Bạn tìm thông tin gì?

Blog

Màu nước ao nuôi nhân tố tác động và giải pháp

Màu nước phản ánh chính xác tình trạng chất lượng nước trong ao; trong quá trình nuôi, màu nước có thể biến đổi, đòi hỏi người nuôi phải có kiến thức nhận biết để đánh giá chất lượng nước một cách chính xác và đưa ra các giải pháp xử lý kịp thời.

Phạm vi màu nước trong ao nuôi.

Màu nước phản ánh chính xác tình trạng chất lượng nước trong ao; trong quá trình nuôi, màu nước có thể biến đổi, đòi hỏi người nuôi phải có kiến thức nhận biết để đánh giá chất lượng nước một cách chính xác và đưa ra các giải pháp xử lý kịp thời.

Nhân tố ảnh hưởng

Màu nước trong ao nuôi thể hiện các chỉ số của các yếu tố môi trường đang ở ngưỡng thích hợp hay ở mức báo động đối với sức khỏe của động vật thủy sản. Nước trong ao nuôi thường có màu do sự xuất hiện của các hợp chất hữu cơ hòa tan hay không hòa tan, hay do sự phát triển của tảo.

Trong ao nuôi thường có các màu sau:

Màu xanh nhạt (đọt chuối non): Do sự phát triển của tảo lục (Chlorophyta), loài tảo này thường phát triển mạnh trong môi trường nước ngọt hoặc nước lợ nhạt (< 10‰). Đây là màu nước thích hợp nhất để nuôi thủy sản, tảo lục ngoài việc đóng vai trò quan trọng trong chuỗi thức ăn, còn có tác dụng ổn định các yếu tố thủy lý – hóa trong ao, hấp thu các chất hữu cơ thông qua đó làm giảm lượng khí độc trong ao. Người nuôi nên cố gắng duy trì màu nước xanh nhạt, như vậy các loài thủy sản sẽ phát triển tốt hơn.

Màu xanh đậm (xanh rêu): Do sự phát triển của tảo lam (Cyanophyta), loài tảo này phát triển mạnh cả trong môi trường nước ngọt, lợ, mặn. Nếu nước trong ao nuôi có màu này thì cần có biện pháp làm giảm lượng tảo; bởi, nếu tảo lam phát triển quá mức có thể tiết ra chất độc làm chết cá và còn có thể gây thiếu ôxy về đêm do tảo hô hấp quá mức.

Màu vàng nâu (màu nước trà): Do sự phát triển của tảo silic (Bacillariophyta), loài tảo này thường phát triển mạnh ở môi trường nước lợ, mặn vào đầu vụ nuôi; đây là màu nước thích hợp nhất để nuôi các loài thủy sản nước lợ, mặn.

Màu vàng cam (màu gỉ sắt): Màu này thường xuất hiện ở các ao nuôi mới đào trên vùng đất phèn. Màu cam là do đất phèn tiềm tàng (FeS2) bị ôxy hóa tạo thành các váng sắt. Đối với ao có màu nước vàng cam cần có biện pháp khử phèn trước khi thả nuôi, có thể sử dụng vôi nông nghiệp hay bơm, xả nước nhiều lần để rửa trôi lượng phèn trong ao; đối với các ao đang nuôi thì cần rải thêm vôi trên bờ ao để tránh hiện tượng pH giảm đột ngột khi trời mưa.

Màu nâu đen: Nước có màu nâu đen do trong nước có chứa nhiều vật chất hữu cơ. Màu nước này thường thấy ở các ao nuôi có hệ thống cấp, thoát nước không tốt, trong quá trình nuôi không quản lý tốt môi trường, cho ăn dư thừa nhiều, ao nuôi có hàm lượng ôxy hòa tan rất thấp. Xử lý bằng cách thay nước nhiều lần đến khi hết màu nâu đen, hoặc kết hợp sử dụng thêm các loại chế phẩm sinh học, hóa chất có thể hấp thu khí độc. Bên cạnh đó, nếu thấy tôm, cá có hiện tượng thiếu ôxy cần sử dụng quạt đảo nước hoặc các loại hóa chất cung cấp ôxy tức thời, nhằm làm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại.

Một số giải pháp

Màu nước là màu của tảo và vi khuẩn. Màu xanh đặc trưng cho tảo, màu nâu đặc trưng cho vi khuẩn. Màu bã trà là màu của hỗn hợp tảo và vi khuẩn. Quan sát màu nước trong ao nuôi giúp đánh giá chính xác được hiện trạng chất lượng nước; từ đó, có những biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho tôm, cá sinh trưởng và phát triển.  Tạo màu nước chính là gây dựng hệ vi sinh có ích. Tảo không được quá dày, không được quá thưa; nếu tảo thừa nước trong, tảo hại ở tầng đáy sẽ dễ phát triển; ngược lại, nếu tảo dày thì gây ra tình trạng thiếu ôxy về đêm. Mật độ tảo liên quan trực tiếp với độ trong, mật độ tảo tối ưu cho nước nuôi thủy sản tương ứng với độ trong 30 – 35 cm.

Gây màu nước được thực hiện ở đầu vụ nuôi, trước khi thả tôm, khi nước bị mất màu và chủ động gây màu trong ao chứa trước để cấp cho ao nuôi khi cần thiết. Muốn duy trì màu nước thì phải duy trì được các yếu tố môi trường nước ổn định. Để làm được điều này trong trại nuôi cần có hệ thống ao chứa, độ sâu > 1 m.

– Sau khi lấy nước vào ao cần phải sát trùng nguồn nước bằng Chlorine để tiêu diệt mầm bệnh cho tôm rồi mới gây màu bằng cách bón phân, cám gạo, bột đậu nành, mật đường, sử dụng khoáng hỗn hợp, hoặc tốt nhất là nên sử dụng men vi sinh chuyên dùng cho gây màu nước trong ao tôm cá.

– Trước khi gây màu nước cần kiểm tra và điều chỉnh các thông số như pH (7,5 – 8,5), độ kiềm (80 – 150 ppm), NH3 (< 0,1 mg/l), H2S (< 0,03 mg/l).

– Định kỳ 5 – 7 ngày, bổ sung men vi sinh vào ao nuôi để thúc đẩy vi khuẩn có lợi phát triển, phân hủy chất hữu cơ dư thừa trong ao, hấp thụ và ngăn chặn sự hình thành khí độc trong ao nuôi.

– Định kỳ 10 ngày bón vôi CaCO3 hoặc Dolomite, mỗi lần 10 – 20 kg/ha kết hợp sử dụng các chất nâng kiềm để tăng độ kiềm và pH nước.

– Khi mật độ tảo trong ao dày có thể dùng hợp chất giảm phospho, men vi sinh để cắt tảo dần dần hoặc dùng BKC với liều lượng thích hợp để cắt tảo, chú ý cấy lại men sinh sau 48 giờ.

– Đối với các ao TTCT nuôi dạng biofloc kết hợp nuôi tỉa mật độ tôm dày trên 350 con/m2, nên có máy thổi khí để đảm bảo ôxy hòa tan trong nước đủ và đánh men vi sinh thường xuyên để tạo môi trường sống tốt cho tôm. Trong trường hợp ao khó gây màu do sử dụng hóa chất nhiều, đáy ao có nhiều cát, độ mặn cao nên sử dụng các sản phẩm gây màu và khoáng để gây màu nước cho ao. Sử dụng một số chế phẩm sinh học trong suốt chu kỳ nuôi sẽ giúp quản lý chất lượng nước cũng như màu nước tốt hơn.

– Quản lý cho ăn chặt chẽ tránh cho ăn thừa để hạn chế ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến chất lượng nước.

Nguồn: Theo VINAFIS

Indonesia có kế hoạch hồi sinh 300.000 ha trang trại nuôi tôm bỏ hoang

Indonesia đã công bố kế hoạch đưa hơn 300.000 ha ao nuôi tôm cũ trở lại sản xuất, trong nỗ lực cải thiện năng suất hải sản mà không cần phải phá rừng ngập mặn.

Khoảng 60% ao nuôi tôm của đất nước hiện đang bỏ hoang, và Alan Koropitan, một phó văn phòng của chánh văn phòng tổng thống, nói với Mongabay rằng: chúng tôi phải hồi sinh khu vực này bị bỏ rơi hoặc quản lý kém trong vòng 5 năm tới. 

Indonesia có một số khu vực nuôi tôm lớn nhất thế giới, nhưng ước tính chỉ có 40% ao hiện đang được sản xuất
Indonesia có một số khu vực nuôi tôm lớn nhất thế giới, nhưng ước tính chỉ có 40% ao hiện đang được sản xuất© Lim Tôm Tổ chức

Một khu vực đang được nhắm mục tiêu để phục hồi là Bumi Dipasena, đây là một trong những khu vực nuôi tôm thâm canh lớn nhất thế giới, với các ao bao phủ 17.000 ha của tỉnh Lampung của Sumatra.

Đầu tháng này, Bộ trưởng Bộ Thủy sản của Indonesia, Edhy Mitchowo đã cam kết khôi phục lại khu vực – nơi cần cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông cũng như cung cấp điện và nước sạch .

Các giải pháp khác  cho khu vực này bao gồm giới thiệu quản lý dựa vào cộng đồng và loại bỏ quyền kiểm soát doanh nghiệp từ trên xuống – như đã xảy ra trước đây của PT Central Proteina Prima, người hoạt động theo chương trình hợp tác với nông dân quy mô nhỏ.

Theo Mongabay, vào lúc cao điểm, Bumi Dipasena đã sản xuất 200 tấn tôm mỗi ngày.

theo Thefishsite

Độc đáo tục cúng vuông sau mỗi vụ Tôm của dân miền Tây

Thích tắt quảng cáo hãy nhấn nút

Mỗi vụ nuôi tôm, họ thường khấn vái binh gia “cục đất” mà mình đang canh tác phù hộ để mùa màng được bội thu. Nếu thỏ‌a ước nguyện thì sau khi kết thúc mùa vụ, họ sẽ cúng trả lễ bằng việc dâng lên binh gia con heo quay, heo trắng (chưa quay), con ch‌ó, con vịt, mâm trái cây…

Mỗi lần mất mùa thì Anh Dũng, ngụ H.Ngọc Hiển (Cà Mau) lại cúng hột vịt lộn với ngụ ý lộn lại để vụ sau được trúng mùa - Ảnh: Khải Trần
Mỗi lần mất mùa thì Anh Dũng, ngụ H.Ngọc Hiển (Cà Mau) lại cúng hột vịt lộn với ngụ ý lộn lại để vụ sau được trúng mùa – Ảnh: Khải Trần

Trúng mùa thì cúng linh đình

Từ lâu, tụ‌c cúng vuông sau mỗi vụ mùa đã ăn sâu vào tâm thức của người dân nuôi tôm ở nhiều tỉnh, thàn‌h của vùng ĐBSCL. Người dân cúng vuông (đầm nuôi tôm), với mong muốn những binh gia, cô hồn ở mảnh đất mà họ đang canh tác phù trợ, đừng ph‌á ph‌ách vuông nuôi để vật nuôi dưới vuông lớn nhanh, không bị hao hụt… thì đến khi thu hoạch, họ sẽ cúng trả lễ. Việc cúng này, xem như là sự trả ơn, đền đáp cho binh gia đã phù trợ, trông giữ các loài thủ‌y sả‌n dưới vuông nuôi. Đồng thời, nó thể hiện sự thàn‌h kí‌nh của chủ vuông đối với những âm binh, cô hồ khuất mặt đang ngự trị, sin‌h sống tại mảnh đất của họ.

Ông Linh, ngụ xã Long Điền Tây, H.Đông Hải, tỉnh bạ‌c Liêu cho biết tụ‌c cúng vuông ở địa phương này đã có rất lâu đời, từ thời ông bà của ông Linh đã thấy rồi. Gia đình ông Linh luôn có một niềm tin tuyệt đối với những binh gia ở khu vực vuông tôm của ông. Thông thường, trong mỗi vụ mùa, khi thả giống xuống vuông tôm thì gia đình ông Linh đều khấn vái binh gia, bà cậ‌u rất thàn‌h kí‌nh. Một điều kỳ lạ là, mỗi lần van vái, người nuôi sẽ phải cam kết nếu trúng mùa là kí‌nh dâng phần lễ lên những binh gia, bà cậ‌u khuất mặt ở đó món gì, là phải cúng ngay món đó, nếu gia chủ quên, hoặc cố tìn‌h cúng món khác thì hậu quả mấ‌t mùa sẽ đến ở những vụ mùa sau, ông Linh bảo vậy

Ông Linh chia sẻ: “Đầu vụ, trước lúc thả giống, tôi thường thắp nhang khấn vái rất thàn‌h tâm, đại khái là vái binh gia, bà cậ‌u ở mảnh đất này đến chứng kiến việc thả giống xuống vuông và phù trợ cho vật nuôi lớn nhanh, ít hao hụt, đến khi thu hoạch được mùa thì sẽ cúng trả lễ bằng… 1 con ch‌ó. Tôi để ý nhiều lần rồi, cúng ch‌ó ở vuông tôi đều mang lại điều may mắn, trúng mùa ào ào luôn”.

Ông Linh gi‌ải thí‌ch rằng, tùy vào tâm ý của người nuôi mà họ van vái binh gia, bà cậ‌u ở miếng vuông đó và có thể kí‌nh dâng lên những âm binh đó bấ‌t kể món ăn gì, chứ không nhất thiết phải cúng ch‌ó. Riêng gia đình ông Linh thì khá‌c, ông cảm nhậ‌n được âm binh, bà cậ‌u ở mảnh đất của gia đình ông rất thí‌ch dâng lễ vật là ch‌ó, nên từ trước đến nay, ông đều van vái nếu mùa màng bội thu thì ông sẽ kí‌nh dâng lên những người khuất mặt đang cai quản, trông giữ vuông tôm của ông 1 con ch‌ó hơi (chưa xả thịt), kèm theo mâm hoa quả, rượ‌u và gạo muối…

Ông Linh nói: “Tôi thường đặt ra chỉ tiêu trong mỗi vụ nuôi, nếu năm nào mà binh gia độ tôi lãi trên 200 triệu đồng thì tôi cúng ch‌ó quay, còn nếu mà trúng mùa, nhưng dưới mức đó thì tôi cúng ch‌ó thường. Tôi luôn quan niệm, ch‌ó là loài vật tinh khôn, luôn trông giữ nhà cửa, tránh không bị trộ‌m cắ‌p thì khi dâng lên thần linh, loài vật này sẽ giúp thần linh cai quản các loài thủ‌y sả‌n trông vuông nuôi không bị hao hụt, mấ‌t trộ‌m… Và tôi cảm thấy, âm binh ở đây rất chuộng việc cúng ch‌ó, mỗi lần tôi vái cúng ch‌ó là vuông tôi xổ tôm trúng rần rần luôn, nhiều lần trúng tôm phải giấu vì s‌ợ kẻ xấ‌u ph‌át hiện, sẽ trộ‌m vuông”.

Một bữa cúng vuông của người dân miền Tây – Ảnh: Khải trầ‌n

Nói về việc cúng vuông, ông Dữ, ngụ H.Phước Long, tỉnh bạ‌c Liêu cho rằng có rất nhiều cách để cúng vuông. Tùy theo điều kiện, hoàn cảnh của từng gia đình, mà người nuôi có thể van vái, cúng kiếng lên thần linh những món ăn khác nhau, thường thấy nhất là cúng heo và trái cây, rượ‌u thịt. “Nếu nhà nào giàu có thì họ cúng nguyên con heo quay và trái cây. Còn ai khó khăn mà được thần linh khuất mặt, khuất mày độ thì họ cúng đầu heo hoặc gà, vịt và rượ‌u, gạo muối…”, ông Dữ cho biết.

Theo người đàn ông này, mỗi khi trúng mùa, thì người dân địa phương rất hào sả‌ng, phóng khoáng cúng dâng lên “bề trên” rất nhiều món ăn, trong đó, chủ đạo vẫn là món mà họ vái trước đó. Bởi họ luôn tâm niệm, nhờ có sự phù trợ của “bề trên” nên họ mới trúng mùa và có được cuộc sống sung túc như vậy. Do đó, hễ không van vái thì thôi, còn nếu đã van vái mà thỏ‌a được ước nguyện thì phải thực hiện lời hứa của mình.

Ông Dữ còn nói thêm, trước ông từng quen 1 người ở Cà Mau đến địa phương này thuê đất để nuôi tôm. Trước khi thả giống, người này cũng van vái cúng kiếng đủ điều. Tuy nhiên, sau khi xổ vuông trúng liên tiếp nhiều con nước thì người này không chịu cúng trả lễ như đã hứa, nên cuối cùng liên tiếp mấ‌t mùa, và hậu quả là phải trả vuông về quê.

“Vái mà không thực hiện thì sẽ nhậ‌n lấy hậu quả, tôi để ý nhiều rồi. Những người khuất mặt họ cũng vất vả, phù hộ cho vật nuôi của mình mau lớn, để nhậ‌n được công trạng như lời hứa của chủ vuông, nhưng khi đã trúng mùa, mà người nuôi lại bội ước, thì tộ‌i lỗi lắm. Nếu không cúng, thì những vụ sau tôm nuôi chưa lớn đã chế‌t hết rồi”, ông Dữ nói thêm.

Thất mùa thì cúng… trứng vịt lộn

Ông Dũng, ngụ H.Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau chia sẻ, thấy người ta kể rằng, nếu vụ mùa trúng thì nên cúng heo quay, ch‌ó quay… để dâng lên cho bà cậ‌u khuất mặt ở đó, thì sẽ rất hên. Với ngụ ý là, khi được cúng kiếng thì âm binh này sẽ hết mình hỗ trợ cho chủ vuông.

“Tôi nghĩ, lâu nay việc cúng kiếng, van vái đã ăn sâu vào tâm thức của người dân mình rồi, làm gì cũng vái, nuôi gì cũng vái. Vái để tâ‌m l‌ý an tâm thôi, chứ quan trọng nhất vẫn là yếu t‌ố kỹ thuật, có kỹ thuật tốt thì cái gì cũng đạt kết quả. Dù không tin, nhưng tôi vẫn cũng kiếng, van vái cho an tâm. Ở xứ này, tôi thường cúng vái binh rừng, vì ở đây là xứ rừng, trong vuông tôm lúc nào cũng trồng nhiều cây đước”, ông Dũng nói.

Theo ông Dũng, ông thuê khoả‌ng 7 hecta đất rừng để nuôi tôm, mỗi lần trúng mùa thì ông cúng heo quay, heo trắng đuề huề. Riêng những lần thất mùa thì ông cúng… hột vịt lộn luộc. Với ngụ ý thất mùa thì cúng trứng vịt lộn để bà cậ‌u khuất mặt ăn, rồi phù hộ mà “lộn lại” thàn‌h… trúng mùa để người nuôi bớt khổ.

Khi nghe chúng tôi hỏi, thời gian cúng là lúc nào và có khi nào vái mà không trúng không, ông Dũng cười hiền rồi đáp: “Có chớ! Không cúng hoài chớ gì, vái mà không độ thì lấy gì mà cúng. Thời gian cúng thì không bắ‌t buộc đâu, muốn cúng ngày nào là cúng thôi. Tất cả đều phụ thuộc vào chủ vuông thôi, nếu con nước đó trúng mùa thì khi kết thúc con nước họ sẽ cúng”.

Còn ông Anh, ngụ H.Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau thì nói rằng nếu trúng mùa thì có rất nhiều cách cúng, thậm chí là cúng rất linh đình, trang trọng, vái gì cúng đó. Còn thất mùa, thì chỉ có một cách cúng duy nhất là trứng vịt lộn.

“Trúng thì có tiền, có của nên làm rình rang, van vái, cầu khẩn mong mùa sau cũng trúng như vậy. Còn thất bát quá, lấy tiền đâu mà mua lễ vật cúng, mà cũng chẳng ai vái lạy mình thất mùa cả. Nên những vụ mùa thất bát, chủ vuông chỉ mua hột vịt lộn dâng lên binh rừng, với mong muốn họ độ, “lộn lại” vụ sau sẽ được trúng mùa”, ông Anh nói thêm.

Trên thực tế, việc thủ‌y sả‌n, trúng mùa hay thất mùa sẽ không phụ thuộc vào yếu t‌ố cúng vuông hay van vái bấ‌t kỳ một yếu t‌ố siêu nhiên nào mà có thể giúp được việc trúng mùa của người dân. Tất cả là do chất lượng con giống, môi trường ao nuôi, thời tiết… Nếu các yếu t‌ố này đạt tiêu chuẩn tốt thì vuông nuôi đó chắc chắn sẽ có một vụ mùa thuận lợi, bội thu.Việc cúng vuông, chủ yếu là do tâ‌m l‌ý của người dân, cúng để họ an tâm hơn trong việc sả‌n xuất, canh tác ở mảnh đất đó.

Một kỹ s‌ư chuyên ngành nuôi trồng thủ‌y sả‌n ở bạ‌c Liêu khẳng định: “Làm gì có chuyện cúng vuông sẽ quyết định vụ mùa trúng hay thất. Không có đâu, đó chẳng qua là do người dân m‌ê tí‌n thôi, cúng để họ vững tâ‌m l‌ý. Tôi lấy ví dụ, nếu người nuôi thả giống vào một miếng vuông nào đó, mà các yếu t‌ố như con giống thì không chất lượng, nguồn nước thì nhi‌ễm bện‌h hoặc nắng mưa thất thường, còn người nuôi thì không có Kin‌h nghiệm, kỹ thuật… thì tôi khẳng định luôn, dù họ có vái, cúng trăm ngàn món ngon vật lạ đi nữa thì cũng thất mùa thôi. Tất cả là do kỹ thuật nuôi cả!”.

Thông số oxy hòa tan trong ao tôm

Oxy hòa tan trong ao nuôi trồng thủy sản đều rất quan trọng, đặc biệt khi nuôi tôm; bà con cần phải nắm rõ được thông số oxy hòa tan trong ao tôm, để tránh tình trạng thiếu oxy gây ảnh hưởng đến tôm nuôi.

Trong nuôi tôm ai cũng cần phải biết được Thông số oxy hòa tan trong ao tôm; để biết điều chỉnh sao cho phù hợp nhất. Tạo ra một môi trường thuận lợi để tôm phát triển, tăng trưởng nhanh nhất

Thông số kỹ thuật về oxy hòa tan

  • Oxy hòa tan nhỏ hơn 0,3 mg/L : Tôm chết hàng loạt ngay tức thì.
  • Oxy hòa tan nhỏ hơn 1 mg/L: Nếu tình trạng này kéo dài tôm sẽ chết
  • Oxy hòa tan nhỏ hơn 3 mg/L: Đây vẫn là mức thấp tôm tăng trưởng rất kém hệ miễn dịch giảm, sức đề kháng không có
  • Oxy hòa tan lớn hơn 4 mg/L: Đây được coi là mức tối thiểu để tôm tăng trưởng bình thường
  • Oxy hòa tan lớn hơn 5 mg/L: Tôm sẽ có sự tăng trưởng phát triển tốt hơn

Ao tròn lót bạt có mái che mưa nắng, độ ly tâm cao, tạo dòng chảy hiệu quả

Nguyên nhân gây cạn kiệt oxy trong ao tôm

  • Ao thiết kế hệ thống siphon chưa tốt, chất thải tồn đọng trong ao nhiều
  • Tảo chết gây ra quá trình phân hủy xác tảo cần một lượng oxy nhất định
  • Thời tiết nắng nóng kéo dài sẽ làm cho oxy hòa tan vào nước kém hiệu quả hơn
  • Có sự phân tầng nước do mưa nặng hạt kéo dài, gió to
  • Do thả tôm mật độ quá cao, cho ăn và thức ăn dư thừa nhiều

Cách cải thiện cho lượng oxy tốt nhất cho ao tôm

  • Thả tôm mật độ dạng vừa
  • Nếu để mực nước sâu trên 1,3m phải có hệ thống oxy đáy đảm bảo
  • Kiểm soát tảo trong ao tốt
  • Dùng quạt tạo oxy, tao dòng chảy trong ao
  • Tăng cường chạy quạt vào ban đêm
  • Cần chạy quạt từ 1-1,5 tiếng trước khi cho tôm ăn
  • Quản lý thức ăn, không cho ăn dư thừa nhiều
  • Cần thiết kế ao tròn có độ ly tâm tốt; tạo dong chảy, gom thải và có mái che

Nguồn : https://aouongdidong.com/

So sánh tôm thẻ chân trắng với tôm sú

So sánh tôm thẻ chân trắng với tôm sú về nhiều phương diện khác nhau; bà con nắm bắt được ưu nhược điểm của tôm thẻ chân trắng với tôm sú. Để bà con đưa ra quyết định lựa chọn nuôi loại tôm nào phù hợp nhất

Đặc điểm

Ưu thế

Bất lợi

1. Mức tăng trưởng
  • Ở kích cỡ dưới 20g, TCT tăng trưởng nhanh hơn (1 – 1,5g/tuần) so với tôm sú (1g/tuần).
  • TCT khi thu hoạch đồng đều về kích cỡ hơn tôm sú
Mức tăng trưởng của TCT chậm lại khi tôm đạt cỡ 20g, vì thế sản lượng thu hoạch cỡ tôm lớn thấp
2. Mật độ nuôi TCT dể dàng nuôi ở mật độ rất cao: 60 – 150

con/m2, tối đa là 400 con/m2. Trong khi, tôm sú không bao giờ nuôi được mật độ này.

Mật độ nuôi cao đòi hỏi trình độ cao

về kỹ thuật quản lý và phải có chiến lược ngăn ngừa rủi ro.

3. Sức chịu đựng độ

mặn

Giới hạn về sức chịu đựng độ mặn của TCT lớn hơn tôm sú (0,5 – 45 %o), nhờ đó, TCT có khả

năng phát triển sâu vào vùng nội địa (xa biển), nơi có độ mặn thấp

 

 

Không

4.Sức chịu đựng

nhiệt độ

TCT có khả năng chịu được nhiệt độ rất thấp (15

oC), vì thế chúng có thể nuôi vào mùa lạnh.

Không
5. Nhu cầu Protein trong thức ăn – Nhu cầu Protein trong thức ăn của TCT ( 25 – 35 %) thấp hơn so với tôm sú (36 – 42 %)

Hiệu quả sử dụng thức ăn của TCT cũng cao

hơn tôm sú, hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) của TCT (1,2) thấp hơn tôm sú (1,6)

6. Khả năng kháng bệnh Mức      độ     nhạy     cảm     đối     với              bệnh              đốm     trắng (WSSV) của TCT thấp hơn tôm sú. TCT rất nhạy cảm với nhiều bệnh do virut khác như Hội chứng Taura (TSV), Đốm trắng (WSSV), Đầu vàng (YHV), Hoại tử tế bào máu (IHHNV), ..

Tôm sú kháng bệnh TSV, IHHNV tốt hơn.

7. Sản xuầt giống và thuần hóa TCT thành thục tốt trong ao nuôi và dể thuần hóa. Điều này rất có ý nghĩa trong việc chọn, lai tạo, sản xuất giống kháng bệnh (SPR), giống sạch bệnh (SPF), tỉ lệ thành công cao hơn và thời gian chọn lọc, lai tạo cũng ngắn hơn. Việc sử dụng nguồn tôm bố mẹ nuôi đòi hỏi kỹ thuật cao hơn, nhất là trong sản xuất giống SPF. Giống sạch bệnh SPF có nguy cơ tử vong

cao hơn trong môi trường có mầm bệnh.

8. Tỉ lệ sống của ấu trùng Trong sản xuất giống, tỉ lệ sống của ấu trùng TCT

(50 – 60 %) cao hơn tôm sú ( 20 – 30 %)

Sau thu hoạch TCT ướp đá dể bị biến màu (bị đen).

Việc      thu     hoạch,      bảo              quản, vận chuyển, ….tôm sú dể dàng hơn

Thị trường TCT được ưa thích hơn các loài tôm khác ở thị trường Mỹ do khẩu vị. Nhu cầu tại chỗ ở Châu Á đối với TCT cũng rất cao. Tôm sú có thể phát triển với kích cỡ lớn hơn và có giá bán cao hơn. Trên

thị trường toàn cầu, TCT cũng đang bị cạnh tranh gay gắt.

(Nguồn khuyennongtphcm)

10 bước nuôi tôm trong hệ thống biofloc

Những năm gần đây, công nghệ biofloc đã được ứng dụng rộng rãi ở nước ta. Tuy nhiên, để đạt được thành công, người nuôi cần thực hiện đúng các nguyên tắc của hệ thống biofloc trong hoạt động nuôi tôm của mình.

Xây dựng bể hoặc ao

Theo Khoo Eng Wah, Giám đốc điều hành của Trung tâm Nuôi trồng thủy sản Sepang Today (STAC) ở Malaysia giải thích: Đối với những người mới ứng dụng biofloc, tốt nhất là bắt đầu với ao lót bạt, ao bê tông hoặc bể trong nhà để đất không ảnh hưởng đến các thông số nước hoặc quá trình biofloc. Ở hầu hết các nước nhiệt đới, hệ thống trong nhà có lợi thế hơn ngoài trời, nhất là khi trải qua một cơn mưa lớn làm độ kiềm và pH thay đổi đột ngột. Ao có mái che là lựa chọn tốt.

 

Sục khí

Biofloc yêu cầu chuyển động liên tục để duy trì mức ôxy cao và để giữ cho chất rắn không lắng xuống. Các khu vực không có chuyển động sẽ nhanh chóng mất ôxy và biến thành các khu vực kỵ khí giải phóng một lượng lớn amoniac (NH3) và metan (CH4). Để ngăn chặn điều này, ở mỗi ao, bể thì các thiết bị sục khí phải được bố trí hợp lý. Ao thường sử dụng thiết bị sục khí kiểu bánh xe quạt nước (paddlewheel aerators). Các hệ thống biofloc cần tới 6 mg ôxy/lít mỗi giờ và nên bắt đầu với máy sục khí có công suất ít nhất 30 hp/ha. Nhưng, tùy thuộc vào cường độ và năng suất của hệ thống, con số này có thể đạt tới 200 hp/ha. Máy sục khí nên được lắp đặt một cách hợp lý để tạo ra dòng chảy trong ao. Cần thường xuyên di chuyển một số thiết bị sục khí để đảm bảo các hạt rắn sẽ không lắng xuống ở những khu vực có ít hoặc không có dòng chảy.

 

Nuôi cấy vi khuẩn có lợi

Để thúc đẩy sự phát triển của hệ thống biofloc và ổn định ao nhanh hơn, nên nuôi cấy vi khuẩn có lợi trước khi thả tôm. Điều này có thể được thực hiện bằng cách thêm một số chủng vi sinh thương mại hoặc công thức tự làm vào nước nuôi. Một công thức tự chế đơn giản để nhanh chóng sản xuất các vi khuẩn sinh học và prebiotic là sử dụng cám gạo và Red Cap 48 (một sản phẩm địa phương từ Đông Nam Á) trộn trong một cái thùng kín và để lên men trong 48 giờ, sau đó hỗn hợp có thể được thêm vào ao.

 

Mật độ thả

Nhờ có sục khí mạnh và khả năng tự lọc của nước nuôi, mật độ thả cao có thể được xem xét và thông thường là thả tôm ở mật độ 150 đến 250 PL/m2.

 

Cân bằng nguồn carbon đầu vào

Chỉ nên chọn các nguồn carbon và hỗn hợp thức ăn có tỷ lệ carbon-nitơ (C/N) > 10. Hiện hầu hết thức ăn cho cá và tôm có tỷ lệ C/N là 9:1 hoặc 10:1, nên cần có thêm đầu vào để nâng tỷ lệ này lên trong khoảng từ 12:1 đến 15:1. Có thể sử dụng: mật rỉ đường, tinh bột sắn, mía hoặc tinh bột.

 

Tăng trưởng biofloc

Với sự sục khí đầy đủ, ánh sáng tự nhiên (trong hầu hết các hệ thống) và nguồn carbon có sẵn, số lượng biofloc sẽ bắt đầu nhân lên nhanh chóng. Tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm nhiệt độ nước, chất dinh dưỡng và ánh sáng mặt trời, cộng với số lượng bioflocs được gieo hạt khi bắt đầu, số lượng flocs sẽ tăng từ gần 0 lên khoảng 4 – 5 đơn vị/mm trong một vài tuần. Cuối cùng, mật độ đáng kinh ngạc lên tới 10 tỷ vi khuẩn trên mỗi cm3.

Theo dõi sự tăng trưởng của các flocs này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng cốc có hình nón để thu thập một số mẫu nước ở độ sâu từ 15 đến 25 cm, tốt nhất là vào buổi sáng. Các hạt rắn nên được để lại trong 20 phút.

 

Theo dõi và kiểm soát sự phát triển của biofloc

Từ thời điểm này, các mẫu nước phải được lấy thường xuyên để theo dõi và xác định hoạt động của hai loại biofloc cộng với mật độ tương ứng của chúng. Nói một cách đơn giản, bioflocs ngoài trời bao gồm tảo xanh và vi khuẩn: tảo chủ yếu sử dụng ánh sáng mặt trời để phát triển, trong khi vi khuẩn chủ yếu ăn thức ăn thừa, sản phẩm phụ và chất thải liên quan.

 

Theo dõi và kiểm soát môi trường

Khi hệ thống biofloc chuyển sang màu nâu, sục khí phải được tăng lên đáng kể để duy trì tốc độ hô hấp cao. Tốc độ hô hấp ở giai đoạn này có thể đạt tới 6 mg/lít mỗi giờ, đòi hỏi năng lượng gấp sáu lần mỗi ha so với khi bắt đầu hoạt động. Điều quan trọng đối với hệ thống sục khí là phải luôn luôn hoạt động. Một máy phát điện diesel lớn, bao gồm một bộ máy phát điện dự phòng thứ hai, có thể là lựa chọn tốt nhất cho hầu hết các hoạt động của trang trại lớn.

 

Theo dõi các thông số

Bên cạnh việc duy trì chất lượng nước với chi phí thấp hơn và không cần trao đổi nước, mục tiêu thứ hai của hệ thống biofloc là cải thiện tốc độ tăng trưởng và hiệu quả nuôi, từ đó cải thiện lợi nhuận và tính bền vững của hoạt động canh tác.

Để kiểm tra trang trại đang hoạt động như thế nào, cần theo dõi thường xuyên các yếu tố hiệu suất của trang trại, tính toán và ghi lại tốc độ tăng trưởng, ngoại hình tổng thể, FCR và tỷ lệ sống là bắt buộc.

 

Vệ sinh

Việc làm sạch ao nuôi sau thời gian thu hoạch thường bị lãng quên và bị đánh giá thấp tuy nhiên đây là khâu rất quan trọng. Mặc dù việc tái sử dụng nước nuôi có vẻ hấp dẫn vì phải nỗ lực rất nhiều để xây dựng quần thể vi sinh vật, nhưng điều này không được khuyến khích. Các mầm bệnh có thể đã phát triển và có thể gây ra rủi ro an toàn sinh học nghiêm trọng. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng theo thời gian, kim loại nặng có thể tích tụ trong nước nuôi cấy, có thể tích tụ trong ao của khiến nó không phù hợp với tiêu dùng của con người. Vì vậy, nên dọn dẹp vệ sinh hệ thống thật tốt trước khi bắt đầu vụ nuôi tiếp theo.

Lê Loan (Tổng hợp)

Nguồn : http://contom.vn/

Kinh nghiệm nuôi tôm tiết kiệm điện của nông dân Nguyễn Văn Thù

Nhằm giảm chi phí trong quá trình nuôi tôm, tăng lợi nhuận, nhiều hộ nông dân trên địa bàn tỉnh Trà Vinh đã quan tâm đến việc tiết kiệm điện. Dưới đây là kinh nghiệm lắp đặt quạt nước và bố trí thời gian chạy quạt tạo ôxy trong nuôi tôm đảm bảo tiết kiệm điện, giảm chi phí sản xuất của nông dân Nguyễn Văn Thù, ngụ ấp Bờ Kinh 1, xã Mỹ Hòa, huyện Cầu Ngang.

Ông Nguyễn Văn Thù (phải) tại ao nuôi tôm của gia đình.

Ông Nguyễn Văn Thù cho biết, tổng diện tích nuôi tôm của gia đình là 1,2ha, thiết kế 4 ao nuôi và 2 ao lắng. Trong ao nuôi, hàm lượng ôxy là yếu tố quyết định sự tồn tại và quá trình sinh trưởng, phát triển của tôm. Trong quy trình nuôi tôm, muốn năng suất cao, chất lượng tốt, việc sử dụng quạt nước với các cánh quạt tạo ôxy là điều quan trọng và bắt buộc. Làm sao để sử dụng quạt nước có hiệu quả nhất, người nuôi cần căn cứ điều kiện cụ thể, có biện pháp tạo ôxy phù hợp cho ao. Việc thiết kế, lắp đặt quạt để tạo ôxy có ảnh hưởng không nhỏ đến lượng điện năng tiêu thụ.

Rút kinh nghiệm trong quá trình nuôi tôm, ông Nguyễn Văn Thù đã đúc kết được 02 vấn đề cơ bản giúp tiết kiệm điện hiệu quả: Đối với quạt, khâu lắp đặt cũng ảnh hưởng đến điện năng tiêu thụ. Trục quay của quạt phải thẳng, thì quá trình vận hành sẽ nhẹ hơn nếu trục quạt bị cong, giúp giảm điện năng tiêu thụ. Vị trí lắp đặt quạt tốt nhất nên cách bờ từ 3-5m (hay cách chân bờ 1,5m), sao cho tạo được dòng chảy có tác dụng gom các chất thải, cặn bã vào giữa ao để dễ dàng bơm ra ngoài. Nếu bọt nước tập trung ở giữa ao là lắp quạt đúng. Khoảng cách giữa 02 cánh quạt từ 60-80cm, so le nhau. Tùy theo diện tích ao, bố trí hệ thống quạt nước cần đảm bảo nhu cầu ôxy cho tôm nuôi và gom chất thải vào giữa ao.

Số lượng máy quạt nước sử dụng trong ao tùy thuộc vào mật độ, diện tích ao và khả năng đầu tư. Tùy vào điều kiện cụ thể về kinh tế và diện tích ao nuôi, cần lựa chọn số lượng quạt lắp đặt cho phù hợp. Khi tôm nuôi còn nhỏ, cần lượng ôxy ít, thì lắp ít cánh quạt; số cánh quạt lắp nhiều dần tương ứng với tuổi của tôm.

Về thời gian chạy quạt, vào thời điểm ban ngày, nếu trời có nắng, ao nuôi sẽ tự tạo ôxy nhiều hơn thời điểm trời mát hoặc mưa. Do vậy, nếu trời nắng, có thể giảm thời gian chạy quạt tạo ôxy từ 10-20% thời gian so với những ngày trời mưa hoặc trời mát. Hệ thống gồm có một trục thẳng nối với trục motor điện, trên trục có lắp 10-20 cánh quạt, nên đặt motor ở giữa, 02 bên là những cánh quạt, giúp tiêu thụ điện năng ít hơn, do không phải “gánh” thêm phần trục.

Nhờ áp dụng các biện pháp tiết kiệm điện đồng bộ, trong 03 vụ nuôi vừa qua, với diện tích và con giống nuôi như nhau, ông Nguyễn Văn Thù đã giảm chi phí tiền điện từ 600.000-700.000 đồng/tháng so với trước đây.