Thương lái tranh nhau mua tôm
Sau gần 3 năm liên tục đứng ở mức thấp, giá tôm thẻ chân trắng ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) tăng mạnh do nguồn cung khan hiếm.
Giá tôm tăng từng ngày
Ông Nguyễn Văn Sen – một nông dân ở thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng – cho biết đã khá lâu rồi người nuôi tôm mới hưởng trọn niềm vui trúng mùa, được giá. Sau hơn 3 tháng thả nuôi 350.000 con giống tôm thẻ chân trắng, tôm đạt cỡ 40 con/kg, thu hoạch được 10 tấn.
Giá tôm thẻ chân trắng đang được thương lái mua tại ao khoảng 146.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, ông Sen còn lời khoảng 700 triệu đồng. “Với giá tôm nguyên liệu tăng mạnh như hiện nay, nếu quản lý tốt, sau khi trừ chi phí, người nuôi có lời khoảng 70.000 đồng/kg, tức đầu tư một lời một” – ông Sen cho biết.
Ông Nguyễn Văn Phong (xã Thạnh Trị, huyện Bình Đại, Bến Tre) cũng cho biết gia đình ông vừa thu hoạch hai ao được hơn 8 tấn. Do tôm của ông Phong đạt cỡ 30 con/kg nên bán được giá cao, trên 175.000 đồng/kg, tăng hơn 40.000 đồng/kg so với cách đây vài tháng.
“Cũng may nhờ vụ này trúng tôm, bán được giá cao, gỡ gạc vốn. Nếu không, chẳng trả nợ được chứ nói gì đến chuyện còn vốn tái đầu tư cho vụ nuôi sau” – ông Phong cho biết. Trong vụ nuôi năm trước, do giá tôm xuống thấp, hao hụt lớn, sản lượng không đạt nên gia đình ông Phong bị thua lỗ nặng.
Hơn 20 năm nuôi tôm, ông Trần Văn Thuận (xã Liêu Tú, huyện Trần Đề, Sóc Trăng) cho biết chưa bao giờ thương lái “chăm sóc” người nuôi tôm tốt như lúc này. Do nắm được thông tin gia đình ông có gần 15 tấn tôm thẻ sắp thu hoạch, thương lái gọi điện, đến tận nhà năn nỉ ông bán tôm cho họ. “Người nào cũng muốn mua cho bằng được. Ngoài chào giá cao, họ cam kết sau khi cân tôm xong, trả tiền mặt ngay tại ao” – ông Thuận nói.
Ông Hoàng Văn Thành – một thương lái thu mua tôm nguyên liệu trên địa bàn huyện Đầm Dơi (Cà Mau) – nói do thất mùa, chưa phải vụ chính nên tôm nguyên liệu thời gian qua không nhiều. “Trong hai tháng gần đây, dù tranh thủ chạy ngược xuôi tìm mối lái nhưng tôi thu mua tôm cũng không được nhiều. Có hôm chỉ được vài trăm ký. Nếu có nhiều, bao nhiêu cũng bán hết” – ông Thành tiếc nuối.
Nguyên liệu khan hiếm
Bà Nguyễn Thị Hồng – một chủ vựa tôm ở huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng – cho hay giá tôm thẻ nguyên liệu những ngày gần đây nhảy múa khó lường, có ngày tăng đến 3.000 đồng/kg. Đầu tháng 11, tôm cỡ 40 con/kg chưa chạm 120.000 đồng/kg, nhưng hiện tăng thêm 24.000 đồng, đạt ngưỡng 144.000 đồng/kg, cao nhất trong 4 năm trở lại đây. “Tuy vậy giá tôm vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, dự báo sẽ còn tăng trong những ngày tới” – bà Hồng nói.
Tại Bến Tre, giá tôm nguyên liệu còn “nóng” hơn. Tôm thẻ cỡ từ 20-30 con/kg hiện được thương lái chào mua với giá 175.000-190.000 đồng/kg, tăng hơn 50.000 đồng/kg so với ba tháng trước đó. Giá tôm cỡ 100 con/kg cũng tăng nhẹ, được thương lái mua trên 100.000 đồng/kg.
Theo ông Võ Văn Phục – tổng giám đốc Công ty CP Thủy sản sạch Việt Nam, do sản lượng năm nay giảm nên giá tôm nguyên liệu những tháng cuối tăng mạnh. Nhiều thương lái tại các địa phương khác đổ về Sóc Trăng tìm mua nguyên liệu, chào giá hấp dẫn, nhưng với lợi thế sân nhà, các doanh nghiệp của tỉnh chiếm lợi thế hơn. Người nuôi vẫn thích bán cho bạn hàng truyền thống lâu nay.
Ông Trần Văn Trung – giám đốc Công ty TNHH thủy sản Anh Khoa, Cà Mau – cũng cho biết công ty đang gặp khó trong khâu tôm nguyên liệu, do nguồn cung không chỉ khan hiếm mà giá khá cao, tăng trung bình 15-20%. Điều này cũng ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu tôm năm nay.
“Tôm sú và tôm thẻ đều thất thu so với năm ngoái, tôm nguyên liệu giảm nhiều. Bài toán tôm nguyên liệu xuất khẩu từ nay đến cuối năm chưa thấy có dấu hiệu khả quan” – ông Trung nhận định.
Theo ông Hồ Quốc Lực – tổng giám đốc Công ty CP thực phẩm Sao Ta (Sóc Trăng), do thiếu nguyên liệu chế biến, các nhà máy tranh mua để “trả nợ” những hợp đồng đã ký trước đó nên đẩy giá tôm thời gian gần đây leo thang. “Giá hợp đồng không tăng, do vậy càng thu mua nhiều, doanh nghiệp càng lỗ” – ông Lực nói.
Dự báo thị trường sắp tới, ông Lực cho rằng do tôm nước ta đang phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, mà hiện nay các vùng nuôi tôm lớn trên thế giới đều đang gặp sự cố về dịch bệnh tôm nên khả năng cung ứng từ nay đến cuối năm không đáng kể. Do cung cầu, giá tôm tươi sẽ tăng đều nhẹ từ nay đến cuối năm. Nhưng nếu kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm ở cuối năm, giá tôm sẽ khó duy trì ở mức cao. Bởi thương lái Trung Quốc sẽ ngưng hoặc giảm mua tôm cỡ lớn, khả năng sẽ có tác động làm giá tôm tươi điều hòa hơn. Dự kiến từ tháng 3 năm sau, các vùng nuôi thuộc Nam bán cầu sẽ bắt đầu thu hoạch tôm, nhất là từ Indonesia. Nếu thu hoạch tốt, giá sẽ giảm như từng xảy ra hai năm qua. Tuy nhiên, do dịch bệnh tôm nên đến thời điểm này chưa có một dự báo rõ ràng về khả năng cung năm 2020. Do vậy, các hộ thả nuôi sớm năm 2020 sẽ có giá bán khả quan, xuất phát từ giá cao hiện nay.
Trong khi đó ông Lương Minh Quyết (giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Sóc Trăng) khuyến cáo không đua nhau nuôi tôm ào ạt, chỉ khi nào đủ điều kiện mới nên thả nuôi tránh rủi ro, bị dội hàng và rớt giá. Việc có nhiều thương lái cạnh tranh thu mua tôm sẽ tạo sân chơi bình đẳng, có lợi cho người nuôi. Đơn vị nào có chính sách tốt, giá hợp lý thì nông dân sẽ hợp tác. Đó là quy luật thị trường.
Hầu hết các doanh nghiệp chế biến thủy sản Sóc Trăng đều đầu tư nuôi tôm quy mô trang trại, công nghệ cao. Ngoài việc phục vụ cho truy xuất nguồn gốc, có nguồn tôm sạch, nhờ có trang trại riêng mà các doanh nghiệp Sóc Trăng chủ động hơn trong khâu nguyên liệu.
Nghiên cứu men vi sinh mới phù hợp cho nuôi thủy sản mặn lợ
Nghiên cứu men vi sinh mới phù hợp cho nuôi thủy sản mặn lợ
Các nhà khoa học đã nghiên cứu phân lập bọt biển để tìm ra chủng vi sinh phù hợp với nuôi trồng thủy sản nước mặn – lợ, nhằm khắc phục hạn chế của men vi sinh có nguồn gốc trên cạn khi dùng ở độ mặn và nhiệt độ cao.
Một số loài vi khuẩn làm tăng tỷ lệ tử vong ở tôm và gây thiệt hại kinh tế lớn. Nghiêm trọng nhất là Hội chứng hoại tử gan tụy cấp (AHPND) do vi khuẩn Vibrio (V. parahaemolyticus) gây ra tỷ lệ chết đáng kể, có thể lên đến 100% trên tôm nuôi bị nhiễm bệnh tại nhiều quốc gia. Trong đó hiệu quả kiểm soát các dòng Vibrio spp. của kháng sinh và chất khử trùng khá hạn chế. Dẫn đến việc sử dụng men vi sinh làm công cụ kiểm soát dịch bệnh ngày càng được quan tâm và phổ biến.
Hiện tại, có rất nhiều men vi sinh thương mại, chủ yếu dựa trên các chủng vi khuẩn Lactobacillus và Bacillus. Thông qua việc thay đổi hệ vi sinh đường ruột trong tôm bằng cách tiết ra các chất kháng khuẩn, nhằm cạnh tranh chống lại mầm bệnh, ngăn chặn sự bám dính của chúng vào biểu mô ruột, cạnh tranh các chất dinh dưỡng cần thiết và chống độc.
Ở môi trường biển, dòng Vibrio spp. thuận lợi phát triển trong độ mặn và nhiệt độ cao, trong khi hầu hết các chủng men vi sinh thương mại hiện nay lại có nguồn gốc trên cạn, vì thế hiệu quả của chúng bị hạn chế. Theo Zhang et al. (2016), độ mặn làm thay đổi hệ vi sinh vật trong tôm, độ mặn càng cao thì Vibrio càng chiếm ưu thế, trong khi theo Vezzulli et al. (2013), nhiệt độ dưới 370C ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của Lactobacillus.
Cho nên, khám phá sinh học biển để phân lập vi khuẩn dùng làm chế phẩm sinh học trong nuôi thủy sản nước mặn – lợ là một giải pháp đầy hứa hẹn.
Men vi sinh phân lập từ bọt biển là một giải pháp đầy hứa hẹn cho nuôi trồng thủy sản.
Pseudovibrio chiết xuất từ bọt biển
Động vật không xương sống dưới biển, đặc biệt là bọt biển, chứa các cộng đồng vi sinh vật rất đa dạng. Trong số các vi khuẩn biển có thể nuôi cấy thì nổi bật là chi Pseudovibrio nhờ tính linh hoạt có thể tạo ra hoạt tính sinh học chống lại đa dạng các vi khuẩn Gram âm và Gram dương như: E. coli, Bacillus subtilis, Kluyveromyces marxianus, Salmonella enterica, Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA) và Clostridium difficile.
Thiết lập nghiên cứu
Tổng cộng có chín mẫu bọt biển A. geradogreeni đã thu thập trong bốn môi trường sống ở độ sâu khác nhau từ 10-30 m ở vùng nước ven biển của tỉnh Santa Elena (Ecuador). Phân loại của các phân lập biểu hiện hoạt tính sinh học xác định dựa trên trình tự nucleotide của gen 16 rRNA. Với việc nuôi cấy Pseudovibrio thuần túy, các dịch độc dược được thực hiện trong môi trường Luria-Bertani với NSW và 20% glycerol, được lưu trữ ở -800C cho các thử nghiệm tiếp theo.
Kết quả và thảo luận
Các nhà nghiên cứu đã phân tách một số chủng P.denitrificans, thử nghiệm thử thách trong phòng thí nghiệm và trong ao nuôi.
Hiệu quả có lợi của chủng Pseudovibrio đối với tôm thẻ chân trắng (thời gian theo dõi: 108 ngày).
Hoạt tính kháng khuẩn của các chủng Pseudovibrio liên quan với quá trình chuyển hóa acid sulfuric và acid tropodithietic có thể tiêu diệt hoặc ức chế mầm bệnh Vibrio spp. ở ấu trùng cá biển. Ngoài ra, nhiệt độ và độ mặn là ưu thế để Pseudovibrio cạnh tranh với Vibrio spp. Vì Pseudovibrio là một loại vi khuẩn điển hình trong môi trường biển, có mức tăng trưởng tối ưu khoảng từ 25-310C.
Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy hoạt tính sinh học chống lại V. parahaemolyticus, V. campbellii, V. Vulnificus và V. harveyi và chống lại chủng gây bệnh có độc tính cao của V. parahaemolyticus BA94C2 dương tính với PirA/PirB, độc tố liên quan đến bệnh lý AHPND trong nuôi tôm. Ngoài ra, các xét nghiệm được tiến hành ở giai đoạn ấu trùng tôm Postlarvae 3 ngày đã bị nhiễm V. harveyi cho thấy khả năng cạnh tranh của của P. denitrificans với mầm bệnh, giúp cải thiện tỷ lệ sống của PL.
A) Tỷ lệ sống của PL tôm thẻ nhiễm V. campbellii sau 5 ngày điều trị với Pseudovibrio.
B) Tỷ lệ sống của PL tôm thẻ nhiễm V. parahaemolyticus sau 5 ngày điều trị với Pseudovibrio.
Tác dụng của P. denitrificans đối với bệnh phát sáng ở tôm giống do các chủng Vibrio gây ra đã được chứng minh thông qua thí nghiệm thực tế trong sản xuất giống. Ngoài ra, P. denitrificans còn giúp tăng sản lượng, tỷ lệ sống, trọng lượng và năng suất thu hoạch tôm bình quân ở nuôi tôm thương phẩm.
Hiệu quả của các chủng P. denitrificans xâm chiếm và thay thế các chủng Vibrio trong tôm 48 giờ sau khi sử dụng P. denitrificans
Hoạt tính sinh học của Pseudovibrio denitrificans qua các thí nghiệm invitro đã được khẳng định khả năng kháng khuẩn, ức chế mầm bệnh, nâng cao tỷ lệ sống của tôm cá nhiễm bệnh trong nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, trong tương lai vẫn còn cần thực hiện nhiều nghiên cứu hơn để đánh giá nồng độ thực tế để áp dụng ở quy mô thương mại.
Theo CRISTÓBAL DOMÍNGUEZ-BORBOR và cộng sự.
Tăng tỷ lệ sống tôm hùm giống
Việc khai thác, vận chuyển đúng kỹ thuật sẽ nâng cao được tỷ lệ sống tôm giống, tôm nuôi sẽ khỏe mạnh, nhanh lớn và mang lại hiệu quả cao.
Hình thức khai thác
Khai thác bằng lưới: Kích thước lưới phụ thuộc vào quy mô khai thác: Ðộ dài lưới dao động khoảng 100 – 150 m, độ cao 4 – 6 m. Mắt lưới có kích cỡ 5 mm (2a =5 mm). Các hoạt động khai thác được tiến hành vào ban đêm. Sử dụng ánh sáng đèn neon có cường độ khoảng 1.000 – 2.000W. Lưới được giăng xuống biển bằng thuyền vào khoảng 8 giờ tối, sau 4 – 5 tiếng, lưới được kéo lên thuyền lần thứ nhất để thu gom những con tôm hùm giống dính lưới. Kết thúc 1 đợt lại tiếp tục thả đợt khác, thực hiện liên tiếp cho đến khoảng 5 giờ sáng hôm sau thì dừng.
Khai thác bằng bẫy: Loại bẫy được làm bằng lưới thường có chiều dài 60 cm và đường kính khoảng 40 cm. Bẫy được thả xuống nước ở độ sâu khoảng 4 – 5 m vào tháng 11 hàng năm, nghĩa là vào thời gian xuất hiện tôm hùm giống. Sau khoảng 3 – 5 ngày, khi bẫy đã ổn định ngư dân sẽ thu bắt tôm hùm hàng ngày vào các buổi sáng bằng cách giũ bẫy vào trong vợt lưới hoặc bắt chúng ra bằng tay từ các lỗ đã khoan.
Khai thác bằng lặn bắt: Ðây là loại hình khai thác truyền thống của ngư dân miền Trung. Năm 1998 trở về trước, tôm hùm giống được khai thác chỉ bằng lặn bắt. Hình thức này đảm bảo con giống khỏe, với kích cỡ lớn khoảng 12 – 15 mm CL/con và trọng lượng 7 – 9 g/con. Song số lượng con giống được khai thác mỗi ngày tối đa chỉ được 100 – 150 con/thuyền/10 ngày/5 người vào mùa khai thác chính trong năm. Vào các tháng sau số lượng khai thác chỉ đạt 3 – 10% so với vụ chính.
Tôm hùm giống phụ thuộc hoàn toàn vào khai thác tự nhiên
Vận chuyển
Vận chuyển khô: Thường được sử dụng để vận chuyển con giống lớn khoảng 30 – 100 g/con. Dụng cụ vận chuyển là các thùng xốp có kích thước 30 x 40 x 25 cm; hoặc 60 x 70 x 45 cm tùy thuộc vào số lượng giống cần vận chuyển. Mật độ tôm vận chuyển khoảng 150 – 300 con/thùng xốp. Thời gian vận chuyển khoảng 3 – 7 giờ với nhiệt độ được duy trì 21 – 220C bằng đá cây lạnh giữ trong các hộp nhựa hoặc túi nilon kín. Tôm được giữ độ ẩm của nước biển bằng rong hoặc bằng khăn vải dày và chuyên chở bằng xe máy hoặc xe ôtô. Tỷ lệ sống trong vận chuyển đạt 90 – 95%.
Vận chuyển nước: Ðược sử dụng để vận chuyển con giống nhỏ, từ post-puerulus (tôm trắng) đến juveniles (tôm bò cạp). Trọng lượng của cỡ giống này chỉ xấp xỉ 0,25 – 1 g/con, và rất nhạy cảm với sự thay đổi đột ngột của môi trường sống. Dụng cụ vận chuyển cũng là các thùng xốp có kích cỡ 30 x 50 x 25 cm hoặc 45 x 60 x 35 cm. Dưới đáy thùng được phủ một lớp rong câu tươi hoặc một lớp cát dày 0,5 – 1 cm. Ðổ nước biển sạch vào thùng xốp cao ngập cát hoặc rong khoảng 5 – 7 cm và sục khí trong suốt thời gian vận chuyển. Nhiệt độ nước được duy trì 21 – 220C với thời gian vận chuyển từ 5 – 15 giờ; và khoảng 23 – 250C với thời gian vận chuyển 3 – 5 giờ bằng đá cây lạnh giữ trong các hộp nhựa hoặc túi nilon kín. Tôm giống được đưa vào thùng xốp với mật độ 300 – 400 con/thùng nhỏ hoặc 700 – 1.000 con/thùng lớn.
Thanh Hiếu (Tổng hợp) nguồn :http://contom.vn/
Ngoại ký sinh và bệnh trên tôm
Trong môi trường đặc trưng, các ngoại sinh vật này bám trên vỏ tôm với lượng lớn gây ra các bệnh đặc trung trên tôm nuôi như: tôm đóng rong nhớt, tôm đen mang. So với lớp chất nhày của các loài khác thì lớp chitin trên vỏ giáp xác rất thích hợp cho việc bám và phát triển của ngoại sinh vật.
1. Ảnh hưởng của ngoại sinh vật bám trên tôm
Các ngoại sinh vật kí sinh trên tôm thường xuất hiện nhiều trong ao nuôi mật độ cao hoặc nước dơ, nhiều chất hữu cơ lơ lững. Chúng ăn vi khuẩn, tảo đơn bào và protozoa nhỏ hơn.
Hầu hết sinh vật kí sinh trên mang hoặc bề mặt là những sinh vật sống tự do, không thực kí sinh, chúng xem tôm như giá thể.
Ngoại sinh vật bám không gây hại trực tiếp cho tôm. Chúng gây ra các tác hại gián tiếp do:
- Bám vào mang, ngăn dòng nước chảy qua mang, làm cản trao đổi khí của tôm.
- Bám vào vỏ gây khó lột xác, di chuyển.
- Tôm bị ngoại sinh vật bám bắt mồi không hiệu quả.
Tuy nhiên, vài loài ngoại sinh vật bám có khả năng tạo ra ngoại độc tố gây tổn thương tế bào vật chủ.
2. Tác nhân
Vi khuẩn: các vi khuẩn dạng sợi, gram âm như Leucothrix mucor, Leucothrix spp. Vi khuẩn dạng sợi nhỏ và chuỗi như Flavobacterium sp., Cytophaga sp., Flexibacter sp., Vibrio sp., Spirochetets,…
Protozoa: các protozoa có vành lông rung như Zoothanium sp., Epistilis sp., Vorticella sp. Apostome như Ascophrys spp. Loricate ciliates: Lagenophrys spp. Suctorians: Acineta spp., Ephelota sp., Flagellates: Bodo-like flagellates và Chrysidella sp.
Các loài protozoa khi gặp điều kiện sống không thuận lợi có thể đứt cuống, tìm nơi kí sinh mới.
Tảo: tảo silic lông chim như Nitzchia spp, Amphiprora spp và Navicula spp; tảo lục; tảo mắt; tảo lam như Spirulina subsala, Lyngbya, Schizothrix spp.
Ngoài các yếu tố sinh vật còn các yếu tố vô sinh như muối kim loại trong nước kết tủa lên vỏ tôm nuôi.
3. Chuẩn đoán
Dấu hiệu bệnh:
Màu sắc cơ thể bất thường: mang và phụ bộ chuyển sang màu nâu hoặc đen do cặn đáy, đất, các chất ngoại lai “bị bắt” bởi các ngoại sinh vật sống bám hoặc chuyển sang xanh hay xanh nâu do tảo.
Thường xuất hiện kèm các dấu hiệu bệnh gây ra do nhiễm khuẩn.
Mang chuyển màu do sợi khuẩn bám
Mang chuyển màu do tảo bám
Zoothamnium bám dày đặc trên vỏ tôm sú làm tôm chuyển màu đen và nhớt
Tôm lột xác và chết với vỏ sạch và mềm: tôm ăn và sống bình thường tới khi lột xác, vào thời điểm lột xác – thường vào giữa khuya tới sáng, tôm lột xác khó khăn trở nên rất yếu và dễ chết trong điều kiện oxy hòa tan thấp (dưới 3ppm).
Soi mẫu tươi dưới kính hiển vi
Chuẩn bị mẫu: cắt lấy mang, phụ bộ và chóp đuôi tôm soi dưới kính hiển vi để kiểm tra sự hiện diện của ngoại sinh vật bám.
Chuẩn bị mẫu và soi dưới kính hiển vi
Nhận dạng một số loài ngoại sinh vật bám thường gặp trong ao tôm dưới kính hiển vi:
- Protozoa Zoothamnium và Carchesium: 2 loài này tương tự nhau, cơ thể có hình nón tới gần tròn nhưng có sự khác nhau ở cơ co rút (myoneme) bên trong cuống. Cơ co rút của các Zoothamnium dính nhau, tạo thành hình như nhánh cây trong khi cơ co rút của các Carchesium không dính nhau.
Zoothamnium và Carchesium
Do cơ co rút của Zoothamnium dính nhau nên các tế bào sẽ co rút cùng một lượt. Tế bào Carchesium co rút đơn lẽ.
Kiểu co rút cơ ở Zoothamnium
- Protozoa Epistylis: tế bào có hình chuông, thông thường có 2 tế bào nằm chung một nhánh. Epistylis không có cơ co rút nên chỉ co rút tế bào.
Epistylis
Epistylis bám trên copepoda
Epistylis và Zoothamnium trên mang tôm thẻ chân trắng
- Protozoa Acineta: cơ thể có hình chữ Y, có từ 8 – 12 ống hút xếp dạng phóng xạ, không có cơ quan bám rõ ràng.
Acineta bám trên mang tôm
- Vi khuẩn dạng sợi Leucothrix: phân bố rộng, có khoảng 30 chủng nhưng rất khó phân biệt chúng với nhau. Sợi khuẩn sống phụ sinh phổ biến trên tảo lớn biển, các sinh vật đáy, trứng đang phát triển, ấu trùng và cặn đáy và gây cản trở cho các sinh vật bị phụ sinh.
Thông thường sự bám này không làm tổn hại các tế bào biểu mô chổ bám nhưng cho phép các chất cặn và tảo bám vào mang nên gây ngạt thở cho tôm.
Dưới kính hiển vi 10 – 40X, sợi khuẩn có dạng sợi dài ngắn nhiều kích thước, trong suốt, một đầu bám vào vỏ tôm, một đầu di động uốn lượn trong nước.
Sợi khuẩn bám trên chân bò và vỏ của tôm thẻ giống
- Tảo bám: thường gặp là các loài tảo lục, silic, tảo lam.
Tảo bám trên copepoda
Tảo lam bám trên mang tôm sú
Kiểm tra ngoại sinh vật bám:
Lấy mẫu tôm bệnh: chọn từ 3 – 10 cá thể bệnh vì giúp biết được nguyên nhân gây bệnh từ đó xác định loại thuốc hợp lý để cứu những con còn lại.
Kiểm tra mang và phụ bộ: soi tươi ở độ phóng đại 10 – 40X, so sánh mức độ cảm nhiễm theo bảng:
6. Xử lý
Khi mật độ ngoại sinh vật bám quá nhiều hoặc sự bám gây ra các tổn thương trên mô làm tôm có xu hướng tăng lột xác tự làm sạch. Khi tôm lột xác, ngoại sinh vật bám có thể trở lại dạng sống tự do trong nước và tiếp tục tái bám vào tôm vừa lột xong.
Thông thường, khi tôm bị các sinh vật bám chứng tỏ tình trạng ao nuôi xấu, nước dơ, nhiều khí độc và chất hữu cơ vậy nên trong xử lý cần coi trọng cải tạo chất lượng nước thay vì kích lột cho tôm.
Lưu ý rằng lột xác là quá trình tốn hao năng lượng, suy giảm nguồn sống và dễ bị tấn công bởi kẻ thù. Tôm đen mang thường kiệt sức rất nhanh và không có sức chống chịu áp lực môi trường như tôm khỏe sau khi lột xác. Nếu tôm bị kích thích lột xác trong điều kiện nước xấu sẽ rất yếu và dễ nhiễm các bệnh khác.
Có thể xử lý tình trạng tôm nhiễm ngoại ký sinh như sau:
- Tiến hành cắt giảm lượng ăn, thay bớt nước (nếu có thể).
- Diệt khuẩn trong nước và diệt ngoại kí sinh (dùng Formalin (25 lít/1000 m3) hoặc BKC (1 – 2 lít/1000 m3). Có thể lập lại sau vài ngày nếu mật độ ngoại sinh vật bám trên tôm chưa giảm.
- Nếu đáy dơ, đen, nhiều bùn nhão thì xử lý thêm oxy viên 1 – 2 kg/1000 m2 vào ban ngày, trong vài ngày liên tục để oxy hóa nền đáy.
- Sau cùng xử lý men – vi sinh liều cao và thường xuyên nhằm cải thiện tình trạng ao nuôi.
Tốt nhất là nên kiểm tra tôm thường xuyên và điều trị ngay từ giai đoạn 1 (vài con ngoại kí sinh/tôm).
Nguồn: Theo Tổng hợp – nghetomtep.com |
3 thảo dược quý cho tôm
Sử dụng thảo dược tự nhiên để phòng và điều trị bệnh cho vật nuôi luôn là xu hướng được các nhà khoa học và người nuôi tích cực tìm kiếm. Dưới đây là 3 thảo dược đã được nghiên cứu là có tác dụng tốt đến sức khỏe của tôm.
Nha đam
Cây nha đam hay còn gọi là cây lô hội, lao vỹ, la hội… có nguồn gốc từ Trung Cận Đông, và phát triển mạnh ở các nước nhiệt đới. Có tên khoa học là Aloe vera L. var chinenis (Haw) Berger, thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Nha đam thuộc loại cây nhỏ, gốc thân hóa gỗ, ngắn. Lá dạng bẹ, không có cuống, mọc vòng rất sát nhau, màu từ lục nhạt đến lục đậm. Lá mọng nước, mép lá có răng cưa thô như gai nhọn, cứng tùy theo loại, mặt trên lõm có nhiều đốm không đều, lá dài khoảng 30 – 60 cm. Khi nghiên cứu thành phần màu trắng trong lá cây (hay còn gọi là thạch trắng, gel) các nhà nghiên cứu đã phát hiện nha đam chứa hơn 200 hoạt tính sinh học, bao gồm:
Hợp chất Anthraquinon gồm: Aloin và Emodin có tác dụng kích thích ruột và có tính chất kháng sinh, nó dùng để chống vi khuẩn, virus và dùng như thuốc giảm đau. Aloe – Emodin: giúp da chống lão hóa; Hỗn hợp các Anthraquinon tác dụng giảm đau, trị viêm da, ngăn ngừa tối đa sự xâm nhập của các độc tố, vi khuẩn; Chất hữu cơ: Monosaccharit, Polysacarit, Xenluloza, Mannoza, L-rhamnoza…; Saponins: Thanh lọc các chất độc trong cơ thể; Anthraquinones Complex: Tác dụng giảm đau, trị viêm da, ngăn ngừa tối đa sự xâm nhập của các độc tố, vi khuẩn; Vitamin: D, C, A, E, B1, B2, B6, B12 và acid folic; Khoáng chất gồm: Calcium, Sodium, Potassium, Manganese, Magnesium, Copper, Zinc, Chromium là những muối khoáng thiết yếu của cơ thể; Enzyme: Oxydaza, Lipaza, Amilaza, Catalaza, Allnilaza… giúp dễ tiêu hóa, nhuận trường, giảm đau, ngoài ra còn giúp mau làm lành vết thương trên da; Gel Aloe Vera có chứa 7 loại amino acid trong 8 loại amino acid và 11 trong 12 loại amino acid mà cơ thể đòi hỏi và tự tổng hợp được.
Từ các tác dụng trên của nha đam, các nhà nghiên cứu Mexico đã tiến hành thí nghiệm sử dụng nha đam trong việc tăng cường khả năng kháng bệnh AHPND và WSD trên tôm thẻ chân trắng cho kết quả khả quan. Cụ thể, khi bổ sung nha đam với tỷ lệ 1 g/kg thức ăn với tần suất 2 ngày/lần sẽ giúp tôm bị cảm nhiễm với WSSV + Vibrio có tỷ lệ sống cao hơn. Đồng thời, không ảnh hưởng đến tỷ lệ tăng trưởng của tôm. Nghiên cứu này cũng sẽ mở ra hy vọng trong việc sử dụng nha đam như là một loại thảo dược an toàn có khả năng thay thế các kháng sinh trong việc phòng và điều trị bệnh cho tôm trong tương lai gần.
Củ riềng
Riềng có tên khoa học là Alpinia officinarum Hance, thuộc họ Gừng – Zingiberaceae. Riềng là nguồn cung cấp dồi dào các chất natri, sắt, chất xơ, Vitamin A, C, flavanoid… Những chất rất quan trọng trong duy trì sức khỏe… Riềng chứa các tinh dầu dễ bốc hơi gồm cineole, eugenol, pinene, methyl cinnamate, camphor; hợp chất chính là những sesquiterpenes hydrocarbon, sesquiterpene alcohol; các hợp chất heptone; tanins; Các hợp chất loại phenylpropanoids; Flavonoids như Galangin, Galangin-3-methylether, Kaempferide, Kaempferol-4′-methylther; Sterols như beta-sitosterol.
Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, các chiết xuất từ củ riềng có khả năng ức chế sự tăng trưởng của 8 loài vi khuẩn Vibrio, đặc biệt quan trọng nhất là Vibrio parahaemolyticus gây bệnh EMS/AHPND trên tôm. Kết quả nghiên cứu cho thấy với liều lượng chất chiết xuất 0,5 mg/mL của củ riềng có tác dụng ức chế nấm Aspergillus ochraceus. Tôm thẻ chân trắng bị nhiễm bệnh được cho ăn với liều lượng 2% (5 g/kg thức ăn) và 4% (10 g/kg thức ăn) chất chiết xuất trong vòng 12 ngày so sánh với tôm cho ăn không bổ sung chất chiết xuất (đối chứng). Kết thúc thí nghiệm cho thấy, lượng vi khuẩn Vibrio tổng và tỷ lệ nhiễm nấm trong gan và ruột tôm được cho ăn thức ăn có bổ sung chất chiết xuất từ củ riềng là rất thấp, thấp hơn đáng kể so với nghiệm thức đối chứng (p < 0,05). Hơn nữa, tỷ lệ sống của tôm được cho ăn thức ăn có bổ sung chất chiết xuất từ củ riềng cao hơn đáng kể so với nghiệm thức đối chứng (p < 0,05) khi tôm được gây cảm nhiễm với vi khuẩn V. parahaemolyticus. Được biết, vi khuẩn Vibrio và 6 loài nấm (Aspergillus flavus, A. ochraceus, A. japonicus, Penicillium sp., Fusarium sp., và Cladosporium cladosporioides) đã được phân lập và cho thấy, chúng là tác nhân của hội chứng phân trắng ở tôm. Như vậy, có thể kết luận rằng, chất chiết xuất từ củ riềng có đặc tính kháng khuẩn, có khả năng sử dụng như là một loại thuốc sinh học chống lại tác nhân gây hội chứng phân trắng và bệnh hoại tử gan tụy cấp trên tôm. Trong tương lai, loại thảo dược này có thể được dùng để thay thế cho các loại hóa dược sử dụng trong nuôi tôm công nghiệp.
Cỏ xạ hương
Cỏ xạ hương có tên tiếng Anh là Thyme, là một loài thực vật có hoa thuộc họ Hoa Môi, cao 30 – 70 cm, tạo thành khóm, thân hóa gỗ, mọc đứng hay nằm, phân nhánh nhiều và có lông mịn, được tìm thấy tại nhiều quốc gia châu Âu như Đức, Anh, Pháp và vùng Địa Trung Hải. Mười tám hợp chất đã được phát hiện trong các hạt nang dầu thyme tương ứng với 96,15% tổng thành phần dầu. Trong đó, Thymol và Carvacrol có hoạt tính kháng virus, vi khuẩn và hoạt tính kháng viêm mạnh, trên người nó được sử dụng để giúp giảm tiết dịch nhầy, giảm đờm, giảm ho, làm thông thoáng đường thở.
Tinh dầu cỏ xạ hương đã được chứng minh có tính kháng khuẩn, kháng nấm và hoạt tính kháng virus. Trong nuôi trồng thủy sản, tôm nuôi được thử nghiệm gây nhiễm với V. vulnicus, V. parahaemolyticus và V. cholerae, và sau đó được cho ăn trực tiếp với tinh dầu cỏ xạ hương đã làm giảm đáng kể số lượng vi khuẩn này trong các mô của chúng (Gracia-Valenzuela et al., 2014). Tinh dầu xạ hương dạng vi nang có hoạt tính kháng khuẩn đối với V. parahaemolyticus và V. alginolyticus. Hàm lượng tinh dầu xạ hương ở mức 0,25 kháng lại V. parahaemolyticus và 0,25 mg/kg thức ăn cũng kháng lại vi khuẩn V. alginolyticus (Theo O. Tomazelli Júnior và cộng sự, 2016).
Trong báo cáo của Osmar Tomazelli và cộng sự năm 2018 đã thực hiện thí nghiệm sử dụng tinh dầu xạ hương bổ sung vào thức ăn viên thương phẩm để kiểm tra khả năng bảo vệ tôm thẻ chân trắng chống lại WSSV. Ở 72 giờ sau nhiễm bệnh, hoạt tính phenoloxidase của tôm được điều trị bằng 1% tinh dầu xạ hương (TEM) không có sự khác biệt đáng kể với giá trị TC (tôm không nhiễm bệnh) nhưng cao hơn đáng kể so với các nghiệm thức khác. Hơn nữa, tôm được điều trị bằng 1% TEM cho thấy không có dấu hiệu lâm sàng của nhiễm WSSV và tỷ lệ sống của chúng cao hơn đáng kể so với những hàm lượng khác. Từ 2 nghiên cứu trên cho thấy bổ sung tinh dầu xạ hương giúp tôm chống lại mầm bệnh do vi khuẩn và khi bổ sung hàm lượng là 1% thì có khả năng bảo vệ tôm chống lại các triệu chứng bệnh WSSV.
Hoàng Ngân (Tổng hợp) nguồn : http://contom.vn/
Mẹo nuôi tôm vào mùa lạnh hiệu quả
Nhiệt độ xuống thấp vào mùa lạnh làm ảnh hưởng sức đề kháng, quá trình sinh trưởng và phát triển của tôm. Hơn nữa, đây cũng là điều kiện tốt để cho vi khuẩn, virus gây bệnh phát triển. Do đó, cần có những biện pháp chăm sóc hợp lý để ao nuôi phát triển tốt, tránh các thiệt hại xảy ra.
Ảnh hưởng
Mùa lạnh nhiệt độ nước ao nuôi xuống thấp (đặc biệt nhanh khi sử dụng sục khí). Trong khi đó, đặc điểm của tôm nuôi chỉ thích hợp với nhiệt độ từ 25 – 320C, khi nhiệt độ xuống dưới 200C tôm sẽ ngừng sinh trưởng, cường độ bắt mồi thấp, tôm giảm ăn, hệ số FCR tăng cao (từ 1,5 – 1,8), tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 0,2 g/con/ngày (so với mùa nắng là 0,3 g/con/ngày), điều này có nghĩa thời gian nuôi sẽ bị kéo dài hơn khoảng 1,5 lần. Cường độ bắt mồi và chuyển hóa thức ăn kém, trong khi độ mặn, pH, kiềm thay đổi làm tôm khi lột xác thường bị chết do mềm vỏ (tôm chết dạng cục thịt). Cùng đó, nhiệt độ xuống thấp làm cho hoạt động xi phông vệ sinh đáy của công nhân thường không đảm bảo. Lượng chất thải, thức ăn dư thừa, xác chết và vỏ tôm còn dư lại trong ao khi trời nắng ấm, nhiệt độ tăng trở lại sẽ phân hủy nhanh tạo nên các khí độc làm ảnh hưởng đến tôm.
Sau mỗi đợt mưa lạnh kéo dài lại là lúc trời nắng, nhiệt độ nước ao nuôi tăng, tảo phát triển mạnh làm tăng độ pH, tăng sự hình thành NH3 gây hại đối với tôm. Bên cạnh đó, nhiệt độ nước tăng giúp cho các vi khuẩn gây bệnh bùng phát nhanh chóng làm cho tôm dễ dàng bị nhiễm bệnh (đốm trắng, hồng thân, phân trắng…) và có thể gây chết hàng loạt.
Biện pháp cải thiện
Chuẩn bị ao: Ao cũng được cải tạo và vệ sinh như ao nuôi tôm bình thường, nhưng lưu ý thời gian phơi đáy dài hơn (do trời ít nắng), không lấy nước vào ao nuôi trong những ngày gió mùa. Nếu cần nên lấy vào ao lắng trong 4 – 6 ngày để lắng và ổn định môi trường, sau đó mới cấp vào ao.
Thiết kế ao: Một trong những biện pháp hữu hiệu nuôi tôm giai đoạn đầu khi nhiệt độ thấp là thiết kế ương tôm trong bể, ao nhỏ trải bạt (50 – 200 m2) trong nhà lán quây kín bằng nilon lắp đặt hệ thống sục khí 24/24, nhằm ổn định nhiệt độ cùng các yếu tố khác như pH, độ kiềm, khí độc… trong ngưỡng cho phép và xi phông đáy hàng ngày. Thả tôm mật độ cao (200 – 400 con/m3 nước), sử dụng công nghệ Biofloc để ương tôm trong tháng đầu, sau đó chuyển ra ao để nuôi tiếp. Biện pháp này vừa giảm được hao hụt và hạn chế dịch bệnh chết sớm trên tôm (EMS). Nếu trường hợp xấu nhất xảy ra (tôm bị bệnh) thì sẽ loại bỏ và vệ sinh nhanh chóng ao, bể để ương lứa mới, tiết kiệm được nhân lực, thời gian và chi phí. Để hạn chế tác động của gió lạnh (gió mùa Đông Bắc) cần đắp cao bờ đê của ao nuôi ở những hướng bị tác động trực tiếp bởi gió lạnh, hoặc trồng cây, dùng các tấm fibro xi măng chắn gió.
Nuôi tôm trong nhà màng giúp hạn chế tác động của thời tiết – Ảnh: ST
Sử dụng nhà bạt: Có thể xây dựng nhà bạt theo kiểu chóp nón, giữa ao có một trụ chính, xung quanh ao cắm trụ bê tông hoặc trụ thép cao khảng 20 cm so với mặt đất, mỗi trụ cách nhau khoảng 30 cm. Dây cáp đường kính 3 mm, được căng xung quanh ao đảm bảo độ dốc 5%, trên được phủ màng nhà kính (nilon). Hoặc kiểu mái nhà: Nhà bạt được xây dựng gồm 2 mái, có diện tích 1,2 ha, mái cao khoảng 3,5 – 4 m, dây cáp bọc nhựa trên mái được móc vào các cột thép cố định xung quanh. Trên mái được phủ lớp bạt nilon để bảo vệ. Thả giống: Trước khi thả giống 30 phút nên chạy máy quạt khí để tăng cường ôxy hòa tan và nhiệt độ được đảo đều giữa các tầng nước ao, tránh tôm bị sốc. Cần chọn thời điểm thả có nhiệt độ nước ấm nhất trong ngày (12 – 14 giờ). Ngâm bao tôm trong nước 15 phút khi thả. Ao, bể ương tôm trong nhà bạt khi chuyển tôm ra ao nuôi cần chọn ngày nắng ấm, tránh gió mùa. Chỉ thả giống khi nhiệt độ thực sự ổn định, không thả khi đang mùa gió lạnh tràn về. Nhiệt độ nước cần được trại giống thuần cho đúng nhiệt độ môi trường trước khi thả. Nếu sau khi thả giống lại gặp những cơn mưa bất thường, ngay lập tức dùng vôi bột rải đều trên khắp bờ, mặt ao với lượng 2 kg/100 m2 để khắc phục tình trạng pH giảm đột ngột làm tăng độc tính của khí H2S, ảnh hưởng đến sức khỏe tôm nuôi.
Thức ăn: Khi nhiệt độ giảm 20C thì lượng thức ăn cần giảm 30 – 50% lượng thức ăn hàng ngày và khi nhiệt độ ổn định lại cần theo dõi khả năng bắt mồi để điều chỉnh cho phù hợp. Giảm và kiểm soát chặt chẽ lượng thức ăn đưa vào ao nuôi, không để dư thừa ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước. Bổ sung thêm các chất hỗ trợ như Vitamin C, men tiêu hóa… nhằm tăng sức đề kháng cũng như hấp thu của tôm.
Trong quá trình nuôi: Định kỳ 5 – 7 ngày tiến hành diệt khuẩn bằng BKC hoặc Iodine với liều lượng 1 kg/1.000 m3 nước; Bổ sung men vi sinh bằng chế phẩm sinh học với liều lượng 100 g/1.000 m3 nước, 2 – 3 ngày/lần; Tăng cường sức khỏe cho tôm bằng cách sử dụng hỗn hợp các chế phẩm; Vào những ngày mưa nhiều phải thường xuyên kiểm tra pH và độ kiềm 3 – 4 giờ/lần. Phải duy trì pH > 7,8. Nếu thấy pH giảm hàng ngày phải chủ động bón vôi nóng (CaO) với liều lượng 10 – 15 kg/1.000 m3 nước/lần, và bón 2 lần/ngày. Khi độ kiềm giảm xuống dưới 100 ppm thì phải nâng kiềm bằng chế phẩm khoáng kết hợp với canxi để duy trì độ kiềm > 120 ppm. Nếu mưa to kéo dài, độ mặn trong nước ao giảm xuống thì phải cấp thêm nước biển (đã qua xử lý) để ổn định áp suất thẩm thấu của tôm. Việc bổ sung thêm nước biển có thể sẽ làm cho tôm bị sốc, do đó để chống sốc cho tôm người nuôi cần sử dụng chất điện giải, vitamin và các khoáng chất thiết yếu. Sau mỗi đợt mưa lạnh, trời chuyển nắng, nhiệt độ nước tăng, người nuôi chưa nên tăng ngay lượng thức ăn cho tôm mà thay vào đó cần thay nước, diệt khuẩn và cấy lại men vi sinh sau 24 giờ.
>> Khi phát hiện tôm nuôi có các biểu hiện ngoài tầm kiểm soát thì người nuôi cần báo ngay cho cán bộ kỹ thuật chuyên môn gần nhất để có biện pháp xử lý kịp thời, tránh tự ý dùng thuốc, hóa chất, kháng sinh cấm để trị các bệnh do virus gây ra, không tự ý xả thảy nước chưa qua xử lý ra môi trường bên ngoài… sẽ ảnh hưởng đến cộng đồng xung quanh. |
Bích Hòa nguồn :http://contom.vn/