Bạn tìm thông tin gì?

Blog

Chia sẻ của chuyên gia đi đầu trong lĩnh vực di truyền của tôm

Di truyền tôm
Nghiên cứu di truyền trên tôm là một công việc thú vị nhưng cũng gặp phải nhiều thách thức.

Chuyên gia Marcela Salazar, một trong những người đi tiên phong về việc nghiên cứu di truyền trên tôm đã nói về các chương trình nhân giống tôm cùng với thuận lợi và thử thách khi bà thực hiện.

Cảm hứng để đến với nghiên cứu di truyền trên tôm của chuyên gia

Bà là một bác sĩ y khoa đam mê nghiên cứu. Khi làm việc trong các dự án về việc kiểm tra tính tương hợp trong cấy ghép tủy xương, bà đã được tiếp cận sâu hơn với miễn dịch học. Sau đó, bà làm tại một cbà ty tiên phong về nghiên cứu sinh học phân tử  và theo bà một sự tình cờ đã đưa bà vào thế giới của tôm. Năm 1999, virus WSSV xuất hiện và gây hại cho tôm ở bờ biển Thái Bình Dương. Do đó, Trung tâm nghiên cứu nuôi trồng thủy sản ở Colombia đã yêu cầu công ty của bà thực hiện xét nghiệm PCR để chẩn đoán mầm bệnh để giúp ngăn ngừa và kiểm soát virus này. Bà theo suốt dự án từ lúc đầu và cũng từ đó bắt đầu suy nghĩ về một lĩnh vực mới cho bản thân mình.

Tác động để chuyên gia hiện thực hóa các chương trình nhân giống tôm

Bà tìm đến sự hỗ trợ của nhiều bộ phận khác nhau, từ những đội ngũ đang làm nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực có liên quan, để tiếp cận được với những cbà nghệ và cơ sở vật chất hiện đại. Bà tạo ra một sức mạnh tổng hợp giữa di truyền và dinh dưỡng. Họ cũng tìm được tiếng nói chung, cùng học hỏi kinh nghiệm từ các chương trình nhân giống khác.

Ở Colombia, phòng nghiên cứu của bà và các cộng sự gần như là cách ly với các cơ sở nuôi trồng khác trong nước. Khí hậu vô cùng thuận lợi cho sự phát triển của tôm thẻ chân trắng (P. vannamei). Họ có nhiều không gian để mở rộng và sản xuất số lượng tôm bố mẹ theo nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó là một phòng thí nghiệm được lập ra để thực hiện công việc nghiên cứu.

Những vấn đề mà chuyên gia đang tập trung nghiên cứu cũng như thành tựu đã đạt được

Phòng nghiên cứu của bà đã giới thiệu về những bộ gen tôm có khả năng kháng vius đốm trắng (WSSV) và hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND). Ưu tiên của bà là sản xuất những con tôm sạch, an toàn, không có mầm bệnh, có tiềm năng phát triển cao, nhưng phải chống lại được mầm bệnh và điều kiện môi trường khắc nghiệt.

Viện nghiên cứu đã đạt được một số thành tựu như đã mô tả được ảnh hưởng của việc tăng thân nhiệt của tôm trong nhiễm WSSV. Đồng thời cũng chỉ ra rằng những tế bào chết  trong cơ thể là một phần trong phản ứng chống lại virus của tôm. Hơn nửa viện nghiên cứu đã xác định được sự tỷ lệ ngược của giữa tăng trưởng và kháng WSSV ở tôm thẻ chân trắng và tự hào rằng đã sản xuất được dòng tôm khỏe mạnh với tốc độ tăng trưởng cao.

Cũng như các loài thủy sản khác, thị trường tôm bố mẹ cũng đang tăng trưởng đều đặn. Nổi bật là lượng tôm bố mẹ xuất khẩu từ Hawaii, quê hương của các chương trình nhân giống ở Mỹ tăng trưởng rõ rệt. Năm 2003 đạt gần 100.000 lên tới 800.000 trong năm 2015. Năm 2017, giá trị xuất khẩu đạt gần 30 triệu USD. Một số chương trình nhân giống ở Châu Á cũng phát triển tốt hằng năm.

Sự khác biệt giữa tôm SPR, SPF, SPT và APE

Tôm SPF là những con tôm được thử nghiệm và xác định là không có mầm bệnh. Theo hướng dẫn được thiết lập bởi USMFSP, tôm được thử nghiệm phải xuất phát từ một quần thể đã được kiểm tra âm tính với các mầm bệnh cụ thể trong ít nhất 24 tháng. Phải được nuôi trong các cơ sở có an toàn sinh học cao, tuân theo các biện pháp quản lý an toàn sinh học cùng với chương trình giám sát phù hợp sử dụng các xét nghiệm phân tử và mô bệnh học.

Tôm APE là thuật ngữ mô tả các con tôm nuôi trong ao hay bể , nơi chúng đã tiếp xúc với một hoặc nhiều mầm bệnh thông qua các thử nghiệm trong điều kiện nuôi cấy hoặc trong các môi trường nuôi khắc nghiệt. Thuật ngữ này cũng dễ gây hiểu lầm bởi vì tôm sẽ không bao giờ tiếp xúc với tất cả các mầm bệnh. Những con tôm này có thể mang mầm bệnh và có nguy cơ lây truyền.

Tôm SPR là dòng tôm kháng mầm bệnh cụ thể nào đó khác với SPT là khả năng chống chịu được một mầm bệnh nào đó. Kháng thể là khả năng chống lại mầm bệnh của tôm, chống lại vật lạ xâm nhập vào cơ thể chúng. Sức chịu đựng là giới hạn mà tôm có thể chịu được với mầm bệnh, hay nói cách khác là khả năng “sống chung với kẻ thù” của tôm. Hai loại phòng vệ trên có cả ở thực vật, động vật không xương sống và động vật có xương sống.

Một quan niệm sai lầm khi nói về kháng thể của tôm là một đặc điểm định tính và tôm có khả năng đề kháng hoặc mẫn cảm cao. Còn sức chịu đựng là một đặc điểm định lượng với nhiều mức độ khác nhau và chịu ảnh hưởng bởi môi trường. Nhưng trên thực tế cả hai đều là định tính và đều bị ảnh hưởng bởi môi trường. Do đó, khó phân biệt giữa dòng SPR và SPT

Những thách thứ mà ngành tôm phải vượt qua trong tương lai

Thách thức chính là làm sao có thể sản xuất một con tôm khỏe mạnh, tăng trưởng nhanh, không chỉ chống lại được mầm bệnh và còn có khả năng phục hồi trong điều kiện nuôi thương phẩm. Tuy nhiên môi trường biến động là một ảnh hưởng không nhỏ đối với các nhà nghiên cứu, chẳng hạn như nồng độ oxy thấp. Đặt ra một câu hỏi lớn là làm thế nào để tăng trưởng nhanh mà không làm tăng mức độ tử vong của tôm.

Hà Tử

Theo Rob Fletcher

 

Sự đa dạng vi sinh vật trong ruột tôm

Tôm thẻ chân trắng
Tôm có đường ruột nhạy cảm và dễ bị tổn thương.

Đường ruột của tôm có cấu tạo khá đơn giản nhưng là nơi nhạy cảm và dễ tổn thương nhất trên tôm. Các bệnh phổ biến thường gặp trên tôm hiện nay đa phần xuất phát từ đường ruột là chủ yếu như: đường ruột đứt khúc, phân trắng, viêm đường ruột…

Để ngăn chặn các mầm bệnh này, chúng ta cần hiểu rõ cấu tạo và phân loại các hệ vi sinh vật có trong đường ruột của tôm. Những tác nhân nào gây biến động hệ vi sinh vật ở đường ruột và làm sao để điều khiển được hệ vi khuẩn cộng sinh nhằm tăng khả năng kháng bệnh, tối ưu hóa tốc độ tăng trưởng và giảm chi phí thức ăn trong quá trình nuôi.

Nhằm giải đáp những vấn đề trên, Angela Landsman cùng các cộng sự ở Mỹ đã tiến hành nghiên cứu đánh giá  và làm rõ những vấn đề này qua các thí nghiệm và khảo sát của mình.

Phương pháp thí nghiệm

Thí nghiệm được thực hiện tại Balaton, MN của Mỹ, các mẫu tôm được lấy từ 3 môi trường khác nhau: môi trường tự nhiên, môi trường ao nuôi và môi trường được nuôi trong phòng thí nghiệm. Các chỉ tiêu môi trường của mẫu tôm ở phòng thí nghiệm và ao nuôi gần giống như nhau gồm:

+ Tổng mức nitơ amoniac (TAN) được duy trì ở mức dưới 3,0 mg / mL, nồng độ nitrite dưới 4,5 mg / mL và nồng độ nitrat nhỏ hơn 100 mg / mL

+ Độ mặn ở mức 28 ppt.

+ Mật độ thả 30 – 60 con /m3

+ Các hỗn hợp vi sinh có lợi như Pediococcus acidilacticiP. pentosaceus ,Lactobacillus plantarum và Bacillus subtilis được bổ sung hằng ngày.

Riêng ở tôm tự nhiên rất khó để xác định được các thông số cần thiết, vì vậy các mẫu tôm tự nhiên chỉ được sử dụng làm mẫu đối chứng do các thông số về độ tuổi, thức ăn gần như không chính xác.

Sau khi thu hoạch tiến hành loại bỏ các cơ quan và tách lấy ruột. Mẫu sẽ được đem đi chiết xuất DNA và phân tích PCR.

Kết quả thí nghiệm

Qua 699.259 lượt đọc và phân tích kết quả thí nghiệm các mẫu ruột tôm ở 3 môi trường sống cho thấy sự khác biệt lớn về số lượng vi sinh vật ở 3 môi trường. Trong đó chủng vi khuẩn được nuôi trong phòng thí nghiệm chiếm ưu thế hơn các môi trường còn lại như  ProteobacteriaBacteroidetesSaccharibacteria và vi khuẩn Actinobacteria. Nhưng riêng vi khuẩn VibrionaceaeFirmicutesFusobacteria và khuẩn lam được tìm thấy nhiều nhất ở mẫu tôm ao nuôi.


Các vi khuẩn được tìm thấy trong mẫu ruột tôm từ 3 loại môi trường.

Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ vi sinh vật ở ruột tôm rất phong phú, tôm được nuôi trong môi trường khác nhau thì các chủng loại vi khuẩn có trong ruột khác nhau. Bên cạnh đó các giai đoạn phát triển và nguồn thức ăn khác nhau cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hệ sinh thái này. Các yếu tố như điều kiện môi trường sống của tôm thay đổi, độ mặn, stress, phản ứng miễn dịch của tôm, thay đổi chế độ ăn uống hoặc tôm tiếp xúc với kháng sinh … cũng khiến vi khuẩn ở đường ruột tôm biến động và mất cân bằng.

Bằng cách phân tích PcoA và thống kê số lượng OTU, tác giả cũng chỉ ra rằng tôm được nuôi trong điều kiện phòng thí nghiệm có sự đồng nhất về số lượng hệ vi sinh vật trong đường ruột của tôm. Qua đó cho thấy quy trình nuôi ảnh hưởng rất lớn đến hệ vi sinh vật ở ruột tôm.

Khi hệ vi sinh vật trong ruột tôm bị mất cân bằng do các tác nhân tiêu cực có thể dẫn đến rối loạn sinh lý ở tôm, tạo điều kiện cho các vi khuẩn có hại gây bệnh phát triển mạnh, đặc biệt khi mà khuẩn Vibrio luôn tồn tại sẵn trong ruột tôm. Để hạn chế bệnh trên tôm do các vi khuẩn đường ruột gây ra, cần hiểu rõ nguyên nhân gây biến động và hệ vi sinh trong đường ruột tôm đang thiếu những chủng vi sinh nào, dựa vào đó để lựa chọn đúng những chủng vi sinh cần thiết để bổ sung.

Theo Angela Landsman và cộng sự.

YẾN QUYÊN Lược Dịch

Xây dựng mô hình nuôi tôm sú bền vững

Tôm sú
Tôm sú.

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở NN-PTNT tỉnh Quảng Ninh vừa tổ chức hội thảo đánh giá, nhân rộng mô hình nuôi tôm sú 2019.

Theo Tổng cục thủy sản, định hướng ngành thủy sản đến năm 2020 kinh tế thủy sản đóng góp 30 – 35% GDP trong khối nông – lâm – ngư nghiệp, tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành thủy sản từ 8 – 10%/năm. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 8 – 9 tỷ USD, tổng sản lượng thủy sản đạt 6,5 – 7 triệu tấn, trong đó nuôi trồng thủy sản chiếm đến 70% tổng sản lượng.

Nuôi trồng thủy sản nước lợ tiếp tục phát triển mạnh đối với các sản phẩm chủ lực theo nhu cầu thị trường, phù hợp với điều kiện sinh thái, phục vụ XK. Cụ thể, tôm nước lợ đang được nuôi tại 30 tỉnh thành và trở thành sản phẩm hàng hóa ở nước ta gồm 2 loài: Tôm sú và tôm chân trắng. Tôm sú bắt đầu được sản xuất nhân tạo và nuôi tại Việt Nam từ những năm đầu của thập niên 80, thế kỷ 20 gắn với nghề nuôi thương phẩm phát triển.

Tại hội thảo, đại diện các đơn vị đã có những đánh giá sát thực và rõ nét về hiệu quả các dự án nuôi tôm sú, từ đó đưa ra kinh nghiệm, phương án cho các địa phương đưa ra phương án nhân rộng mô hình nuôi.

Hiện hình thức nuôi tôm sú chính trên cả nước được người dân áp dụng, bao gồm: Nuôi thâm canh và bán thâm canh, nuôi quảng canh cải tiến, nuôi tôm sú kết hợp với diện tích trồng lúa. Đại diện doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản đã xin ý kiến khắc phục khó khăn, vướng mắc trong hình thức nuôi, kiểm soát đảm bảo quy hoạch vùng nuôi, kiểm soát con giống thả nuôi và hạn chế lạm dụng hóa chất trong chăn nuôi.

TS Bùi Quang Tề, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản 1 cho rằng: Người dân nuôi trồng thủy sản nên kiểm soát chặt chẽ dịch bệnh, không để dịch bệnh lây lan. Tuy nhiên, công việc này hết sức khó khăn, bởi người dân đang mất quá nhiều tiền bạc để đối phó với dịch bệnh mới.

“Quá trình thử nghiệm thuốc cần phải có thời gian và không được sử dụng tràn lan, gây lãng phí mà không hiệu quả. Chúng tôi đã ghi nhận sự ảnh hưởng của biến đổi khí hậu khiến xâm nhập mặn quá mức, kéo theo nhiều dịch bệnh mới mỗi năm”, ông Tề cho hay.

Theo ông Vương Văn Oanh, Chi cục phó Chi cục thủy sản tỉnh Quảng Ninh, đối với địa phương này, nuôi trồng thủy sản đã có bước phát triển theo chiều sâu, chuyển dịch dần từ diện tích nuôi quảng canh cải tiến sang nuôi bán thâm canh, thâm canh và siêu thâm canh. Tỷ lệ diện tích nuôi bán thâm canh, thâm canh, siêu thâm canh chiếm khoảng 30% diện tích. Cơ sở hạ tầng vùng sản xuất và nuôi trồng thủy sản tập trung trọng tâm, trọng điểm đã được quan tâm đầu tư.

“Có thể kể đến các dự án lớn như dự án Trung tâm sản xuất giống công nghệ cao và nuôi thực nghiệm giống hải sản tại huyện Đầm Hà quy mô 125ha, công suất khoảng 3,5 tỷ tôm giống. Tổng diện tích nuôi tôm đạt 10.821 ha (nuôi tôm thẻ chân trắng 4.671ha, tôm sú 6.150ha), trong đó diện tích nuôi tôm công nghiệp chiếm 5,83% so với diện tích nuôi tôm thâm canh của cả nước; sản lượng đạt 13.930 tấn. Địa phương tiếp tục xác định tôm nước lợ là đối tượng nuôi trồng chủ lực”, ông Oanh nói.

Định hướng phát triển diện tích nuôi tôm sú trên cả nước, giai đoạn 2021-2021 đạt trên 750.000 ha (nuôi tôm sú sinh thái, hữu cơ, quảng canh cải tiến, tôm lúa đạt 540.000ha; nuôi tôm sú bán thâm canh, thâm canh đạt 60.000ha; nuôi tôm thẻ chân trắng đạt 150.000ha). Trong đó vùng ĐBSCL chiếm 88% cả nước. Tổng sản lượng ước đạt 1.100.000 tấn.

Hội thảo là nơi trao đổi kinh nghiệm, thông tin giữa các nhà khoa học, cơ quan quản lý và cộng đồng doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức nuôi tôm sú. Đồng thời là cầu nối đề xuất các chính sách, giải pháp xây dựng và phát triển mô hình nuôi tôm sú bền vững.

ANH THẮNG Nông nghiệp Việt Nam

Mỹ đẩy mạnh xuất khẩu tôm hùm sang Việt Nam

Tôm hùm alaska
Tôm hùm là một trong những sản phẩm hải sản Mỹ được xuất khẩu chính sang Việt Nam

Ngành tôm hùm Mỹ đang tìm cách mở rộng thị trường xuất khẩu để bù đắp cho những thiệt hại của thị trường Trung Quốc và Việt Nam được xem là một trong những thị trường triển vọng của ngành hàng này.

Thông tin từ Hiệp hội thủy sản Việt Nam cho biết xuất khẩu tôm hùm Mỹ sang Trung Quốc giảm mạnh trong năm nay do thuế quan mới áp đặt, khiến hoạt động kinh doanh loài này chuyển hướng sang các thị trường khác.

Tính đến hết tháng 6/2019, Mỹ xuất khẩu chưa đến 2,2 triệu pound, tương đương 1 triệu kg tôm hùm sang Trung Quốc.

Trong khi đó, quốc gia này đã xuất khẩu gần 12 triệu pound trong cùng kì năm 2018. Như vậy, xuất khẩu tôm hùm Mỹ sang Trung Quốc trong 6 tháng đầu năm 2019 đã giảm hơn 80% so cùng kì.

Ngược lại, tại Canada, xuất khẩu tôm hùm sang Trung Quốc tính đến hết tháng 6/2019 đạt gần 33 triệu pound, gần bằng khối lượng xuất khẩu trong năm 2018. Giá trị xuất khẩu tôm hùm của Canada đạt gần 200 triệu USD tính đến hết tháng 6/2019 và gần như sẽ vượt xa tổng giá trị xuất khẩu 223 triệu USD trong năm 2018.

Tính đến hết tháng 6/2019, xuất khẩu của Mỹ ước tính dưới 19 triệu USD, giảm hơn 70 triệu USD so với cùng kì năm 2018.

Thực tế ngành tôm hùm Mỹ đang tìm cách mở rộng thị trường nội địa và thị trường quốc tế để bù đắp cho những thiệt hại của thị trường Trung Quốc.

Do đó, không chỉ tăng trưởng tại Canada, ngành tôm hùm Mỹ còn nhắm tới thị trường Việt Nam khi cho rằng nhu cầu của người Việt về hải sản cũng như tiềm năng ở thị trường Việt Nam đối với mặt hàng tôm hùm là rất lớn.

Theo số liệu của Tổng Lãnh Sự Quán Mỹ tại TP HCM, tôm hùm là một trong những sản phẩm hải sản Mỹ được xuất khẩu chính sang Việt Nam đạt giá trị xuất khẩu là 25 triệu USD trong năm 2018.

Để hải sản Mỹ và đặc biệt là tôm hùm Mỹ có thể tiếp cận nhiều hơn đến người tiêu dùng Việt Nam, Hiệp Hội Seafood Export USA – Northeast đã triển khai chiến lược “Thưởng thức tôm hùm Mỹ” và một trong những chuỗi nhà hàng lớn nhất tại Việt Nam là Redsun đã được lựa chọn trở thành đối tác độc quyền để giới thiệu sản phẩm này.

Theo đó, ngày 29/11, tại TP HCM, Tập đoàn ẩm thực Redsun ITI cùng Hiệp hội Xuất khẩu Hải sản Vùng Đông Bắc nước Mỹ, chính thức đưa tôm hùm Mỹ đến với người tiêu dùng Việt thông qua các hệ thống nhà hàng KING BBQ, TASAKI BBQ, MEIWEI.

Tôm hùm được giới thiệu tại các nhà hàng Việt Nam. Ảnh: Như Huỳnh.

Bà Marie Damour, Tổng Lãnh Sự Quán Mỹ tại TP HCM cho biết Tập đoàn Redsun tiếp tục nhập khẩu số lượng lớn thực phẩm và nông sản Mỹ. Chỉ tính riêng năm nay, Redsun đã nhập khẩu thịt bò và thịt gia cầm từ Mỹ với trị giá gần 6,5 triệu USD.

Việc thu mua các sản phẩm của Mỹ của Redsun không chỉ mang đến các loại thức phẩm chất lượng cho khách hàng mà còn giúp nông dân và chủ trang trại Mỹ và cụ thể với mặt hàng tôm hùm là giúp cho ngành đánh bắt và nuôi tôm hùm của Mỹ.

“Chúng tôi có thể chia sẻ loại hải sản tươi ngon này với người tiêu dùng trên khắp thế giới  bởi nguồn cung dồi dào và bền vững. Trên thực tế, luật pháp bảo vệ các nguồn tôm hùm như yêu cầu tôm hùm phải đạt đến một kích thước tối thiểu mới được khai thác và nghiêm  cấm bắt tôm hùm cái đang mang trứng.

Đây là một số trong những điều luật đầu tiên được thực thi ở bất kì đâu trên thế giới nhằm bảo vệ các nguồn thuỷ sản”, Tổng Lãnh Sự Quán Mỹ tại TP HCM cho hay.

Hiện lượng tôm hùm Mỹ xuất khẩu chủ yếu vào thị trường Liên minh châu Âu (EU), Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, còn Việt Nam chỉ nhập một lượng khá nhỏ trong các thị trường nói trên.

Tuy nhiên, sau khi Mỹ có xung đột thương mại với Trung Quốc, cùng với việc các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sang Việt Nam, lượng tôm hùm, hải sản của Mỹ về Việt Nam dự kiến sẽ gia tăng nhanh chóng.

Như Huỳnh Kinh tế tiêu dùng

Cố vấn nuôi tôm Mỹ: Đừng đợi đến đợt đại dịch tiếp theo mới tăng giá

TômVang.io dịch từ nguồn: https://www.undercurrentnews.com –

BANGKOK, Thái Lan – Chuyên gia tư vấn nuôi trồng thủy sản Darryl Jory, đại diện cho ngành tôm Hoa Kỳ, nói với người nghe tại hội nghị về tôm vào ngày 13 tháng 11 rằng có cơ hội đáng kể để tăng trưởng thị trường ở Mỹ, miễn là các nhà sản xuất và nhập khẩu sẵn sàng chuyển từ cửa hàng truyền thống và nắm lấy kế hoạch tiếp thị mới.

“Nếu chúng ta chờ đợi đại dịch tiếp theo, hoặc đang mong muốn và hy vọng cho căn bệnh lớn tiếp theo, đó sẽ không phải là một chiến lược tốt để cải thiện giá cả”, Jory nói. “Chúng ta cần truyền tải đúng thông điệp: tôm của chúng ta lành mạnh, nó là một loại thực phẩm bổ dưỡng, được nuôi một cách có trách nhiệm và thông điệp của chúng tôi với ngành là: Đừng thay đổi sản phẩm. Thay vào đó hãy tạo ra sản phẩm tốt hơn.”

Jory cho biết theo truyền thống tôm ở Mỹ được bán cho các cửa hàng dịch vụ thực phẩm – 65% tổng lượng tiêu thụ tôm của Mỹ diễn ra trong dịch vụ thực phẩm, với tổng doanh số bán tôm tại dịch vụ thực phẩm tăng lên 695 triệu lbs (tương đương 315 tấn) so với năm ngoái. Trong số này, doanh số bán tôm trong số 13 nhà phân phối hàng đầu đã tăng thêm khoảng 10 triệu lbs (tương đương 4,000  tấn) đến 255 triệu lbs (tương đương 102,000 tấn) trong năm 2018.

Hầu hết sự tăng trưởng này đang diễn ra tại các chuỗi nhỏ hơn chỉ với 1-20 cửa hàng, Jory cho biết, chịu trách nhiệm cho 67% tăng trưởng doanh thu tôm trong dịch vụ thực phẩm năm ngoái. Ngược lại, các chuỗi lớn hơn với hơn 250 địa điểm chứng kiến ​​doanh số tôm giảm 2,7% trong năm 2018.

Về các lĩnh vực tăng trưởng, tôm size lớn hơn và tôm lột vỏ đã chứng kiến ​​sự tăng trưởng đáng kể, ông Jory lưu ý. Hơn một phần ba số tôm bán trong dịch vụ thực phẩm diễn ra ở các bang phía nam Đại Tây Dương, nhưng trên khắp bản đồ, mức tiêu thụ đang tăng lên đều đặn trong tất cả chúng.

“Về mức độ phổ biến, tôm thẻ là loài hàng đầu tuyệt đối, nó thống trị trên toàn quốc [87%], và tôm sú cũng rất có ý nghĩa ở hầu hết các khu vực. Tôm bóc vỏ và lột chỉ chiếm 72% dịch vụ ăn uống.”

Tuy nhiên, vẫn có tiềm năng đáng kể trong việc bán tôm trực tiếp cho các hộ gia đình, nơi mà doanh số bán lẻ tôm đã tăng 9% về giá trị và 37% về khối lượng kể từ năm 2014. Điều này có nghĩa là hiện nay, gần một nửa số hộ gia đình Mỹ mua tôm từ các nhà bán lẻ trong nguyên năm là tổng cộng 375 triệu lbs (170,000 tấn) cho năm 2018, tăng tổng số 350 triệu lbs (158,000 tấn) cho năm 2017.

“Hầu hết tôm ở Mỹ được tiêu thụ trong dịch , và có một tiềm năng tăng trưởng đáng kể ở đó, để tiêu thụ tôm ở nhà nhiều hơn”, Jory nói với người nghe. “Tôi cũng tự hỏi tại sao chúng tôi không cố gắng thâm nhập vào chuỗi thức ăn nhanh ở Mỹ, bạn thấy ví dụ như hamburger tôm ở Nhật Bản và Hàn Quốc, và tôi tự hỏi liệu đây có phải là một sự thay thế tiềm năng cho Hoa Kỳ không.”

Hội nghị Lãnh đạo Nuôi trồng Thủy sản Toàn cầu năm ngoái tại Ecuador đã chứng kiến ​​sự hình thành của ‘Hội đồng Tiếp thị Tôm’, một kế hoạch nhằm tạo ra một chiến lược tiếp thị thống nhất nhằm thúc đẩy tiêu thụ tôm ở Mỹ.

Dựa trên một mô hình được áp dụng thành công bởi ngành công nghiệp bơ Hoa Kỳ, các nhà nhập khẩu và sản xuất phải trả một số tiền nhỏ vào một quỹ lớn hơn cho mỗi pound hoặc kg tôm được bán; quỹ này sau đó hướng tới các chiến dịch quảng bá tôm tập trung hơn, tốt hơn.

“Trong khoảng 10 năm trở lại đây, doanh số bán bơ ở Mỹ đã tăng gần gấp ba, vì vậy, nó đã được chứng minh là một chiến lược rất thành công,” Jory nói.

Ấn Độ, Ecuador, Mexico lấp đầy khoảng trống nhập khẩu của Trung Quốc vào năm 2019

Sử dụng dữ liệu từ Bộ Thương mại Hoa Kỳ, Jory cho thấy những người tham dự tại hội nghị Infofish về cách dòng chảy thương mại toàn cầu đã thay đổi trong sáu năm qua, với việc nhập khẩu tôm của Ấn Độ và Indonesia tăng đáng kể để đáp ứng nhu cầu do nguồn cung Thái Lan thu hẹp.

“Vì vậy, nếu chúng ta nhìn vào dòng chảy thương mại từ năm 2012 đến 2018, chúng ta sẽ thấy một số thay đổi lớn và tôi tự hỏi mình câu hỏi, điều này sẽ như thế nào trong năm, 10, 15, 20 năm tới? bởi vì ngành công nghiệp của chúng tôi thay đổi rất nhanh và bất ngờ “, Jory nói. “Dựa trên nhập khẩu tôm của Mỹ, có một bức tranh rõ ràng nơi Ấn Độ đang thay thế Thái Lan và thúc đẩy tăng trưởng, trong khi Trung Quốc là động lực thúc đẩy nhu cầu chính nổi lên như là nhà nhập khẩu tôm lớn nhất toàn cầu.”

Trong năm năm qua, Hoa Kỳ đã chứng kiến sự gia tăng khối lượng nhập khẩu tôm là 39%, chủ yếu do Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam. Cho đến nay, Ấn Độ một lần nữa là nguồn tăng trưởng chính; vào cuối tháng 9, Hoa Kỳ đã nhập khẩu 437 triệu lbs tôm Ấn Độ, tăng 13% so với tổng kiểm tra chín tháng của năm ngoái. Nhập khẩu tôm của Ecuador và Việt Nam cũng tăng lần lượt là 8.2% và 9.0% lên 139m lbs và 92m lbs, Jory cho biết.

Tuy nhiên, hai sự thay đổi đáng kể nhất có thể được nhìn thấy ở Mexico và Trung Quốc. Nhập khẩu tôm Mexico đã thực sự bùng nổ vào năm 2019, tăng 43,5% từ 10,000 tấn lên 15,000 tấn trong chín tháng đầu năm. Điều này đã ít nhất lấp đầy một phần thâm hụt được tạo ra bởi sự sụt giảm nhập khẩu tôm Trung Quốc – giảm 56,4% từ 36,000 tấn xuống 15,700 tấn trong các số liệu hiện nay. Tất nhiên, đây là kết quả trực tiếp của sự gián đoạn thương mại đang diễn ra giữa Mỹ và Trung Quốc, được ghi chép lại ở những nguồn khác 

“Từ đầu năm đến nay, chúng ta đang chứng kiến khoảng 1% nhập khẩu tăng trong tháng 9 và biểu đồ này [bên dưới] cho thấy sự gia tăng từ năm nhà xuất khẩu hàng đầu sang Mỹ, dẫn đầu là Ấn Độ. Nếu chúng ta nhìn vào giá nhập khẩu trung bình mỗi pound , đáng tiếc, chúng ta thấy, đáng tiếc, một xu hướng giảm và nếu chúng ta nhìn vào giá thực trong nhiều năm qua, rõ ràng giá nhập khẩu tôm đang có xu hướng giảm rất đáng kể.

 

  

Trong khi đó, tôm đang tiếp tục tăng trưởng so với các loại hải sản khác với tư cách là người đóng góp hàng đầu cho thâm hụt thương mại hải sản khổng lồ 16,7 tỷ USD của Mỹ. Năm ngoái, chẳng hạn, Hoa Kỳ đã nhập khẩu 695.000 tấn tôm với chi phí 6,6 tỷ đô la, tương đương 27,7% tổng thâm hụt.

“Năm 2017, tôm là loại hải sản được tiêu thụ số một, với khoảng 4,4 lbs (2 kg) mỗi người và con số này tăng khoảng 2,1 lbs mỗi người, hoặc tăng 92% giữa các năm [1987 và 2017],” Jory nói. “Rõ ràng, chúng tôi yêu tôm.”

Tuy nhiên, tiêu thụ tôm vẫn thấp hơn so với các loại thịt truyền thống ở Mỹ.

“Chúng tôi tiêu thụ thịt gia cầm, thịt bò, thịt lợn và thịt bê nhiều hơn gấp 12 lần so với tiêu thụ hải sản. Rõ ràng, điều này không tốt, nhưng nó cũng là cơ hội để tăng trưởng trong ngành và cho các sản phẩm nuôi tôm ở Mỹ.”

Xuất khẩu tôm sang Canada: Tiềm năng lớn vì sao tăng trưởng không ổn định?

Xuất khẩu giảm

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP), 9 tháng đầu năm nay, xuất khẩu tôm sang Canada đạt 105,3 triệu USD, giảm 7% so với cùng kì năm ngoái.

Tính tới tháng 9 năm nay, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Canada tăng trưởng dương trong ba tháng 1, 4 và 7 và giảm trong các tháng còn lại.

Trong khi giai đoạn trước đó từ năm 2016 đến 2018, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Canada tăng trưởng liên tục từ 122,5 triệu USD năm 2016 lên 161,6 triệu USD năm 2018.

Trong cơ cấu sản phẩm tôm Việt Nam xuất khẩu sang Canada, tỉ trọng tôm chân trắng ngày càng tăng. Người tiêu dùng Canada ưa chuộng các sản phẩm tôm chế biến và sản phẩm phổ biến tại thị trường Canada là tôm hấp nguyên con, để vỏ.

VASEP cho biết Canada tiêu thụ khá nhiều tôm nước ấm của các nước Đông Nam Á trong bối cảnh nguồn cung tôm nước lạnh sụt giảm.

Các báo cáo mới đây cho biết sản lượng khai thác tôm nước lạnh tại Canada giảm mạnh trong năm 2019.

Nguyên nhân là do các khảo sát về sinh khối tôm tại các ngư trường khai thác của Canada cho thấy kết quả không khả quan. Khối lượng tôm nước lạnh nhập khẩu vào Canada cũng ngày càng sụt giảm.

Theo Trung tâm Thương mại Thế giới (ITC), nhập khẩu tôm của Canada năm 2018 và quý đầu năm 2019 giảm so với cùng kỳ năm trước đó. Việt Nam vẫn là nguồn cung tôm lớn nhất cho thị trường này, chiếm 30,3% thị phần tại Canada. Ấn Độ và Trung Quốc lần lượt đứng thứ 2 và 3 với 26,3% và 16,9% thị phần.

VASEP nhận định tôm nước ấm đông lạnh và tôm chế biến đang có chỗ đứng khá vững trên thị trường Canada.

CPTPP “nâng đỡ” xuất khẩu tôm Việt

Đầu năm nay, Hiệp định CPTPP có hiệu lực đối với Việt Nam trong đó Việt Nam và Canada đều là thành viên. Trước đây, thuế suất nhập khẩu ưu đãi đặc biệt (MFN) của Canada đối với các mặt hàng thủy sản từ Việt Nam trong đó có tôm là 4-5%, nhưng nay theo cam kết CPTPP thuế suất cho các mặt hàng này giảm về 0%.

Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp tôm Việt Nam khai thác thị trường Canada vì các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường này như Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia không tham gia hiệp định.

Do đó, các doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ thị trường, chú trọng các yếu tố về giá cả, mẫu mã, chất lượng để nâng tính cạnh tranh của sản phẩm tôm Việt Nam trên thị trường Canada.

Chính phủ Canada đang có nhu cầu đa dạng hóa thị trường, giảm phụ thuộc nhập khẩu từ Mỹ, và Việt Nam là một trong những quốc gia các doanh nghiệp Canada quan tâm muốn đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu.

Canada là thị trường có khả năng chi trả cho các sản phẩm có giá trị cao và là cầu nối quan trọng để doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường sang các quốc gia châu Mỹ khác.

Bên cạnh đó, Canada là 1 trong 3 nước thành viên mà Việt Nam chưa có thỏa thuận thương mại song phương. Cơ cấu sản phẩm của Việt Nam và Canada ít cạnh tranh mà mang tính bổ sung cho nhau.

Chính vì vậy, nếu doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt được tốt cơ hội, CPTPP sẽ mở rộng cánh cửa xuất khẩu cho tôm Việt và cho nhiều mặt hàng công nghiệp chế biến, chế tạo, vốn là thế mạnh của Việt Nam như thủy sản, dệt may, da giày, đồ gỗ…

Cảnh báo xuất khẩu tôm sang Trung Quốc

Thách thức từ thị trường tăng tốt nhất

Số liệu từ Hiệp hối chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) cho thấy, tháng 10, xuất khẩu sang Trung Quốc có mức tăng tốt nhất trong số 6 thị trường tiêu thụ tôm chính của Việt Nam, đạt 20,4%. Tính chung 10 tháng đầu năm, xuất khẩu sang thị trường này đạt 438,6 triệu USD, tăng 8,7%.

Xuất khẩu sang Trung Quốc từ nay đến cuối năm được dự báo vẫn tăng do nhu cầu tiêu thụ tôm của nước này vẫn cao nhằm phục vụ Tết nguyên đán.

Tuy nhiên, VASEP lưu ý Trung Quốc nói riêng và các nước vừa nuôi tôm vừa nhập khẩu tôm nói chung có xu hướng thắt chặt kiểm tra dịch bệnh trong sản phẩm nhập khẩu để đảm bảo cho sản xuất trong nước.

Ví dụ, trong tháng 9, Trung Quốc đưa ra lệnh cấm nhập khẩu tôm từ 5 công ty xuất khẩu tôm lớn của Ecuador do lo ngại dịch bệnh có thể lây lan vào nước này. Lệnh cấm này được cho là sẽ kéo giảm nhập khẩu tôm Ecuador của Trung Quốc, từ đó tạo cơ hội cho Việt Nam tăng bán hàng sang thị trường này.

Do vậy, ngành tôm và doanh nghiệp tôm Việt Nam cần nhìn rõ thách thức từ việc Trung Quốc cấm tôm Ecuador.

Cơ hội này không kéo dài mãi vì thời hạn của lệnh cấm còn tùy thuộc vào các yếu tố như chính trị, quan hệ ngoại giao, thương mại giữa 2 nước. Nếu doanh nghiệp Việt Nam đổ xô xuất khẩu nhiều vào thị trường này, có thể sẽ bị thụ động khi tình huống thay đổi, dẫn đến bị ép giá, hạ giá…

Thứ 2, Ấn Độ, Việt Nam và một số nước sản xuất tôm khác cũng có thể lâm vào tình huống như Ecuador. Do đó, ngành tôm Việt phải lường trước các khả năng, sẵn sàng trước xu hướng tăng cường kiểm tra dịch bệnh của các thị trường nhập khẩu tôm như Australia, Hàn Quốc và Trung Quốc….

Đối với tôm Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc, từ năm 2014, giữa Việt Nam và Trung Quốc đã ký một thỏa thuận kiểm soát an toàn thực phẩm thủy sản, theo đó Trung Quốc giám sát 4 loại bệnh: đầu vàng đốm trắng, MBV, Taura, IHHNV đối với tôm sú, tôm chân trắng sống.

Tuy nhiên, các nhà sản xuất, xuất khẩu tôm Việt Nam cũng cần lường trước về khả năng Trung Quốc sẽ kiểm tra khắt khe hơn về dịch bệnh trong tôm xuất khẩu từ Việt Nam, có thể không chỉ kiểm tra tôm sống và các dạng sản phẩm khác như ướp lạnh, đông lạnh.

Mục tiêu năm 2019 khó đạt?

Mặc dù xuất khẩu tôm vào thị trường Trung Quốc có mức tăng trưởng tốt nhưng nhìn vào số liệu thống kê của VASEP cũng cho thấy, tháng 10, xuất khẩu tôm tiếp tục giảm 0,8%, ghi nhận tốc độ giảm chậm hơn so với tháng trước. Như vậy, xuất khẩu đã giảm ở hầu hết tháng của năm 2019, duy nhất tăng trong tháng 7.

Tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này theo đó đạt 2,8 tỷ USD, giảm 6,4% so với cùng kỳ năm ngoái.  Xuất khẩu cả năm 2019 được dự báo đạt khoảng 3,4 tỷ USD, giảm 4% so với năm 2018. Trong khi năm 2019, ngành thủy sản Việt Nam đặt mục tiêu tiếp tục tăng trưởng xuất khẩu đạt mức 10 tỷ USD, trong đó xuất khẩu tôm phấn đấu đạt 4,2 tỷ USD.

sfd

 Xuất khẩu đã giảm ở hầu hết tháng của năm 2019, duy nhất tăng trong tháng 7.

Xuất khẩu sang Liên minh châu Âu (EU), thị trường tiêu thụ lớn nhất của tôm Việt tiếp tục giảm 11,6%. Kết quả, xuất khẩu sang thị trường này giảm 19,9% trong 10 tháng đầu năm nay và 580,8 triệu USD. Trong 3 thị trường nhập khẩu chính tôm Việt Nam thuộc khối EU, bán hàng sang Anh và Hà Lan giảm 2 con số.

Chia sẻ tại một hội thảo thuộc khuôn khổ Hội chợ Vietfish 2019 vào cuối tháng 8, ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch CTCP Thực phẩm Sao Ta nhận định EU là thị trường rộng lớn với tôm Việt nhưng chưa mở cửa, nên doanh nghiệp buộc phải thay đổi mình để đáp ứng các tiêu chuẩn như truy xuất nguồn gốc, quy định về mật độ nuôi, cách thu hoạch…

Theo ông Lực, EU có nhu cầu cao về tôm đông rời mà đây vốn là thế mạnh của doanh nghiệp Việt. “Doanh nghiệp nên tận dụng thế mạnh là chế biến hàng cao cấp có mức thuế cao như tôm luộc. Với sản phẩm này, đối thủ bị áp thuế cao là 20% trong khi hàng Việt Nam được hưởng thuế GSP là 7%, đồng thời giá thành nhập khẩu có sự chênh lệch lớn”.

Dự báo xuất khẩu sang EU trong những tháng cuối năm chưa thể phục hồi.

Nhu cầu mua tôm Việt của Mỹ tích cực hơn trong bối cảnh tồn kho trong nước và nhập khẩu từ Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc giảm. Hơn nữa, kết quả khả quan về thuế chống bán phá giá tôm Việt Nam vào Mỹ trong đợt rà soát hành chính lần thứ 13 cũng là động lực để các doanh nghiệp xuất khẩu tôm đẩy mạnh bán hàng sang thị trường này.

Tôm Việt được cho là hưởng lợi từ cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung. Tuy nhiên, theo đánh giá của ông Hồ Quốc Lực, Mỹ là thị trường tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn là thuận lợi. Bởi, thuế chống bán phá giá vẫn kéo dài và thương chiến diễn biến khó lường khiến hàng Việt Nam bị vạ lây. Chương trình giám sát thủy sản nhập khẩu (SIMP), yêu cầu khai báo và lưu giữ hồ sơ đối với hàng thủy sản nhập khẩu cũng đang gây khó cho doanh nghiệp vì việc nuôi tôm biến động thường xuyên.