Bạn tìm thông tin gì?

Blog

Muốn có thương hiệu phải có đủ tôm sạch

Muốn có thương hiệu phải có đủ tôm sạch

Nuôi tôm
Vùng nuôi tôm công nghệ cao cung cấp nguyên liệu đạt chuẩn quốc tế.

“Thương hiệu chỉ hình thành trên nền tảng có đủ tôm sạch, dễ truy xuất, có chứng nhận quốc tế và đây được xem là điểm cốt lõi, tạo ra sự khác biệt để xây dựng thương hiệu nhanh nhất”. Và đó cũng là lý do các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu tôm khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong những năm gần đây, ráo riết, chủ động đầu tư xây dựng vùng nuôi tôm cho riêng mình.

Tùy theo điều kiện và năng lực của mình, các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu tôm ở Sóc Trăng chọn cho mình một hình thức đầu tư vùng nguyên liệu khác nhau như: thuê đất, mua đất để nuôi; liên kết với các tổ hợp tác (THT), hợp tác xã (HTX) đầu tư, tiêu thụ tôm nuôi đạt chuẩn quốc tế, tôm sạch không nhiễm kháng sinh hay chất cấm… Tuy cách làm mỗi doanh nghiệp có khác nhau, nhưng đến thời điểm hiện tại, những doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu tôm lớn như: Stapimex, Sao Ta, Vinacleanfood, Tài Kim Anh, Khánh Sủng… đều đã xây dựng cho riêng mình vùng nuôi tôm dễ truy xuất nguồn gốc, đạt chứng nhận quốc tế rộng hàng trăm héc-ta.

Theo các doanh nghiệp trên, chỉ có xây dựng được vùng nuôi tốt, đạt chứng nhận quốc tế, mới chứng minh được với khách hàng về nguồn gốc, chất lượng, an toàn thực phẩm. Khi đó, sản phẩm mới vào được những hệ thống phân phối lớn, có giá tốt và ổn định. Do đó, tất cả những vùng nuôi của các doanh nghiệp Sóc Trăng đều ứng dụng quy trình, công nghệ nuôi tôm sạch, nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao và thực hành nuôi theo các chuẩn quốc tế như: ASC, BAP… Đây được xem là xu thế tất yếu đối với doanh nghiệp, nhằm hạn chế rủi ro thị trường, bán được giá cao, khẳng định uy tín với khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi xây dựng thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường thế giới.

Hiện nay, bên cạnh vùng nuôi tôm công nghiệp 190ha đã hoạt động ổn định và có hiệu quả 7 năm nay, Công ty Sao Ta đang chuẩn bị đưa khu nuôi mới vào hoạt động ở vụ nuôi năm 2020 khoảng 90ha để có thể chủ động khoảng 30% tôm nguyên liệu có các chứng nhận quốc tế, như: ASC, BAP… Còn Công ty Cổ phần Thủy sản sạch Việt Nam (Vinacleanfood) cũng có vùng nuôi tôm riêng trên 100ha đạt chứng nhận ASC và đang tiếp tục mở rộng thêm. Không chỉ tự xây dựng vùng nuôi, Vinacleanfood còn ký kết hợp đồng liên kết chuỗi giá trị tôm đạt chứng nhận ASC, hoặc tôm sạch không dư lượng chất cấm với các HTX trong tỉnh. Tương tự, các doanh nghiệp như: Khánh Sủng, Stapimex, Út Xi cũng tự đầu tư vùng nuôi đạt chuẩn quốc tế và hợp đồng liên kết tiêu thụ sản phẩm đạt chứng nhận ASC với THT, HTX trong tỉnh.

Không chỉ các doanh nghiệp Sóc Trăng, các doanh nghiệp tại những tỉnh có vùng nuôi tôm lớn như: Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang… cũng đều xây dựng vùng nuôi riêng thông qua việc thuê đất, hoặc hợp đồng liên kết với các HTX, THT để đầu tư nuôi tôm đạt chuẩn quốc tế. Tại tỉnh Cà Mau, tận dụng điều kiện tự nhiên đặc thù, các doanh nghiệp đã liên kết với người dân thực hiện các mô hình nuôi tôm sinh thái hay tôm hữu cơ theo hình thức tôm – rừng hay tôm – lúa.

Ông Đặng Ngọc Sơn – Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần chế biến thủy sản và xuất nhập khẩu Cà Mau cho biết: “Ngay từ năm 2000, Camimex đã đầu tư vùng nuôi và đạt chứng nhận tôm sinh thái. Không chỉ được tiêu thụ với giá cao hơn 20%, sản phẩm tôm sinh thái của Camimex còn giúp tạo lập nên thương hiệu riêng cho công ty trên thị trường thế giới. Hiện Camimex đang hợp tác với một doanh nghiệp của Israel triển khai nuôi tôm công nghệ RAS năng suất cao, nhưng rất thân thiện với môi trường”. Nhắc đến con tôm sinh thái hay tôm hữu cơ không thể không nhắc đến Tập đoàn thủy sản Minh Phú, một đơn vị tiên phong trong việc phát triển vùng nuôi tôm – rừng đạt các chứng nhận sinh thái, hữu cơ và đang phát triển rộng ra mô hình tôm hữu cơ với chủ yếu là tôm – lúa.

Theo ông Võ Văn Phục – Tổng Giám đốc Vinacleanfood, việc đầu tư vùng nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao, đạt chứng nhận quốc tế không chỉ giúp doanh nghiệp chứng minh được nguồn gốc, chất lượng và sự an toàn vệ sinh thực phẩm của sản phẩm, mà còn giúp nâng cao uy tín doanh nghiệp với các nhà nhập khẩu, người tiêu dùng, từ đó, giúp cho việc xây dựng thương hiệu tôm của doanh nghiệp ngày một tốt hơn. Ngoài ra, việc tự đầu tư nuôi tôm cũng được doanh nghiệp xác định là hướng làm kinh tế rất hiệu quả, làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp từ đó giúp tăng thu nhập cho người lao động.

Tuy nhiên, theo các doanh nghiệp, muốn có vùng nguyên liệu đạt chứng nhận quốc tế cần có diện tích lớn, nguồn vốn đầu tư dồi dào, trong khi nguồn lực của doanh nghiệp thì có hạn. Do đó, để có đủ nguồn nguyên liệu đạt chứng nhận quốc tế, dễ truy xuất nguồn gốc nhằm phục vụ cho mục tiêu xây dựng thương hiệu doanh nghiệp, tiến tới xây dựng thương hiệu tôm quốc gia, Chính phủ và các bộ, ngành nên có chính sách khuyến khích nuôi trang trại, nuôi kết hợp trong THT, HTX… Các địa phương cần có quy hoạch vùng nuôi cụ thể và nên có quỹ đất sạch xây dựng các dự án nuôi tôm kêu gọi nhà đầu tư.

Tích Chu Báo Sóc Trăng
Đăng ngày: 11/12/2019

Một số thảo dược mới trong nuôi tôm

Thảo dược đóng vai trò là chất kích thích tăng trưởng, tăng cường miễn dịch, có hoạt tính kháng khuẩn và kháng nấm. Ngoài ra, thảo dược còn được nhận định có thể sử dụng thay thế cho kháng sinh dùng trong nuôi trồng thủy sản. Cao chiết thảo dược cũng được đánh giá hiệu quả trong ức chế tác nhân gây bệnh trên tôm.

Củ riềng

Cao chiết củ riềng (Alpinia galanga) được xác định có khả năng ức chế sự phát triển của V. parahaemolyticus (Chaweepack et al., 2015). Cao chiết có chứa 1′-acetoxyeugugenol acetate là thành phần có thể ức chế sự phát triển của một số vi khuẩn gram dương như Staphylococcus cerevisiaeS. epidermidisS. aureus và Bacillus cereus (Oonmetta-aree et al., 2006). Nghiên cứu của Canillac và Mourey (2001) ghi nhận 8 loài Vibrio spp. nhạy cảm với cao chiết củ riềng, trong đó có V. harveyi.

 

Quả sim

Khả năng diệt khuẩn của dịch chiết lá sim và dịch chiết hạt sim (Rhodomyrtus tomentosa) đối với các chủng vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (V. parahaemolyticus) cũng được xác định là hiệu quả trong điều kiện phòng thí nghiệm. Trong đó, dịch chiết hạt sim thể hiện hoạt tính kháng vi khuẩn gây AHPND cao hơn so với dịch chiết lá sim (Đặng Thị Lụa và ctv., 2015).

 

Cỏ gà

Hoạt tính kháng virus của cao chiết cỏ gà Cynodon dactylon đã được thử nghiệm trên trên tôm sú (Penaeus monodon). Kết quả nghiên cứu cho thấy khi bổ sung 2% cao chiết cỏ gà C. dactylon cho tỉ lệ sống 100% (Balasubramanian et al., 2008).

 

Đậu dầu

Rameshthangam và Ramasamy (2007) ghi nhận việc bổ sung bis (2-metylheptyl) phthalate được chiết xuất từ lá cây đậu dầu (Pongamia pinnata) đã làm tăng tỷ lệ sống của tôm sú (Penaeus monodon) khi gây nhiễm WSSV, với mức bổ sung 200 và 300 µg cao chiết tương ứng với tỉ lệ sống 40% và 80%.

 

Gừng

Chang et al. (2012) bổ sung chiết xuất từ gừng vào khẩu phần ăn của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) trong 56 ngày cũng giúp kích thích tăng trưởng và tăng tỷ lệ sống của tôm. Nghiên cứu của Bhavan et al. (2014) cũng ghi nhận kết quả tương tự khi bổ sung cao chiết Syzygium cumini và Phylanthus emblica vào thức ăn ấu trùng tôm Macrobrachium malcolmsonii trong 45 ngày. Kết quả cho thấy hoạt tính enzyme tiêu hóa và tốc độ tăng trưởng của tôm được cải thiện đáng kể.

Nguyễn Hằng (Tổng hợp)

Theo http://contom.vn/ đăng ngày 11/09/2019

Khắc tinh của virus gây bệnh đốm trắng ở tôm

Khắc tinh của virus gây bệnh đốm trắng ở tôm
Bệnh đốm trắng do virus là một trong các bệnh gây nên hiện tượng tôm nuôi chết hàng loạt trong các vùng nuôi tôm tại các địa phương ven biển ở nước ta từ nhiều năm qua. Để giải quyết bệnh đốm trắng cho tôm, mới đây, các nhà khoa học thuộc Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, đã chế tạo thành công chế phẩm Probiotic đề phòng virus gây bệnh đốm trắng ở tôm.
Bài toán nan giải

Việt Nam có bờ biển chạy dài từ Bắc xuống Nam, có hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ tạo nên một lợi thế lớn cho hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Thực tế thì ngành thủy sản đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, tuy nhiên, để phát triển bền vững cần có sự vào cuộc của các nhà khoa học với những đề tài mang tính ứng dụng cao.

Chưa kiểm soát tốt dịch bệnh là một hạn chế lớn của ngành thủy sản Việt Nam hiện nay. Có thời điểm, ngành thủy sản điêu đứng trước những dịch bệnh xảy ra trên tôm, cá vì bị nhiễm nấm, virut do thời tiết nóng, độ ẩm cao.

Do thời tiết bất thường, vùng nuôi ô nhiễm là nguyên nhân chính gây nên bệnh đốm trắng trên tôm. Khi ao nuôi xuất hiện dịch bệnh này người nuôi cần có phương án xử lý thích hợp để tiêu diệt mầm bệnh, tránh lây lan. Theo các nhà khoa học, tác nhân gây ra bệnh đốm trắng trên tôm do virus hoặc vi khuẩn gây ra, bệnh thường có tốc độ lây lan rất nhanh và mức độ gây hại rất lớn. Thời gian gây bệnh thường từ tháng nuôi thứ hai trở đi, khi mà lượng chất thải nuôi tôm bắt đầu xuất hiện nhiều, môi trường nước ao bị ô nhiễm, gây stress cho tôm; mầm bệnh có thể đã ủ trong tôm hoặc xâm nhập từ bên ngoài vào qua nguồn nước hoặc các loại ký chủ trung gian (cua, còng, cáy, chim…). Khi gặp thời thiết thay đổi sẽ tạo điều kiện cho các loại virus, vi khuẩn bùng phát gây ra dịch bệnh cho tôm.

Bệnh đốm trắng do virus là một trong các bệnh gây nên hiện tượng tôm nuôi chết hàng loạt trong các vùng nuôi tôm tại các địa phương ven biển ở nước ta từ nhiều năm qua.

Riêng năm 2014, theo số liệu của Cục Thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, bệnh đốm trắng đã xảy ra tại 250 xã, 68 huyện thuộc 22 tỉnh, thành phố trong cả nước, trải dọc theo chiều dài đất nước từ Quảng Ninh đến Cà Mau. So với năm trước, tuy số các địa phương để xảy ra bệnh đốm trắng giảm nhưng diện tích nuôi tôm bị bệnh lại tăng gần gấp đôi, lên tới hơn 22.600 ha, chiếm 3,33% tổng diện tích nuôi tôm của cả nước – trong đó có hơn 13.300 ha nuôi thâm canh và bán thâm canh, cùng với hơn 9.200 ha nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến.

Qua theo dõi, nhận thấy bệnh đốm trắng xảy ra trong năm qua ở cả 2 loài tôm nuôi chính là tôm chân trắng và tôm sú, với độ tuổi từ 10 đến 110 ngày sau khi thả giống. Diện tích nuôi tôm sú bị bệnh này nhiều hơn, chiếm khoảng 60% số diện tích nuôi tôm bị bệnh đốm trắng.

Giải pháp hữu hiệu

Để giải quyết bài toán bệnh bệnh đốm trắng cho tôm, mới đây, các nhà khoa học thuộc Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, đã chế tạo thành công chế phẩm Probiotic đề phòng virut gây bệnh đốm trắng ở tôm.

Thông qua việc thực hiện đề tài Nghiên cứu sản xuất chế phẩm probiotic dạng bào tử Bacillus tái tổ hợp để phòng chống virus gây bệnh đốm trắng ở tôm, mã số KC04.09/11-15, PGS.TS Phan Tuấn Nghĩa và các cộng sự Trường Đại học Khoa học Tự nhiên đã nghiên cứu sản xuất thành công dưới dạng vaccine và thử nghiệm ở quy mô pilot chế phẩm probiotic bào tử Bacillus subtilis biểu hiện kháng nguyên của virus gây bệnh đốm trắng ở tôm (tôm sú và tôm thẻ chân trắng).

Cụ thể là đã sản xuất được ở quy mô pilot 20 kg nồng độ lớn hơn hoặc tương đương 5×109/g probiotic bào tử Bacillus subtilis biểu hiện VP28 dạng CotB-VP28 và 10kg chế phẩm probiotic bào tử Bacillus subtilis biểu hiện VP28 có khả năng kích thích đáp ứng miễn dịch và bảo vệ 70% tôm không bị nhiễm bệnh đốm trắng…

“Phòng trừ bệnh cho tôm bằng phương pháp sử dụng công nghệ gen nhằm tạo ra vắc xin thế hệ mới mang kháng nguyên của tác nhân gây bệnh rồi sau đó đưa vào tôm. Điều này cho phép kích thích hệ thống miễn dịch của tôm, nhờ vậy tôm sẽ có khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh”, PGS. TS Phan Tuấn Nghĩa cho biết.

Nghiên cứu của các nhà khoa học đã thu được kết quả ban đầu khá tốt. Khi có nguy cơ lây nhiễm virus đốm trắng ở trong đầm nuôi thì tôm có khả năng phòng bệnh cao. Kết quả thu được đối với tôm thẻ chân trắng đạt trên 75%, còn tôm sú là trên 70%. Nhóm nghiên cứu cũng đã phối hợp với viện nuôi trồng thủy sản 1 và 2 thuộc Trường ĐH Cần Thơ để thử nghiệm cho thấy kết quả đạt được trên tôm sú và tôm thẻchân trắng rất khả quan. Quy trình nuôi này cũng có tác dụng ban đầu trên thực tế.

Việc sử dụng chế phẩm sinh học nhằm hạn chế tối đa khả năng sử dụng kháng sinh trong việc phòng và trị bệnh thủy sản là khuynh hướng đúng nhằm tránh khả năng tạo ra các dòng vi khuẩn kháng thuốc ảnh hưởng đến sức khỏe vật nuôi và con người.

 Đức Minh – VNU Media

Nhập khẩu tôm Mỹ trong tháng 10 với giá trị giảm

Nhập khẩu tôm Mỹ trong tháng 10 với giá trị giảm

Bởi Jason Smith ngày 12 tháng 12 năm 2019 19:43 GMT

Frozen cooked shrimp, peeled, tail on. Credit: Sergiy Palamarchuk/Shutterstock.com

Tôm chín đông lạnh, bóc vỏ, đuôi.

Tổng nhập khẩu tôm của Hoa Kỳ theo khối lượng giảm trong tháng 10 chủ yếu là do nhập khẩu thấp hơn từ Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam, thống kê nhập khẩu của Hoa Kỳ cho thấy.

Nhưng các lô hàng tăng từ Ecuador, Mexico và Argentina chủ yếu tạo ra sự khác biệt và nhập khẩu trong tháng 10 không thay đổi so với năm trước với 74.370 tấn nhập khẩu, chỉ giảm 0,4%.

Trong 10 tháng đầu năm 2019, số liệu thống kê được công bố từ Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia Hoa Kỳ cho thấy tổng nhập khẩu tôm của Mỹ đã tăng 0,88%, lên 569.334 tấn.

Theo giá trị, 74.370 tấn tôm mà Mỹ nhập khẩu vào tháng 10 năm 2019 trị giá 658,6 triệu đô la. Con số này so với 74.691 tấn được nhập vào tháng 10 năm 2018 trị giá 677,7 triệu đô la, giảm 2,8%.

Giá trung bình mỗi kg trong tháng 10 năm 2019 là 8,86 đô la / kg, so với mức 9,07 đô la / kg một năm trước đó.

 

Thống kê cho thấy Trung Quốc xuất khẩu tôm ít hơn đến Mỹ vào tháng 10 năm 2019, chỉ 1.300 tấn, giảm 66% so với cùng kỳ. Khối lượng từ Thái Lan (5.089t) và Việt Nam (7.176t) cũng giảm 16%.

Nhập khẩu tôm Mỹ, tháng 1-10 / 2019

Quốc gia Ngày 18 tháng 10 Ngày 19 tháng 10 THÁNG 10 NĂM 2018 THÁNG 10 NĂM 2019 THÁNG 12 NĂM 2018
Nguồn: NOAA
Ấn Độ 27,861 32,197 203,372 230,547 247,783
Indonesia 12,581 12,678 109,252 107,602 132,317
Ecuador 6,785 6,867 65,212 70,077 75,893
Vietnam 8,573 7,176 47,228 49,301 58,383
nước Thái Lan 6,088 5,089 38,393 33,872 49,686
Mexico 4,785 5,316 15,344 20,472 24,884
Trung Quốc 3,786 1,300 39,972 17,095 50,814
Argentina 1,030 1,272 8,847 10,536 11,033
Peru 873 460 9,163 6,743 10,532
Guyana 51 55 6,142 4,384 7,006
Khác 2,278 1,960 21,407 18,705 27,001
Toàn bộ 74,691 74,370 564,332 569,334 695,332

 

Khối lượng từ Ấn Độ (32.197t), Mexico (5.316t) và Argentina (1.272t) đều tăng, lần lượt là 16%, 11% và 23%.

Nhập khẩu Ấn Độ ngày càng tăng vào Hoa Kỳ phản ánh xuất khẩu tăng mạnh của nước đó. Đầu tháng này, Underciverse News đã báo cáo rằng Ấn Độ đang trên đà đập tan những nghi ngờ và tăng trưởng xuất khẩu tôm vào năm 2019, sau khi sự phục hồi về khối lượng xuất xưởng trong quý thứ ba. 

Theo Bộ Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ, trong ba tháng từ tháng 7 đến tháng 9, Ấn Độ đã xuất khẩu 190.000 tấn tôm đông lạnh, tăng 8% so với quý 3 năm 2018 và tăng 21% so với quý 2 năm 2019.

Khối lượng xuất khẩu của Ecuador sang Mỹ cũng tăng nhẹ, 1%, lên 6.876 tấn trong tháng Mười. Xuất khẩu của đất nước đó đã tăng lên do sự cải thiện vốn trong các trang trại.

Bởi Jason Smith theo undercurrentnews 

 

Giá tôm Ấn Độ khó có thể giảm đến năm 2020

Bởi  ngày 11 tháng 12 năm 2019 09:35 GMT

 

Với nhu cầu của Mỹ không tăng và dự kiến tháng 12 không có dòng nguyên liệu thô lớn,  dự đoán sự ổn định của giá tôm Ấn Độ vào đầu năm sau.

Theo một thương nhân thủy sản, nói với   Underciverse News nhu cầu của của Mỹ là “không quá sôi động” vào lúc này, với số liệu nhập khẩu tổng thể giảm vào tháng 9 năm 2019. Dữ liệu của Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia cho thấy hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ (tính từ đầu năm) là 63.737 tấn trong tháng đó, giảm từ 64.476 tấn.

(Mặc dù, nhập khẩu từ Ấn Độ vẫn tăng 11% so với cùng kỳ năm ngoái, ở mức 27.645 tấn). “Các nhà nhập khẩu Mỹ và Canada dường như đang tập trung vào doanh số bán hàng của họ cho mùa lễ sắp tới”, thương nhân nói.

Một số nguồn tin xác nhận Trung Quốc đang có nhu cầu lớn .

Nguồn tin ban đầu cho biết “Hiện tại hầu hết các nhà sản xuất Ấn Độ quan tâm đến Trung Quốc nhiều hơn, vì người mua Trung Quốc đang đưa ra mức giá hấp dẫn hơn, chuẩn bị cho năm mới của Trung Quốc,” . Ngày lễ  sẽ được tổ chức vào ngày 25 tháng 1. Cập nhật vào tháng 12, ông khẳng định nhu cầu – đặc biệt là từ Trung Quốc – vẫn tốt và giá cả khá ổn định ở một số quốc gia sản xuất, bao gồm cả Ấn Độ.

Một nhà sản xuất Ấn Độ, cho biết ông không hy vọng giá sẽ giảm “vì các nhà máy Trung Quốc tiếp tục mua nguyên liệu thô cho thị trường địa phương của họ và xu hướng này dự kiến ​​sẽ tiếp tục sau Tết”.

Ông cũng nói thêm rằng khối lượng nhập khẩu tôm từ một số công ty lớn nhất của Ecuador của Trung Quốc  hiện đã hoàn toàn đảo ngược vào cuối tháng 11 – ảnh hưởng đến giá mua ở Trung Quốc, “nhưng việc sản xuất tôm có vỏ, đầu ở Ấn Độ chỉ chiếm một phần nhỏ so với Ecuador, vì vậy nó không phải là người có ảnh hưởng lớn đến giá cả địa phương Ấn Độ “.

Cuối cùng, Durai Murugan, thư ký Hiệp hội Tôm Pattukottai, Tamil Nadu, nói với  Underciverse  có nhu cầu tốt từ các nhà xuất khẩu vào tháng 11, với sự mất giá của đồng rupee Ấn Độ giúp mang lại cho nông dân một mức giá tốt.

“Trong năm tới, chúng tôi mong đợi giá tốt, tôi đang nghe tin tốt từ Trung Quốc khi họ đang thể hiện sự quan tâm tốt đến Tết Nguyên đán”, ông nói. “Giá có thể sẽ ổn định.”

Cuối cùng, một nhà nhập khẩu có trụ sở tại Mỹ đã xác nhận rằng ông dự kiến ​​giá sẽ duy trì ở mức hợp lý.

“Tôi nghĩ rằng giá tổng thể sẽ duy trì ổn định  cho size 21/25 và kích thước nhỏ hơn cho đến vụ mùa hè năm 2020, mà chúng ta có thể mong đợi vào tháng Tư / tháng Năm,” ông nói với  Underciverse . “Chúng tôi có thể thấy giá hơi tăng trở lại vào size 16/20 khi sản lượng hiện tại bắt đầu giảm  vào cuối tháng 12 hoặc đầu tháng 1.

Nguồn cung từ size 13/15 trở lên có  thể tiếp tục thiếu, nhưng ông vẫn không hy vọng giá sẽ tăng nhiều trên các kích cỡ này, ông nói. Tính khả dụng thấp nói chung có thể sẽ bù đắp áp lực giảm giá trong vài tuần tới của nhu cầu xuất khẩu mềm.

“Thị trường ở đây hiện đang ổn định, điều này là bình thường trong thời gian này của năm. Việc mua gần đây vào đầu năm mới của Trung Quốc đã giữ giá nguyên liệu ổn định. Giá chào bán từ các nhà chế biến cũng vẫn ổn định”, ông nói.

Thu hoạch ổn định

Trong khi nhu cầu có vẻ vẫn ổn định, nguồn cung dự kiến ​​sẽ không tăng nhiều, các nguồn tin nói với Underciverse.

“Vụ thứ hai ở Orissa dự kiến ​​sẽ kết thúc vào tháng 12,” thương nhân nói. “Điều đó có nghĩa là chúng tôi phải nhận được nguồn cung từ Andhra Pradesh sau Tết. Về cơ bản, hầu hết các trang trại ở Andhra Pradesh mất 90-110 ngày để thu hoạch và chúng tôi được thông báo rằng việc thu hoạch ở quy mô đầy đủ sẽ bắt đầu vào cuối Tháng 11. Chỉ sau đó chúng ta mới thực sự thấy năng suất sẽ như thế nào. ”

Ở bờ biển phía tây Ấn Độ – đặc biệt là Gujarat – đã có báo cáo về các vấn đề chất lượng nước, mặc dù thương nhân này chưa thấy tác động đáng kể nào từ việc này cho đến nay, ông nói thêm.

Giá nông trại ở bang này đã chứng kiến ​​xu hướng tăng trên các kích cỡ lớn hơn và “xu hướng giảm nhẹ trên tôm nhỏ hơn”, vào tháng 11, ông nói. Phát biểu lại vào tháng 12, ông cho biết giá của Gujarat vẫn ổn định và thu hoạch đang tăng, nhưng vẫn chưa hoàn toàn ổn định.

Ở Andhra Pradesh, sau khi giảm giá , họ dường như đã ổn định trở lại. “Chúng tôi đã thấy mức tăng 30 INR trên size 20, trong khi giá cho phần còn lại (size 30  trở xuống) không đổi”, thương nhân này cho biết vào tháng 11.

Ông cho biết  vào tháng 12. ” Size trung bình đang được thu hoạch là khoảng 40-70. Rất hiếm khi thấy size  20-25 vì nông dân đang tránh những rủi ro liên quan đến việc nuôi tôm với kích cỡ lớn hơn.” Giá cả ở đây đang cho thấy một xu hướng tăng trên hầu hết tất cả các kích cỡ.

“Xu hướng tăng giá cũng đang diễn ra ​​ở Tây Bengal.”

Như có thể thấy  giá năm 2019 ở Andhra Pradesh đã ổn định hơn trong năm nay, nhưng thấp hơn so với năm 2017 – và so với năm 2018, đối với các phần của năm:

Các thương nhân cũng nói rằng trong khi giá Ấn Độ đã tăng một chút trong tháng 12, nhưng vẫn thấp hơn ở Việt Nam và “thậm chí cả Indonesia”, đặc biệt là đối với size 60. 

Tại hội nghị Infofish gần đây  tại Bangkok , Thái Lan, Anil Kumar, giám đốc điều hành của Cơ quan Phát triển Xuất khẩu Hàng hải (MPEDA),  cho biết ông đã ngạc nhiên khi  thấy sự mạnh mẽ của sản xuất tôm của Ấn Độ mặc dù giá tôm toàn cầu thấp.

Ghi nhận sự bi quan về triển vọng của Ấn Độ trong nửa đầu năm 2019, Kumar nói: Mọi người đều dự đoán rằng giá đã giảm từ năm ngoái, có tin đồn về rất nhiều bệnh ở đó, nhưng tin tốt là thực sự dữ liệu cho thấy sản xuất đã đi lên. ”

Ấn Độ đang trên đà đánh bại những  nghi ngờ và tăng trưởng xuất khẩu tôm vào năm 2019 , sau khi sự phục hồi về khối lượng xuất xưởng trong quý thứ ba, số liệu mới nhất của Ấn Độ cho thấy.

Một nhà sản xuất Ấn Độ, đã lưu ý vào tháng 11 rằng nguồn cung của Ấn Độ đã yếu trong chín tháng qua, “với giá liên tục tăng cao hơn, mặc dù chúng tôi thấy trong hai tuần qua giá đã bắt đầu hạ nhiệt”.

Nhưng, ông nói, không có đủ nguyên liệu để  giảm giá lớn.

“Thu hoạch từ vụ thứ hai đã bắt đầu nhưng với mật độ thấp do lo ngại vì sợ bệnh, chúng tôi không mong đợi nguồn cung tăng mạnh, và một lần nữa, nhu cầu ở Trung Quốc cùng với việc xuất khẩu thường xuyên sang Mỹ sẽ giữ giá nguyên liệu ổn định. “

Ông nói thêm “Mở rộng năng lực sản xuất – nhiều trong số đó là liên doanh không có sự tăng trưởng thực sự về sản lượng nông nghiệp từ đầu năm đến nay – sẽ giữ giá ổn định, mặt khác là sự khuyến khích tốt cho nông dân, chủ yếu là vừa và nhỏ kích thước để liên tục mở rộng diện tích đất canh tác của họ.

Murugan nói thêm rằng giá cả có thể sẽ ổn định vì phần lớn các vụ thu hoạch gần như đã kết thúc ở Tamil Nadu, và nông dân ở đó sẽ thả lại vào tháng Hai.

“Giá đang giữ vững ở size 40 và 30 . Hầu hết các hàng có sẵn ở thị trường Ấn Độ là khoảng size 70 đến 50.”

Theo      undercurrentnews

 

Australia: Xử lý bệnh đốm trắng và IHHNV

Công ty CSIRO vừa phát triển công nghệ mới chẩn đoán bệnh chính xác, giúp người nuôi tôm tại Australia có thể tăng doanh thu tới 67.000 USD/ha.

Công nghệ Shrimp MultiPath được phát triển cho ngành tôm nuôi tại Australia đang phải đối mặt tổn thất lớn từ dịch bệnh suốt hơn 3 năm qua. Shrimp MultiPath có thể phát hiện chính xác 13 loại dịch bệnh trên tôm, trong đó có cả dịch bệnh đốm trắng từng khiến ngành tôm Australia bị thiệt hại nặng nề vào năm 2016 và  bệnh hoại tử vỏ và cơ quan tạo máu (IHHNV).

Theo CSIRO, Shrimp MultiPath đã được sử dụng thí điểm tại một số trại nuôi tôm như một công cụ quản lý dịch bệnh IHHNV. Kết quả cho thấy, Shrimp MultiPath giúp trại nuôi tăng sản lượng tới 3,7 tấn/ha, tương đương 67.000 USD. Điều này đồng nghĩa, một trại nuôi tôm rộng 50 ha có thể tăng doanh thu tới hơn 3 triệu USD/vụ nếu sử dụng công nghệ chẩn đoán bệnh này.

Tổng diện tích ao nuôi thuộc các trang trại tôm tập trung dọc phía Bắc New South Wales và Queensland lên tới 750 ha. Do đó, nếu có thể tăng sản lượng 3,7 tấn/ha thì năng suất nuôi tôm toàn vùng này có thể tăng thêm 50%. Giám đốc CSIRO, Tiến sĩ Larry Marshall chia sẻ: Genics – đơn vị chịu trách nhiệm kinh doanh cho CSIRO đã đưa các kết quả nghiên mang tính đột phá của Cơ quan khoa học quốc gia Australia vào ứng dụng thực tiễn trên thị trường. Các xét nghiệm nhanh của Genics giúp người nuôi tôm đưa ra quyết định quản lý trại nuôi tốt hơn, giảm thiểu tổn thất do tôm chết, bệnh; tăng sản lượng và giảm phụ thuộc vào nguồn tôm nhập khẩu. Từ đó mang lại các sản phẩm tôm nuôi chất lượng cao tại nội địa tới người tiêu dùng tại Australia.

Shrimp MultiPath phát hiện được bệnh đốm trắng và nhiều mầm bệnh nước ngoài chưa từng xuất hiện tại Australia. Công nghệ này cũng được các cơ quan an toàn sinh học sử dụng như một hệ thống phát hiện sớm nhằm ngăn chặn lây lan dịch bệnh có thể gây tổn hại ngành tôm trong tương lai.

Tuấn Anh
Theo Fisnews

Đầu tư lớn cho nuôi tôm công nghệ cao

Đầu tư lớn cho nuôi tôm công nghệ cao

Đo size tôm.
Tôm nuôi theo mô hình công nghệ cao rất nhanh lớn, lớn đều, và cho năng suất cao.

Tỉnh Đồng Nai đã có kế hoạch đầu tư hàng trăm tỷ đồng xây dựng mô hình nuôi thuỷ sản tập trung áp dụng công nghệ cao.

Theo khảo sát và đánh giá của Chi cục Thủy sản Đồng Nai, điều kiện môi trường, chất lượng nguồn nước ở khu vực huyện Nhơn Trạch rất phù hợp với con tôm. Nhưng do lâu nay người dân vẫn nuôi theo phương pháp truyền thống nên năng suất không cao, rủi ro cao về dịch bệnh con tôm do nguồn nước ô nhiễm.


Kiểm tra nguồn nước trong ao ươm tôm giống.

Đến năm 2016, một số hộ dân bắt đầu liên kết với danh nghiệp, phát triển mô hình nuôi tôm theo hướng công nghệ cao. Kết quả đạt được ngoài mong đợi khi năng suất cao hơn gấp nhiều lần cách nuôi truyền thống. Khi liên kết với doanh nghiệp, người nuôi tôm được khuyến cáo chia nhỏ diện tích ao nuôi để dễ quản lý.


Một trong những mô hình nuôi tôm lót bạt đáy ao, áp dụng công nghệ cao ở xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai.

Đồng thời, ngoài ao nuôi, còn phải có áo ươm giống, ao lắng để đảm bảo chất lượng nguồn nước. Mặc dù thu hẹp diện tích nuôi, nhưng vẫn không giảm doanh thu, mà trái lại. Nguyên do, nuôi đúng kỹ thuật, tôm nhanh lớn hơn, mật độ thả giống dày hơn, năng suất cao hơn và số vụ nuôi một năm cũng tăng gấp 2 lần. Chính vì vậy, với mô hình này, người nuôi sẽ tăng được lợi nhuận và quan trọng hơn là họ không còn phải lo lắng về dịch bệnh.

Ông Nguyễn Văn Nhân, cán bộ Phòng Kinh tế huyện Nhơn Trạch cho biết: “Nếu trước đây, nuôi tôm theo phương pháp truyền thống, trên diện tích 01 ha, nông dân sẽ dành 70% diện tích nuôi và 30% diện tích còn lại dùng để xử lý nước. Song bằng phương pháp nuôi công nghệ cao hiện nay thì hoàn toàn ngược lại, nông dân sẽ dành đến 70% diện tích để xử lý nước nguồn nước và chỉ nuôi trên diện tích 30%”.

Theo ông Nhân, với sự chuyển đổi này, năng suất tôm mỗi vụ thu hoạch cao gấp 3-4 lần so với nuôi ao đất. Trung bình mỗi năm, mô hình này có thể nuôi được từ 4 vụ chứ không chỉ làm được 2 vụ như cách nuôi truyền thống. Rủi ro dịch bệnh cũng được kiểm soát tốt hơn.

“Từ khi áp dụng mô hình nuôi theo hướng công nghệ cao, hiệu quả mang lại khá rõ rệt. Từ vài hộ ban đầu, nay đã có gần 3 chục hộ nuôi tôm công nghệ cao, diện tích nuôi tăng lên 56,5ha, lợi nhuận ước đạt gần 2 tỷ đồng/ha.

Để phát triển nghề nuôi tôm theo hướng bền vững, Sở NN-PTNT tỉnh Đồng Nai đã ban hành Kế hoạch hành động phát triển ngành tôm tỉnh Đồng Nai đến năm 2025.

Theo đó, mục tiêu chung là nhằm phát huy lợi thế, tiềm năng thúc đẩy lĩnh vực thủy sản của tỉnh, trong đó ngành tôm phát triển mạnh theo hướng an toàn, sản xuất hàng hóa, áp dụng tiến bộ kỹ thuật hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và bền vững, góp phần tích cực nâng cao thu nhập cho người dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái.

Trong đó, mục tiêu cụ thể là đến năm 2025, phát triển diện tích nuôi tôm càng xanh lên 45 ha, sản lượng 202 tấn; Duy trì diện tích nuôi tôm nước lợ đạt 430 ha, trong đó diện tích khu quy hoạch nuôi tôm tập trung đạt 360 ha, diện tích ngoài quy hoạch 70 ha, sản lượng đạt 19.200 tấn.

Định hướng phát triển của ngành tôm tỉnh Đồng Nai là phát triển các mô hình nuôi tôm công nghệ cao, thân thiện với môi trường nhằm phát triển năng suất, tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, có chất lượng cao; khuyến khích áp dụng sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP.


Ngoài tôm sú, tôm càng xanh cũng đang được nhiều hộ dân ở huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nuôi rất thành công.

Để tổ chức thực hiện, nhiều giải pháp đồng bộ được đưa ra như: Phát triển các mô hình hợp tác, liên kết dựa trên tổ chức lại các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, phân tán thành tổ hợp tác, hợp tác xã để tạo ra vùng sản xuất nguyên liệu lớn, tập trung, làm đầu mối liên kết với các doanh nghiệp cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm theo giá trị; Thu hút doanh nghiệp tham gia đầu tư nuôi tôm theo hướng công nghệ cao, siêu thâm canh; Nghiên cứu, hình thành các doanh nghiệp trong nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm…

Theo Phòng Kinh tế huyện Nhơn Trạch, 9 tháng đầu năm 2019, tổng diện tích nuôi thủy sản ở địa phương trên 1.900ha, trong đó, phần lớn diện tích là nuôi tôm nước lợ, tập trung nhiều ở các xã: Phước An, Đại Phước, Phú Hữu, Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch.

Đầu năm 2018, tỉnh Đồng Nai đã phê duyệt dự án khu nuôi thủy sản tập trung tại huyện Nhơn Trạch giai đoạn từ nay đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Mục tiêu là phát triển mô hình nuôi tôm công nghệ cao theo hướng siêu thâm canh, tôm thành phẩm đạt chuẩn xuất khẩu.

Theo đó, tổng diện tích của dự án là hơn 700ha. Trong đó, vùng nuôi tôm nước lợ ứng dụng công nghệ cao tập trung tại 2 xã Phước An và Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch có diện tích 682ha, 21ha diện tích còn lại dành cho khu nuôi hàu tập trung. Tổng chi phí đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu nuôi thủy sản tập trung ứng dụng công nghệ cao này là hơn 226 tỷ đồng.

HỒNG THUỶ Nông nghiệp Việt Nam
Đăng ngày: 13/12/2019