hóa. Cách dùng thuốc, vi sinh vật, chế phẩm sinh học, hóa chất và chất xử lý cải tạo môi trường thực hành theo hướng dẫn của nhà sản xuất hoặc cơ quan quản lý nhà nước. Không sử dụng thuốc, vi sinh vật, chế phẩm sinh học, hóa chất và chất xử lý cải tạo môi trường đã hết hạn sử dụng hoặc nằm trong danh mục cấm.

Tăng sức đề kháng cho tôm: Cần bổ sung thêm các chất bổ sung thức ăn như: Vitamin, khoáng, men tiêu hóa, chế phẩm sinh học trong suốt quá trình nuôi giúp tăng cường khả năng tiêu hóa, tăng cường sự miễn dịch cho tôm giúp phòng bệnh. Liều lượng và cách sử dụng phải tuân thủ theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Hệ thống xử lý nước cấp và nước thải: Khu vực nuôi cần có hệ thống cấp thoát nước riêng biệt. Nước trước khi lấy vào ao nuôi, cơ sở sản xuất giống phải được kiểm tra chất lượng. Phải xử lý nước trước khi xả thải ra môi trường. Nước thảichỉ được xả ra môi trường xung quanh khi bảo đảm giá trị như sau: pH từ 5,5 – 9, BOD5 (200C) < 50 mg/l, COD < 150 mg/l, chất rắn lơ lửng < 100 mg/l, Coliform < 5.000 MPN/100 ml. Không xả nước thải sinh hoạt vào các ao. Rác thải trong sinh hoạt, bao bì của các sản phẩm sử dụng trong cơ sở nuôi phải được cho vào thùng chứa có nắp đậy. Thùng chứa không được đặt trên bờ ao nuôi và ao chứa/lắng.

Quản lý lao động: Công nhân làm việc tại cơ sở nuôi phải được tập huấn về an toàn lao động, bảo vệ môi trường; được hướng dẫn và biết cách bảo quản và sử dụng thức ăn, thuốc, vi sinh vật, chế phẩm sinh học, hóa chất và chất xử lý cải tạo môi trường. Công nhân phải vệ sinh sạch sẽ trước khi tiếp xúc với ao nuôi và khi chăm sóc quản lý tôm. Công nhân cần nghiêm túc khử trùng dụng cụ trước khi sử dụng và sử dụng dụng cụ như sàng, thuyền, chài và dụng cụ chăm sóc riêng cho từng ao để tránh lây lan dịch bệnh.

Đảm bảo an toàn sinh học trong quá trình nuôi bằng các công nghệ mới: Vấn đề then chốt và quyết định nhất để nuôi tôm thành công là tạo ra môi trường kín, biệt lập, ngăn chặn tuyệt đối sự ảnh hưởng của mầm bệnh, chất hữu cơ và các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến ao nuôi. Nên nuôi tôm theo quy trình khép kín theo phương pháp ít thay nước, nguồn nước đưa vào ao phải được lọc kỹ và diệt mầm bệnh, cần có ao chứa lắng lọc và xử lý trước khi sử dụng cho nuôi tôm. Tùy vào điều kiện kinh tế, kỹ thuật, kinh nghiệm và cơ sở hạ tầng, người nuôi có thể áp dụng các công nghệ nuôi tiên tiến trên thế giới như công nghệ nuôi sử dụng hệ thống tuần hoàn nước (RAS), công nghệ biofloc, công nghệ nuôi tôm siêu thâm canh trong hệ thống nước chảy (Raceway). Ở Việt Nam đã có nhiều mô hình nuôi tôm thành công bằng công nghệ nuôi kết hợp như nuôi tôm với cá rô phi, nuôi tôm với cá điêu hồng… với mục đích sử dụng cá để xử lý nước ao nuôi tôm. Khi ao nuôi xuất hiện dịch bệnh người nuôi cần có phương án xử lý thích hợp để tiêu diệt mầm bệnh, tránh lây lan sang khu vực khác.

Công nghệ mới trong sản xuất tôm giống

Chất lượng tôm giống là yếu tố tiên quyết cho một vụ nuôi thành công. Các công ty sản xuất giống tôm thẻ chân trắng vừa và nhỏ ở Việt Nam đều nhập tôm bố mẹ sạch bệnh của Công ty Shrimp Improvement Systems (SIS) hay Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam đã qua chọn lọc nhiều thế hệ. Vì thế quy trình công nghệ nuôi vỗ, sinh sản, ương nuôi ấu trùng, quản lý an toàn sinh học… của trại giống sẽ quyết định chất lượng tôm giống.

Ở khâu nuôi vỗ, các loại thức ăn cần thiết để tôm tái thành thục cần phải đảm bảo sạch bệnh. Do thức ăn nuôi vỗ tôm bố mẹ chủ yếu là mực, ốc mượn hồn, rươi, và moi nên cần thiết phải khử trùng virus trong các loại thức ăn tươi sống này trước khi cho ăn. Công nghệ vi bọt khí và ozone có thể giảm nồng độ vi khuẩn và virus trong thức ăn tươi sống.

Lắp đặt hệ thống nuôi tảo thu tự động (ví dụ: Tisochrysis lutea, tên cũ là Isochrysis galbana) nhằm cung cấp “nguồn sữa mẹ” chất lượng tốt với sản lượng ổn định cho ấu trùng Nauplius. Tảo được nuôi trong hệ thống kín và thu liên tục nên đảm bảo tinh sạch và mật độ cao. Việc bổ sung tảo chất lượng mật độ cao cũng sẽ giúp giảm tác động đến môi trường bể nuôi do ảnh hưởng của nước nuôi tảo.

Artemia mới nở sẽ không có nhiều dinh dưỡng nên để đủ dinh dưỡng, ấu trùng tôm phải bắt được nhiều Artemia, đồng nghĩa chúng sử dụng nhiều năng lượng hơn cho hoạt động bắt mồi. Vì thế cần phải cường hóa artemia với tảo, acid béo cần thiết hoặc một số nucleotide trước khi cho ấu trùng tôm ăn để đảm bảo thức ăn đủ dinh dưỡng với lượng ít nhất. Thức ăn công nghiệp cho các giai đoạn sau nên phối trộn một số loại thức ăn của các hãng uy tín. Bột moi (krill meal) là thức ăn bổ sung bắt buộc cho giai đoạn này để tôm có sức khỏe tốt nhất. Chế phẩm vi sinh và các vitamin cần thiết cũng có thể được bổ sung vào cả thức ăn công nghiệp và Artemia để tăng cường sức khỏe cho tôm giống. Chất lượng nước được kiểm soát bằng chế phẩm EM hoặc chế phẩm vi sinh khác. Mật độ vi sinh có lợi trong hệ thống cao giúp duy trì ổn định chất lượng nước và kìm hãm sự phát triển của các vi khuẩn gây bệnh. Nước đầu vào thay vì được diệt khuẩn bằng hóa chất như chlorine hay axit hữu cơ có thể được xử lý bằng công nghệ vi bọt khí và ozone. Ưu điểm của công nghệ vi bọt khí và ozone là hạn chế tồn dư những tạp chất trong hóa chất xử lý nước. Ngoài ra, hàm lượng ôxy hòa tan trong bể ương có thể được nâng lên 9 – 10 ppm nhờ hệ thống vi bọt khí thay vì mức 4 – 6 ppm của hệ thống thổi khí. Khi ôxy được đưa vào trong nước dưới dạng vi bọt khí ở mức micromét và nanomét thì chúng có thể tồn tại trong nước rất lâu, thay vì bay lên không khí như sục khí thông thường.

Khi đóng gói và vận chuyển tôm, ngoài việc giữ nhiệt độ 20 – 240C, hàm lượng ôxy cao hơn mức bão hòa trong nước sẽ giúp tôm post khỏe hơn và đi xa hơn. Ngoài ra, các khâu sản xuất cần được phân tích và tuân thủ theo hướng dẫn an toàn sinh học trong trại giống do Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) hướng dẫn. Mẫu tôm cần được gửi tới các đơn vị có phòng lab đủ điều kiện để phân tích xét nghiệm PCR cho virus, vi khuẩn, và ký sinh trùng cho các giai đoạn.

Tóm lại, các trại tôm hoàn toàn có thể nâng cao sức khỏe tôm giống của mình khi áp dụng phù hợp các công nghệ vi bọt khí, ozone, vi sinh và nuôi tảo thu liên tục với quản lý an toàn sinh học chặt chẽ.

Tôm giống vụ nuôi mới: Giá tăng, chất lượng phải tăng

Giá tôm tăng đã khiến người nuôi bớt nhọc nhằn. Tranh thủ giá cao, nhiều địa phương bắt đầu thả nuôi vụ mới. Vấn đề con giống lại tiếp tục được đặt ra cả về số lượng và chất lượng.

Tại nhiều địa phương, giá tôm giống đang tăng do nhu cầu tăng cao khi tôm nguyên liệu đang khan. Tại Bạc Liêu, giá tôm thẻ chân trắng (TTCT) ở mức 40 – 70 đồng/con, có nơi giá 80 – 90 đồng/con.

Trong khi đó, ở Cà Mau, giá tôm giống cũng tăng nhẹ. Toàn tỉnh hiện có hơn 600 trại sản xuất tôm sú giống, mỗi năm sản xuất được 8 – 9 tỷ con tôm post, đáp ứng 50% nhu cầu sản xuất trong tỉnh, còn lại phải nhập từ Bạc Liêu, Bến Tre, Phú Yên… Ông Quách Nhật Bình, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Cà Mau cho biết: Mỗi năm, tỉnh cần khoảng 2,5 tỷ con TTCT giống. Nhu cầu tôm giống đang tăng trong vụ nuôi mới. Tôm giống được mua tại Công ty TNHH Việt – Úc tăng 4 – 5 đồng/con. Giá tôm giống của Công ty CP Chăn nuôi C.P. Việt Nam 86 – 90 đồng/con. Ngoài ra, do doanh nghiệp phải tăng chi phí đầu vào, bỏ thêm tiền mua ghe chở nước ngọt về trại giống, khiến giá tôm giống tăng 2 – 3 đồng/con. Chất lượng con giống sản xuất trong tỉnh được kiểm tra theo nơi sản xuất, xét nghiệm cụ thể… Nhưng, lượng tôm giống nhập từ ngoài tỉnh về chất lượng kém vẫn chiếm gần 30%.

Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Sóc Trăng, ông Nguyễn Văn Khởi, cho biết: Tỉnh còn thiếu nguồn tôm giống đảm bảo chất lượng; người nuôi mua tôm giống bên ngoài về, tỷ lệ đạt chất lượng chỉ gần 20%, nhiều tôm giống chưa được kiểm soát, dẫn đến dịch bệnh trong quá trình nuôi. Còn tại Bến Tre, theo Chi cục NTTS tỉnh, diện tích nuôi TTCT tăng gần 3 lần nhưng giá tôm cơ bản vẫn tương đương vụ nuôi trước. Giá tôm sú giống 70 – 80 đồng/con, TTCT 80 – 100 đồng/con. Toàn tỉnh có 8 trại sản xuất tôm giống, đáp ứng 30% nhu cầu trong tỉnh; mỗi năm tỉnh cần nhập 5 tỷ con tôm giống (tôm sú và TTCT). Lượng giống nhập về không đạt chất lượng chiếm 10 – 15%.

 

Trong khi đó, theo Công ty TNHH Việt – Úc, nhu cầu TTCT giống tăng 20% so với năm 2013. Hiện, Công ty thiếu khoảng 500 triệu con TTCT giống. Nhiều đơn hàng đã được đặt trước hàng tháng, tuy nhiên, trong 1,5 – 2 tháng, nhà cung cấp tôm bố mẹ mới có hàng.

Nếu thiếu giống TTCT sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy như một số doanh nghiêp, trại không có nguồn tôm bố mẹ sẽ cho tôm đẻ quá thời gian và số lần quy định hoặc một số cơ sở tự gia hóa tôm bố mẹ và phát tán, vi phạm quy định quản lý của Nhà nước… Mỗi năm nước ta phải nhập khẩu hàng vạn cặp tôm bố mẹ, giá mỗi cặp 20 – 60 USD, nhưng chất lượng gần như không kiểm tra được.

Về lâu dài, cần chủ động tôm bố mẹ giống, nhưng phải tuân thủ nguyên tắc chọn tôm có nguồn gốc rõ ràng, tôm bố mẹ sau 2 lần đẻ không nên sử dụng tiếp để gây giống. Trước mắt, người nuôi tôm nên có hợp đồng với các doanh nghiệp, trại giống, đại lý cung cấp tôm giống đạt yêu cầu chất lượng; được xét nghiệm bệnh và qua kiểm dịch để đảm bảo chất lượng trước khi thả nuôi.

Phương tiện mới đo lường tôm bố mẹ

Một dự án phát triển công nghệ tầm nhìn dưới nước để đo lường tôm bố mẹ đã được đưa ra, sau khi ký thỏa thuận giữa Hendrix Genetic và Plant & Food Research được thực hiện.

Để chọn chính xác động vật phù hợp làm bố mẹ sinh sản, các nhà di truyền học cần theo dõi các đặc điểm chính, bao gồm trọng lượng cơ thể và hình thái học (kích thước và hình dạng). Tuy nhiên, trong NTTS, việc thu thập dữ liệu trên từng động vật mang lại những thách thức đáng kể. Các phương pháp thông thường như cân nặng tốn nhiều công sức và có thể ảnh hưởng đến phúc lợi động vật. Công nghệ tầm nhìn dưới nước cung cấp một giải pháp để xác định, đo lường và chọn lọc giống chính xác và hiệu quả.

Plant & Food Research đã phát triển các quy trình dựa trên hình ảnh mới để tự động đo lường một loạt các tính trạng ở thủy sản. Hệ thống thông lượng cao sử dụng các đặc điểm phân biệt đặc trưng của loài, chẳng hạn như tạo hình trực quan gần giống với dấu vân tay, để xác định các cá nhân và theo dõi sự phát triển của chúng theo thời gian. Thông tin này có thể được sử dụng để xác định các cá nhân có những đặc điểm phù hợp nhằm cung cấp tiềm năng là cha mẹ trong các chương trình nhân giống NTTS. Dự án phát triển sẽ đánh giá khả năng tồn tại của công nghệ này trong môi trường thương mại bằng cách thực hiện một số trường hợp thử nghiệm trong cá hồi.

TS Robbert Blonk, Giám đốc R&D NTTS của Hendrix Genetic nói: “Thu thập dữ liệu chính xác và theo dõi các cá nhân trong NTTS là chìa khóa. Chúng tôi mong muốn được hợp tác với Plant & Food Research để triển khai công nghệ tiên tiến của họ để tiếp tục phát triển các chương trình nhân giống của chúng tôi”.

TS Maren Wellenreuther, Trưởng nhóm khoa học sản xuất thủy sản cho Plant & Food Research thông tin thêm, công nghệ tầm nhìn dưới nước có tiềm năng cho một bước nhảy vọt lớn về độ chính xác trong chăn nuôi và cải thiện gen hơn nữa. “Chúng tôi mong muốn tiếp tục phát triển công nghệ này và thấy nó được các đối tác trong ngành như Hendrix Genetic áp dụng” – ông nói.

Với chuyên môn kết hợp trong chăn nuôi, di truyền và công nghệ, các đối tác sẽ phát triển hơn nữa các kỹ thuật có khả năng cải thiện tần số và độ chính xác trong các phép đo tính trạng theo kết quả phúc lợi động vật được nâng cao. Dự án này sẽ tăng độ chính xác của lựa chọn trong chăn nuôi, trong đó chuyển thành các sản phẩm lành mạnh, hiệu quả cho toàn bộ ngành NTTS.

Hendrix Geneticcó trụ sở tại Hà Lan, là một công ty chăn nuôi đa loài hàng đầu với các hoạt động chính ở gà tây, gia cầm truyền thống, lợn, cá hồi Đại Tây Dương, cá hồi coho, cá hồi cầu vồng và nuôi tôm. Được hỗ trợ bởi danh mục đầu tư mạnh mẽ của các thương hiệu hàng đầu, Hendrix Genetic cung cấp chuyên môn và nguồn lực cho các nhà sản xuất tại hơn 100 quốc gia, với các hoạt động và liên doanh tại 25 quốc gia và hơn 3.400 nhân viên trên toàn thế giới.

Những dự báo về ngành nuôi tôm

Những dự báo về ngành nuôi tôm

Tôm thẻ chân trắng
Ngành nuôi tôm đang trải qua sự thay đổi lớn về kỹ thuật cũng như thương mại.

Theo nhà phân tích thủy sản cao cấp của Rabobank, Gorjan Nikolik, các nhà sản xuất tôm sẽ phải nắm bắt các công nghệ và kỹ thuật sản xuất mới để tồn tại.

Phát biểu tại hội nghị AllTech về Aqua InDepth, diễn ra tại Eindhoven, Nikolik đã trình bày một quan điểm của nhà đầu tư về khả năng tồn tại lâu dài của ngành và làm thế nào để phát triển mạnh trong một ngành công nghiệp thay đổi nhanh chóng. Trong bài thuyết trình của mình, Nikolik đã khám phá chuỗi giá trị tôm và cách thức các nhà sản xuất tôm có thể tận dụng các cơ hội mới.

Sau khi sụt giảm sản lượng giữa năm 2013 và 2014 do dịch bệnh hội chứng chết sớm (EMS), nguồn cung tôm đã phục hồi. Sự phục hồi chủ yếu là do người nuôi tôm chuyển sang nuôi thông minh hoặc bioflocs. Tuy nhiên, những người nuôi không thể mua được công nghệ mới đã gặp khó khăn trong việc kinh doanh. Do đó, sự gia tăng trong sản xuất và tăng trưởng của ngành không đều – mô hình sản xuất hiện tại có thể không ổn định.

Ngoài sự bất ổn này, ngành nuôi tôm hiện đang tiếp cận tình trạng thừa cung trên thị trường toàn cầu. Theo quan điểm của Nikolik, giá tôm có thể sẽ thay đổi.

Thay đổi mô hình thương mại

Ngành nuôi tôm đang trải qua sự thay đổi dòng chảy thương mại lớn. Bắt đầu từ đầu những năm 2010, con đường giao dịch chính của tôm là giữa Thái Lan và Hoa Kỳ. Theo Rabobank, nhập khẩu tôm được tập trung vào 3 khối thương mại lớn: Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản. Tuy nhiên, năm 2019, Trung Quốc đã nổi lên là nhà nhập khẩu lớn nhất và Nhật Bản đứng thứ tư về tổng nhập khẩu tôm.

Hiện tại, dòng chảy thương mại lớn nhất trong tôm nuôi là từ Ecuador đến Trung Quốc, trong khi nhập khẩu tôm Thái Lan của Mỹ đã giảm và Ấn Độ đã nổi lên như một nhà xuất khẩu chính. Theo số liệu của Rabobank, năm 2019 là một năm hoạt động kém của ngành tôm; giá vẫn ở mức thấp, mặc dù nhu cầu đã tăng. Người nuôi tôm có thể cảm nhận sâu sắc khó khăn này.

Các mô hình thương mại thay đổi có thể là do áp lực dịch bệnh và người nuôi tôm áp dụng các mô hình kinh doanh khác nhau để tự bảo vệ mình khỏi những cú sốc thị trường. Nikolik giải thích: Đây là lý do tại sao Ecuador đã nổi lên như một nhà sản xuất tôm lớn. Khi so sánh thành công mới của Ecuador với sự suy giảm gần đây của Thái Lan, Nikolik lưu ý rằng người nuôi tôm ở châu Á phải vượt qua những thách thức đáng kể để cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

Thay đổi mô hình kinh doanh

Nhìn về tương lai, Nikolik cho rằng mô hình kinh doanh hiện tại của sản xuất tôm sẽ thay đổi. Do sự đổi mới đóng vai trò mạnh mẽ trong ngành nuôi tôm, ông dự đoán rằng người nuôi tôm sẽ hiểu biết hơn về loài mà họ nuôi và sẽ chuyển sang các hệ thống sản xuất mới như siêu thâm canh và hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn RAS để duy trì tính cạnh tranh. Ông cũng dự đoán rằng để quản lý tốt hơn áp lực từ dịch bệnh, người nuôi tôm sẽ bắt đầu cách ly trang trại khỏi môi trường xung quanh (tương tự như chăn nuôi gà).

Từ góc độ loài, Nikolik cho rằng các nhà sản xuất cần nắm bắt tiến bộ di truyền của tôm và các chủng mới sẽ có thể phát triển mạnh trong các hệ thống sản xuất mới.

Nikolik nhấn mạnh rằng nuôi trồng thủy sản có thể đem lại lợi ích thực chất cho hành tinh. Mặc dù lĩnh vực này có thể có rủi ro, nuôi trồng thủy sản có thể sản xuất thực phẩm sạch và giàu giá trị dinh dưỡng cho thế giới và mang lại lợi nhuận trong dài hạn.

Theo The Fishsite

HNN Tổng cục thủy sản
Đăng ngày: 26/11/2019