Bạn tìm thông tin gì?

Blog

Giá tôm hùm bất ngờ hạ nhiệt dù Tết Dương lịch đang tới gần

Trái với dự đoán, những ngày cận Tết dương lịch 2020, giá tôm hùm Alaska nhập khẩu và tôm hùm Việt Nam đều hạ nhiệt, giảm nhẹ so với 1 – 2 tuần trước.

Nếu như khoảng 1 – 2 tuần trước, giá tôm hùm Alaska nhập khẩu dao động từ 1,1 – 1,250 triệu đồng/kg với tất cả các size từ 0,5kg – 5kg thì hiện giá loại tôm này giảm nhẹ từ 100.000 – 200.000 đồng/kg, còn 1 triệu – 1,150 triệu đồng/kg.

Trao đổi với anh Nguyễn Tuấn, nhân viên tại một công ty nhập khẩu hải sản Canada tại Hà Nội, anh cho biết, khoảng 1 tuần trước giá tôm hùm Alaska vẫn còn khá cao, công ty anh để giá sỉ cho các đại lý là 1.060.000 đồng/kg tất cả các size, thì hiện nay giá sỉ là 980.000 đồng/kg, còn bán lẻ ra ngoài là 1.150.000 đồng/kg.

Giá tôm hùm bất ngờ hạ nhiệt dù Tết Dương lịch đang tới gần - 1

 Cận Tết dương lịch, giá tôm hùm Alaska giảm nhiệt

“Giá tôm hùm thay đổi theo mỗi đợt hàng về. Tuy nhiên, trái với dự đoán, gần đây giá tôm giảm nhẹ, do cạnh tranh nguồn hàng với Trung Quốc không còn khốc liệt như trước. Tuy nhiên, hiện đang là mùa tôm hùm Alaska thay vỏ nên hàng về 10 con thì có đến 7 con bị ọp, thịt không được chắc như các mùa khác. Thế nên chúng tôi hạn chế nhập tôm size lớn trên 3kg/con, chủ yếu là tôm size 0,5 – 1,5kg, tỷ lệ tôm bị ọp sẽ thấp hơn”, anh Tuấn cho biết.

Trong khi giá tôm hùm Alaska hạ nhiệt thì giá tôm hùm Việt Nam cũng chững lại ở mức từ 900.000 – 1.500.000 đồng/kg, dù nhiều dự đoán cho rằng giá tôm hùm Việt Nam sẽ tăng chóng mặt trong những ngày cuối năm.

Giá tôm hùm bất ngờ hạ nhiệt dù Tết Dương lịch đang tới gần - 2

Tôm hùm Việt Nam giữ giá từ 900.000 – 1.500.000 đồng/kg

Trao đổi với anh Phan Minh, một người bán tôm hùm thương phẩm tại Phú Yên, anh cho biết giá tôm hùm xanh hiện anh bán cho khách lẻ là 880.000 đồng/kg size 2-3 lạng; 1,160 triệu/kg size 4-5 lạng và 1,5 triệu/kg size 1kg đổ lên.

“Chúng tôi nhập hàng trực tiếp từ vùng nuôi nên giá có rẻ hơn so với các đại lý bán hải sản khác. Tuy nhiên, khả năng sang tuần giá tôm hùm sẽ bắt đầu tăng cao, phải sau Tết nguyên đán mới giảm nhiệt”, anh Minh cho biết.

Khảo sát giá tôm hùm xanh tại các cửa hàng hải sản tại Hà Nội, size từ 0,2 – 0,89kg/con được bán với giá 1,5 – 1,7 triệu/kg; size từ 0,9 – 1,15 kg/con giá từ 2 – 2,350 triệu/kg; size 1,16 – 1,69kg/con giá 2,5 – 2,7 triệu/kg; size 1,7 – 2kg giá từ 3 – 3,2 triệu/kg

Nguồn: http://danviet.vn

Probiotics mới giúp kiểm soát hiệu quả NH3 và NO2 trong ao tôm

Bài báo sau đây của Junqian Gao và cộng sự 2018 đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn cụ thể hơn và đưa ra một giải pháp tiềm năng giúp xử lý hiệu quả NH3 và NO2 trong ao tôm.

Tích lũy nitrit quá mức là một vấn đề phổ biến và gây khó khăn đối với nuôi trồng thủy sản thâm canh. Hiện nay tại rất nhiều vùng nuôi tôm trên toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, hiệu quả khống chế khí độc trong ao tôm như NH3, NO2 vẫn còn nan giải. Nhiều sản phẩm trên thị trường vẫn chưa thật sự hiệu quả và công nghệ sản xuất các chủng vi khuẩn chuyển hóa hợp chất Nitrogen như Nitrosomoas sp, Nitrobacter sp, Nitrococcus sp, Nitrosococcus sp chưa vẫn chưa tạo được dạng bào tử hoàn chỉnh. Vì vậy khi bảo quản dạng bột rất dễ suy giảm chất lượng. Mặt khác, bản chất của những chủng vi khuẩn này cần phải có giá thể để chúng tồn tại và phát triển.

Trong khi môi trường nước lại có số lượng giá thể rất hạn chế. Vì thế công việc của các nhà khoa học trong và ngoài nước hiện nay là:

1. Nâng cao công nghệ sản xuất để tạo ra bào tử ngủ cho nhóm vi khuẩn chuyển hóa hợp chất Nitrogen.

2. Tạo ra điều kiện tối ưu để cho nhóm vi khuẩn chuyển hóa hợp chất Nitrogen tồn tại và phát triển (như việc bổ sung giá thể).

Ảnh: Một số loại giá thể vi sinh Nguồn ảnh: chemxing.en

3. Tìm ra các nhóm vi khuẩn khác có khả năng chuyển hóa nhóm hợp chất Nitrogen đồng thời có khả năng tạo bào từ.

Để giải quyết vấn đề thứ ba, các nhà khoa học Châu Á đã tìm ra một chủng vi sinh đơn thuộc nhóm Bacillus có khả năng xử lý NH3, NO2 trong ao tôm hiệu quả.  Một thử nghiệm về sự khử nitơ hiếu khí bởi vi khuẩn Bacillus megaterium S379 đã được đánh giá.

Kết quả: Hoạt tính khử Nitric của Bacillus megaterium S379 có tỷ lệ loại bỏ nitrit rất cao (hơn 85%) sau 24h khi nhiệt độ dao động từ 25°C đến 40°C và pH khác nhau trong khoảng 7,0 và 9,0 cho thấy chúng có khả năng thích ứng với môi trường tuyệt vời.

Khả năng của chủng của S379 có thể tăng cường việc chuyển hóa NO2 ngay cả khi NO2  tăng lên đến 340 mg/L.

Loài vi khuẩn này cũng cho thấy hiệu quả để loại bỏ các chất ô nhiễm trong vấn đề xử lý nước trong ao nuôi trồng thủy sản. Hơn nữa, Bacillus megaterium S379 sở hữu các hoạt động hydrolase dương tính đối với tinh bột, casein, cellulose và chất béo và hoạt đông tốt ở độ mặn hơn 60 ppt.

Kết luận

Các thông tin trong nghiên cứu trên tất cả đều cho thấy tiềm năng của dòng vi khuẩn Bacillus megaterium S379 để áp dụng trong quản lý chất lượng nước nuôi trồng thủy sản. Nếu mô hình nghiên cứu trên được nhân rộng tại Việt Nam thì vấn đề NO2 không còn là vấn đề nhức nhối tại Việt Nam như hiện nay. Do đó cần có những nghiên cứu đánh giá hiệu quả trên nhiều vùng nuôi tôm ở Việt Nam để xác định tiềm năng ứng dụng của chủng vi khuẩn này một các hiệu quả.


Nông dân Mỹ nuôi tôm trong bể bơi

Tôm thẻ chân trắng
Tôm thẻ được ông Nott Vaughan nuôi trong bể bơi mua từ Walmart.

Một nông dân ở thung lũng Mission (Mỹ) đang nuôi tôm thẻ chân trắng trong những bể bơi gia đình tiện dụng mua từ kênh mua sắm trực tuyến Walmart.

Người sáng tạo cách nuôi này – ông Nott Vaughan, thường hay hài hước chia sẻ là ở  trang trại của ông, chỉ việc để lưới vào những bể bơi vừa được giao đến rồi vớt tôm đem bán. Nhưng chúng ta đều biết, đây là một mô hình sản xuất đầy sáng tạo mà ai cũng phải thán phục, ông đã đầu tư nghiêm túc và gặt hái được thành quả đáng ngưỡng mộ.

Ông Nott Vaughan thu hoạch tôm từ bể nuôi.

Ông Nott Vaughan vốn sinh trưởng tại trang trại nhưng lại không có kinh nghiệm trong nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, ông có một người anh đã học về nuôi tôm khi làm thợ mỏ ở Indonesia. Sau khi kết thúc thời gian làm việc ở Indonesia và trở về Mỹ, anh trai của ông quyết định sẽ bắt đầu nuôi tôm ở bang Idaho. Đó là một công ty nhỏ được đặt tên Cowboy Shrimp Farm với thị trường mục tiêu là bang Idaho. Đáng tiếc là công ty phải dừng lại do anh trai của Nott Vaughan phải quay lại Indonesia. Khi đó, trại nuôi này vẫn còn một đợt tôm nuôi dang dở và ông Nott Vaughan phải nghĩ cách để chuyển lũ tôm về nhà mình.

Ông Vaughan chỉ có 3 tuần để chuẩn bị cơ sở nuôi tôm – một lĩnh vực vốn cần được đầu tư bài bản. Ông lập tức nghĩ đến việc dùng những hồ bơi tiện dụng gia đình kích thước lớn để làm bể nuôi tôm. Giải pháp bể nuôi ban đầu chỉ để đối phó trong lúc vội vàng nhưng qua thời gian nghiên cứu cải thiện kỹ thuật, đã phát triển thành một hệ thống bền vững, thu hoạch được sản lượng tôm ổn định. Trại tôm sáng tạo này được đặt ngay bên cạnh nhà của ông, với tầm nhìn ra dãy núi Mission và trang trại chăn thả gia súc ngay gần đó.

Ông Vaughan xây dựng khu nuôi với thiết kế kiểm soát độ ẩm, nước không thể rò rỉ từ bất kỳ đâu, trần nhà, tường và sàn nhà luôn khô ráo, duy trì nhiệt độ khoảng 27oC. Ngoài ra, để tránh tôm bị stress tự đâm vào thành bể khi tắt đèn đột ngột, trang trại còn lắp những bóng đèn mờ. Trang trại hiện đang nuôi 22.000 con tôm thẻ chân trắng trong 5 bể nuôi, mỗi bể có dung tích khoảng 30 m3. Cũng như các mô hình nuôi tôm khác, để bắt đầu vụ nuôi, ông Vaughan cần chuẩn bị bể nuôi, nước mặn, thức ăn. Quan trọng nhất là ông đã thiết lập một hệ thống nuôi tuần hoàn, bổ sung thêm các chủng vi sinh để giải quyết vấn đề chất thải cũng như cung cấp thêm nguồn thức ăn cho tôm. Theo ông, chỉ cần duy trì tốt mật độ vi khuẩn và tôm, mô hình sẽ cho tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng ổn định. Hiện tại, tôm của ông đang tăng từ 1 – 2 gram mỗi tuần.


Size tôm ông Nott Vaughan xuất bán.

Giá  bán tôm của ông Nott Vaughan vào khoảng 18-20 USD/pound (420.000 – 460.000 VND/ 0,45kg). Vì muốn bán tôm sơ chế phải có giấy phép của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ nên ông quyết định chỉ bán tôm tươi sống. Tôm được ướp đá ngay khi thu hoạch và vận chuyển bằng xe đông lạnh để đảm bảo chất lượng. Danh tiếng của ông Nott Vaughan đã lan rộng khắp nơi, “Nhiều người dân đã chủ động tìm đến mua tôm, mọi người xuất hiện yêu cầu số lượng tôm cần mua, sau đó tôi vớt lũ tôm ra để vào nước đá đưa cho họ. Thế là tôi có lãi” – ông Nott Vaughan hài hước chia sẻ.

Mô hình nuôi của ông Vaughan là loại hình sản xuất thủy sản bền vững, có tác động thấp đến môi trường, sản phẩm đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng. Khi nông dân đưa ra một kỹ thuật canh tác và sản phẩm mới không những chỉ giúp cải thiện thu nhập của họ mà sẽ giúp củng cố thị phần, càng đa dạng hóa sẽ càng tăng sức cạnh tranh ngành sản xuất. Mô hình trang trại của ông Vaughan là điển hình của việc nông dân học hỏi và sáng tạo để có những thành công ngoài mong đợi.

Hoài An
Đăng ngày: 20/12/2019

Polysaccharides trong quản lý bệnh thủy sản

Tôm đốm trắng
Polysaccarides có thể sử dụng để kiểm soát dịch bệnh trên động vật thủy sản.

Bài viết giới thiệu tác dụng của một số polysaccarides có thể sử dụng để kiểm soát dịch bệnh trên động vật thủy sản, bao gồm: Carrageenan, Sodium alginate, Ergosan, Laminaran, β-glucan, Chitosan, Fucoidan, Alginic acid.

Sử dụng chất đáp ứng miễn dịch để kiểm soát bệnh trên động vật thủy sản

Dịch bệnh là một trong những tác nhân chính đe dọa đến ngành nuôi trồng thủy sản. Theo truyền thống, cách để kiểm soát dịch bệnh thường là sử dụng kháng sinh hay các chất hóa học khử trùng, nhưng chúng không được khuyến khích dùng vì có sự xuất hiện của các chủng kháng bệnh cũng như việc tích lũy dư lượng thuốc trong môi trường và sinh vật khác. Mặc dù vaccine rất hiệu quả trong việc chống lại bệnh ở cá nhưng chúng khá đắt, tốn thời gian và gây stress cho cá. Trong bối cảnh này, chất đáp ứng miễn dịch có thành phần tự nhiên giúp cá tôm tăng sức đề kháng với các mầm bệnh bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản. Sử dụng chất đáp ứng miễn dịch ngày càng được chú ý vì chúng ít độc hơn, thân thiện môi trường thiên nhiên, hoạt tính sinh học cao. Chúng đóng vai trò quan trọng đối với cá có vảy và các loài thủy sinh vật có vỏ.


Công thức cấu tạo chung của Polysaccharide.

Marine polysaccharide, một chất đáp ứng miễn dịch giúp kiểm soát mầm bệnh

Những năm gần đây, các nhà khoa học đã chú ý đến các tác dụng của polysaccharide (là phân tử carbohydrate cao phân tử gồm chuỗi dài của đơn vị monosaccharide liên kết với nhau bằng mối liên kết glycosidic) có nguồn gốc từ đại dương được gọi là Marine polysaccharide, như là một tác nhân điều trị hay sản xuất kháng sinh, chúng ít độc tố và có hoạt lực sinh học cao. Polysaccharide nói chung sẽ được phân tách dựa trên nguồn gốc riêng biệt của chúng (từ thực vật, động vật và vi khuẩn).

Ở cá, người ta đã chứng minh rằng một số chất được hấp thụ từ rong biển, chủ yếu là polysaccharide có thể tác động đến hoạt động của một số thành phần trong hệ thống miễn dịch và làm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể với bất cứ mầm bệnh nào. Ở cá chép, nếu tiêm vào xoang bụng chất Carrageenan – một polysaccharide dồi dào có ở rong biển đỏ, sẽ làm tăng hoạt động thực bào và sức đề kháng chống lại sự nhiễm khuẩn. Ngoài ra, Sodium alginate cũng được biết đến là muối polysaccharide giúp đẩy nhanh sự di chuyển thể thực bào ở thượng thận cá chép đến khoang bụng và làm tăng khả năng thực bào khi nhiễm khuẩn V. anguillarum. Thêm vào đó, Ergosan – một polysaccharide chiết xuất từ tảo biển, chứa nhiều acid alginic sẽ làm tăng tỉ lệ bạch cầu hạt trung tính, mức độ thực bào, chất oxy hóa và sự biểu hiện của interleukins (thuộc nhóm cytokine, là chất trung gian điều hòa giữa các tế bào trong cơ thể) ở cá hồi cầu vồng. Những polysachharides khác như laminaran và β-glucan được hấp thu từ tảo nâu Laminaria hyperborea, tăng hoạt động của đại thực bào trên cá hồi.

Tương tự, Chitosan (β-(1, 4)-2-amino-2-deoxy-D-glucose) là một cation polyme thu được từ quá trình deacetyl hóa (quá trình đẩy nhóm acetyl ra khỏi hợp chất) của chitin. Chitosan polysaccharide có tác dụng thúc đẩy hoạt động miễn dịch ở cá và các loài động vật thủy sản có vỏ. Ví dụ ở tôm thẻ chân trắng, việc tiêm chitin hay chitosan có thể  giúp tăngkhả năng sống sót khi nhiễm khuẩn V. alginolyticus nhờ thúc đẩytăng tế bào máu, chất oxy hóa và hoạt động thực bào. Một số báo cáo cho thấy, sự kích thích hoạt động miễn dịch của chitin hoặc chitosan thường có ở cá hồi cầu vòng, cá hôi vân, cá tráp đầu vàng. Một nghiên cứu khác của Gopalakannan và Arul so sánh giữa các chất chitin, chitosan and levamisole ở cá chép nhằm chống lại sự nhiễm khuẩn Aeromonas hydrophila trong ao, cho thấy rằng nhóm được cho ăn chitosan sẽ tăng cường hệ thống miễn dịch bẩm sinh và tỉ lệ sống sót ở cá chép. Ngoài ra, Niu cũng cho hay chitin and và dẫn xuất của mình (chitosan, chitosan oligosaccharides và N-acetyl-D-glucosamine) kích thích tăng trưởng, là chất chống oxi hóa và tình trạng chất oxy hóa trên tôm sú.


Quá trình deacetyl hóa Chitin để tạo ra Chitosan.

Fucoidan (sulfated polysaccharides) thường được tìm thấy trong tảo nâu và một số động vật không xương sống như hải sâm và nhím biển. Chúng chủ yếu gồm fucose và sulfate với lượng nhỏ galactose, xylose, mannose, và uronic acids.

Fucoidan có các tác dụng sinh học đa dạng như là thuôc chống đông máu, chống ung thư, điều hòa miễn dịch và chống viêm. Từ các hoạt động sinh học tiềm năng khác của fucoidan, Chotigeat đã tiến hành thí nghiệm về khả năng kháng virus đốm trắng của fucoidan thô chiết xuất từ Sargassum polycystum (rong mơ). Ngoài ra, khi cho tôm sú ăn fucoidan 200mg/kg trọng lượng thân trên một ngày thì tỉ lệ sống đạt 93%. Thêm vào đó, chúng còn ngăn ngừa sự tăng trưởng của các loài vi khuẩn gây hại như Vibrio harveyi, Staphylococcus aureus và Escherichia coli. Tương tự, Immaunel cho biết fucoidan từ rong mơ Sargassum wightii làm giảm tỉ lệ chết lên đến 68.06% và tăng cường các thông số miễn dịch như: THC (số lượng tế bào máu), hoạt động của enzyme prophenoloxidase, chất oxy hóa, enzyme superoxide dismutase (là một enzyme làm trung hòa gốc tự do) và hoạt động thực bào. Sivagnanavelmurugan cũng dùng fucoidan từ rong mơ Sargassum Wightii cho ấu trùng Artemia ăn (400mg/L) và dùng Artemia cho tôm sú ăn sẽ giảm tỉ lệ chết còn 61.6% và chống lại sự nhiễm bệnh đốm trắng. Ở thí nghiệm của Marudhupandi and Ajith Kumar, fucoidan chiết xuất từ Turbinaria cho thấy tiềm năng kháng khuẩn trên bệnh cá cảnh biển như Aeromonas hydrophila, Enterobacter sp., Pseudomonas aeruginosa, treptococcus sp., Escherichia coli, Vibrio parahaemolyticus, Vibrio alginolyticus, Vibrio cholerae, Yersinia enterocolitica and Proteus sp. Marlowe cũng tiến hành điều tra khả năng điều hòa miễn dịch của alginic và fucoidan, cả hai chất trên đều có nguồn gốc từ rong nâu. Gần đây Kitikiew cho hay fucoidan có khả năng kích thích miễn dịch bẩm sinh của tôm thẻ chân trắng và khả năng chống lại khuẩn V. alginolyticus.


Cấu tạo của Fucoidan.

Alginic acid là một polysaccharide anion nổi tiếng và phân bố chủ yếu ở thành tế bào của tảo nâu. Axit alginic là một chất đồng trùng hợp tuyến tính với các khối homopolymeric của (1-4) liên kết-D-mannuronate (M) và epime C-5 của nó dư lượng α-L-guluronate (G), tương ứng, liên kết cộng hóa trị với nhau trong các chuỗi hoặc khối khác nhau. Các đơn phân có thể xuất hiện trong các khối đồng nhất của dư lượng G liên tiếp (khối G), dư lượng M liên tiếp (khối M) hoặc dư lượng M và G xen kẽ (khối MG).

Chỉ một số hoạt động miễn dịch alginic acid được công bố. Ở cá, alginic acid làm tăng hoạt động của tế bào thực bào thượng thận và sự di chuyển của chúng từ vị trí tiêm bởi sự tăng sản xuất các yếu tố hóa học và độ nhạy cảm của chúng. Tiêm xoang bụng Ergosan (chứa 1% alginic acid) sẽ làm tăng tế bào bạch cầu trung tính, mức độ thực bào và hoạt động kích ứng oxy ở cá Hồi Vân cũng như sự biểu hiện của interleukins (IL-1b) và chemokines. Tuy nhiên, nó không có tác dụng đối với lysozyme và hoạt động chống lại protease khi quá khoảng thời gian 7 ngày. Alginic acid và Fucoidan có thể điều chỉnh phản ứng của tế bào đặc biệt là chất oxy hóa và leukocytes thượng thận ở cá Tuyết Đại Tây Dương. Như vậy, từ những cơ sở trên cho thấy polysaccharide có thể được sử dụng để phát triển thành những liệu pháp như đáp ứng miễn dịch hoặc thuốc kiểm soát bệnh thủy sản.

Theo Thangapandi Marudhupandi và Dhinakarasamy Inbakandan.

Triệu Hải

Trung Quốc quảng bá thu hoạch tôm mùa đông từ trang trại trong nhà

Trung Quốc quảng bá thu hoạch tôm mùa đông từ trang trại trong nhà

Công ty tôm lớn nhất của Trung Quốc, Zhanjiang Guilian Aqu Products, đang quảng bá thu hoạch tôm mùa đông đầu tiên từ trang trại nuôi tôm công nghiệp trong nhà của họ ở quận Giang Nam, tỉnh Quảng Đông.

Hôm thứ Tư, công ty đã đăng một số hình ảnh của những giỏ đựng đầy tôm vannamei sống cỡ lớn, nói rằng tôm đã được thu hoạch tại trang trại trong nhà  ở Nanshan.

Tôm được thu hoạch bởi Guilian. Tín dụng: Guilian

Đây là tôm thẻ chân trắng có kích cỡ lớn. Tôm có màu xanh đen phổ biến nhất trên thị trường; chắc thịt và tươi sống. Mô hình nuôi tôm công nghiệp đầu tiên của Vik Guilian đã phá vỡ những hạn chế theo mùa và chứng minh tôm có thể được nuôi quanh năm.

Guilian cho biết ao được thả với post dài 2-3 mm và được nuôi trong 40 ngày. Sau 40 ngày nuôi trong ao trong nhà, tôm thu hoạch nặng 60 con một kg. Tôm còn lại để phát triển thêm 20 ngày đạt 31 con mỗi kg.

Công ty đã cho biết các hoạt động của hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn như vậy có thể được xây dựng gần các khu vực đô thị trên khắp Trung Quốc để cung cấp nguồn cung tôm sống quanh năm, tạo ra phí bảo hiểm. Vào tháng 9 năm 2017, Underc hiện News đã đến thăm trang trại Nanshan của Guilian, khi một số phần của trang trại đang được xây dựng.

Ao nuôi tôm trong nhà của Guilian ở quận Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông, miền nam Trung Quốc, 2017. Tín dụng: Louis Harkell / Tin tức bất tận

Trong bản cập nhật mới nhất, hãng cho biết mục tiêu ở giai đoạn đầu là năng suất 5.000 kg mỗi mu – một đơn vị đo lường của Trung Quốc tương đương với 666,7 mét vuông – đã đạt được tại trang trại Nanshan.

 

Tất cả 28 ao sản xuất lô này đều đạt sản lượng khoảng 5.000 kg mỗi mu, về cơ bản là hoàn thành giai đoạn đầu tiên trong mục tiêu của mô hình nuôi mật độ cao tại nhà máy.

Tôm thu hoạch bây giờ sẽ được bán trực tiếp và, do nguồn cung thiếu theo mùa, với giá đặc biệt cao, Guilian nói.

Đối với tôm đếm 60, giá tôm sống dao động trong khoảng 40-50 CNY / kg (5,71- 7,14 USD / kg) trong tháng 7-10, nhưng giá tôm sống dao động trong khoảng 56-80 CNY trong tháng 11 đến tháng 5

Theo undercurrentnews

Xuất khẩu tôm sang EU: Cần sớm xây dựng thương hiệu

Tôm sú
Tôm sạch có chứng nhận, giá cạnh tranh sẽ được khách hàng đánh giá cao.

EU được coi là thị trường tiềm năng đối với doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu tôm trong nước, nhất là khi Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực tới đây. Doanh nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu thông tin về phương thức đáp ứng các tiêu chuẩn của EU để thâm nhập thị trường này.

Xuất khẩu tôm sang EU giảm mạnh

Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản (Vasep), xuất khẩu tôm 10 tháng đầu năm 2019 giảm 6,4% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 2,78 tỷ USD. Nguyên nhân do nửa đầu năm nay sản lượng tôm tăng, trong khi lượng tồn kho tại các thị trường cao, nguồn cung từ các nước khác cũng tăng khiến giá tôm tại các thị trường nhập khẩu hạ thấp hơn so với năm ngoái. Riêng tại thị trường EU, sau 9 tháng xuất khẩu tôm của Việt Nam sang thị trường này vẫn tăng trưởng âm tới 20,8%, giá trung bình giảm 1 USD/kg so với năm 2018. Tuy nhiên, so với các nước khác như Ấn Độ, Trung Quốc, giá tôm nhập khẩu từ Việt Nam vẫn cao hơn 15 – 20% (1 – 2 USD/kg).

Hiện, EU đang tăng mua thủy sản trong các tháng cuối năm 2019, giá tôm đã tăng trở lại. Tổng cục Thủy sản nhận định, tác động của EVFTA sẽ tạo nền tảng để các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh. Tuy nhiên, xuất khẩu sang thị trường này trong nửa cuối năm chưa thể phục hồi như mong đợi.

Cần xây dựng thương hiệu tôm Việt

Theo Vasep, EU chiếm khoảng 31% tổng nhập khẩu tôm thế giới và chiếm 22% xuất khẩu tôm của Việt Nam. Nếu biết tận dụng ưu đãi thuế quan, áp dụng hiệu quả quy tắc xuất xứ, xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU sẽ có cơ hội gia tăng từ năm 2020.

Để tận dụng lợi thế từ EVFTA, Vasep cho rằng, trước mắt phải tạo ra nguồn tôm sạch có chứng nhận với giá cạnh tranh; tiếp đó xây dựng được thương hiệu tôm Việt. Vì vậy, cần sự hỗ trợ trong việc kiểm soát chặt chế phẩm nuôi tôm, ngặn chặn từ gốc nguồn thẩm lậu các hóa chất nuôi tôm không có tên trong danh mục cho phép; sắp xếp lại vùng nuôi, tạo nên các trang trại, hợp tác xã nuôi quy mô lớn theo chuẩn quốc tế có chứng nhận…

Bên cạnh đó, cần tận dụng thế mạnh là chế biến hàng caocấp mà đối thủ bị thuế cao như tôm luộc (thuế cơ bản 20%, có GSP còn 7%). Qua đó, thúc đẩy người nuôi ứng dụng các quy trình nuôi ASC, BAP… tăng nguồn nguyên liệu để chế biến bán vào EU.

Thương vụ Việt Nam tại Bỉ kiêm nhiệm Luxembourg và EU cho biết, tôm chỉ có thể xuất khẩu vào EU nếu đến từ các quốc gia được cấp phép, được đánh bắt bởi các tàu được cấp phép (tôm hoang dã) hoặc được nuôi tại các trang trại có đăng ký, được cấp các chứng nhận sức khỏe phù hợp, và vượt qua được bộ phận kiểm tra biên giới của EU. Các quy định dán nhãn thực phẩm của EU đảm bảo rằng, người tiêu dùng nhận được các thông tin cần thiết để quyết định khi mua thực phẩm như: Tên sản phẩm; danh sách các thành phần, bao gồm cả các chất phụ gia; thông tin về các chất có thể gây ra các phản ứng dị ứng và kích ứng cần phải được nêu ra; trọng lượng tịnh của các thực phẩm trước đóng gói theo các đơn vị hệ mét (mét, mét vuông, mét khối); ngày khuyến nghị mà đến thời điểm đó sản phẩm vẫn giữ được các đặc tính chuyên biệt, trình bày dưới dạng ngày, tháng, năm cùng với cụm từ “best – before”… Nhãn dán dễ hiểu, dễ nhìn, rõ ràng, không bị tẩy xóa và phải được sử dụng bằng ngôn ngữ dễ hiểu đối với người tiêu dùng…

Nguyễn Hạnh Công Thương
Đăng ngày: 19/12/2019

Mexico: Tiêu thụ tôm tăng, giá tôm hấp dẫn các nhà cung cấp

 Mexico ngày càng NK nhiều tôm ngay cả khi sản lượng tôm của nước này vẫn đang tiếp tục tăng.

Tổng XK tôm của khu vực Mỹ Latinh đã tăng gấp đôi từ 2013, tăng từ 400.000 tấn lên 870.000 tấn năm 2018 và dự kiến tăng thêm nữa trong năm nay.

Ecuador XK nhiều nhất trong khu vực với 510.000 tấn, Argentina (185.000 tấn), và Honduras (56.000 tấn).

Mặc dù sản lượng tôm tại khu vực này tăng nhưng tiêu thụ trong khu vực hầu như không có. Ví dụ, tại Ecuador, 95% sản lượng tôm của nước này được dùng để XK. Trước đây, Mỹ là thị trường tiêu thụ chính tuy nhiên hiện tại là Trung Quốc và hầu như không có tiêu thụ nội địa.

NK tôm hàng năm của Mỹ Latinh tương đối ổn định với khoảng 47.000 tấn. Mexico là nước NK lớn nhất với 18.000 tấn. Tiếp đó, Chile và Peru mỗi nước NK gần 9.000 tấn.

Tại Mexico, sản lượng khai thác tôm tự nhiên tương đối ổn định với 80.000 tấn trong khi sản lượng nuôi đạt 140.000 tấn năm 2018.

Do nhu cầu tôm tương đối cao tại Mexico nên cán cân xuất nhập khẩu tôm tương đối cân bằng. Tuy nhiên, Mexico đã trở thành nước XK ròng trong những năm gần đây.

Hiện Mexico là nước XK ròng vì họ XK tôm nâu với giá cao và thị trường tiêu thụ là Nhật Bản với nhu cầu tốt trong khi họ NK tôm giá rẻ, chủ yếu từ Trung Quốc và Ecuador.

 

Tiêu thụ nội địa tại Mexico tiếp tục cải thiện, tăng từ 1,2 lên gần 2 kg tôm/người kể từ năm 2013 trong khi giá tôm to còn đầu vẫn xấp xỉ 10 USD/kg.

Mexico là một thị trường hấp dẫn, họ NK các sản phẩm rẻ hơn cho thị trường nội địa và XK các sản phẩm đắt nhất. Mức tiêu thụ cao, giá cả khá tốt, và là 1 thị trường NK tiềm năng. Mexico có thể là 1 thị trường NK hấp dẫn cho các nhà cung cấp.

Brazil là một nước NK thủy sản lớn trên thế giới nhưng NK tôm giảm xuống mức thấp trong những năm gần đây. Sau đại dịch trên tôm, nước này đóng cửa biên giới đối với tôm nước ngoài.

Sản lượng tôm nội địa của Brazil giảm dần kể từ khi tổng sản lượng nuôi và khai thác còn đạt cao 120.000 tấn. Sau đó, tôm Brazil bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, sản lượng nuôi sụt giảm, sản lượng khai thác không thực sự tăng. Sản lượng nuôi và khai thác đạt khoảng 100.000 tấn.

Nước này đã mở cửa trở lại cho NK tôm từ các nước láng giềng (Ecuador, Argentina) đầu năm nay và dự kiến sắp tới sẽ mở cửa cho một số nước nữa.

Giảm cả NK và sản lượng tôm nuôi nội địa khiến tiêu thụ tôm trung bình của người Brazil giảm gần 0,45 kg/người trong năm 2018 trong khi giá tôm nuôi penaeus giảm nhẹ từ 8 USD/kg xuống 6 USD/kg từ tháng 10/2018.

Tuy vậy, giá tôm tại Rio vẫn hấp dẫn, điều này cho thấy phần lớn các nhà sản xuất Brazil chọn cách bán tôm cho thị trường nội địa.

Họ đã từng XK đi nhiều thị trường, nhất là Mỹ nhưng hiện họ không XK nữa. Tôm được tiêu thụ nội địa và giá tương đối thấp.

Kim Thu

(Theo undercurrentnews)

Nguồn :(vasep.com.vn)