Bạn tìm thông tin gì?

Blog

Giá tôm thẻ tăng mạnh, người nuôi lãi khủng 70.000 đồng/kg

Sau gần 3 năm liên tục đứng ở mức thấp, hiện giá tôm đang quay đầu và tăng mạnh do nguồn cung khan hiếm. Đeo theo giá, nhiều nông dân đang đánh cược với vụ tôm Tết Nguyên đán 2020.

Hiện nhiều nông dân nuôi tôm đã và đang thả tôm nuôi vụ nghịch để đón tết. Nuôi tôm vụ này đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do những tháng cuối năm, nhiệt độ xuống thấp, dịch bệnh tăng cao.

Nuôi tôm nghịch vụ tại HTX Hiệp Thành (TP.HCM)

Theo ông Trần Văn Mùa – Chủ tịch HTX nuôi tôm công nghệ cao Hiệp Thành (Nhà Bè, TP.HCM), hiện thời tiết diễn biến nóng, lạnh khá phức tạp.

“Giá tôm đang khá tốt, nhưng thời tiết quá phức tạp. Vụ tôm nghịch vụ này rủi ro sẽ khá cao. Chưa nói trước được điều gì, tiền Tết vẫn còn dưới ao”, ông Mùa khẳng định.

Cũng theo ông Mùa, nếu không nắm chắc kỹ thuật, xử lý tình huống bệnh dịch tốt, nhiều khả năng nông dân nuôi tôm sẽ phá sản mùa Tết này. Hiện, HTX Hiệp Thành đã thả nuôi hơn 20ha tôm. Mới đây HTX đã cho thu hoạch một ao tôm 4 tấn để bán ra thị trường.

Trong khi đó, tại ấp Kênh Đào (xã Long Hựu, Cần Đước, Long An), nông dân đã thả nuôi tôm nghịch vụ khoảng 15ha.

Ông Mười Đặng (Nguyễn Đặng) – một nông dân có 3 ao tôm với diện tích 8.000m2 cho biết, những năm gần đây rất ít nông dân thắng vụ tôm nghịch nuôi bán Tết. Tuy nhiên, để đánh đu may rủi với thời tiết, dịch bệnh và để có tiền ăn Tết, nhiều nông dân ở xã này vẫn thả nuôi tôm vụ nghịch.

“Tôi nuôi tôm hơn chục năm nay. Hiện tôi đang thả nuôi 600.000 con tôm được 2 tháng rồi. Từ giờ cho đến thu hoạch tôm hồi hộp lắm, tôm bị dịch là coi như hết ăn Tết”, ông Mười Đặng bộc bạch.

Nông dân rất trông mong vụ tôm Tết năm nay khi giá đang tăng cao.

Theo ông Mười Đặng, nuôi tôm vào những tháng cuối năm sẽ gặp nhiều rủi ro và nguồn vốn bỏ ra lớn, nhưng nếu tuân thủ đúng các quy trình chăm sóc, tôm vụ nghịch này sẽ cho sản lượng và giá trị tương đối. Đặc biệt, thu hoạch bán ở thời điểm cận tết nên rất được giá.

Trưởng phòng NNPTNT huyện Cần Đước Nguyễn Hồng Chương thông tin, mấy năm nay, giá tôm không ổn định cộng thêm tình hình thời tiết diễn biến phức tạp, phát sinh nhiều bệnh trên tôm khiến nhiều hộ nông dân gặp không ít khó khăn.

Theo các chuyên gia, sản lượng tôm năm nay giảm nên giá tôm nguyên liệu những tháng cuối năm tăng mạnh. Các công ty chế biến thủy sản đang gặp khó khăn trong thu mua tôm nguyên liệu, do nguồn cung khan hiếm, giá khá cao, tăng trung bình 15 – 20%. Do thiếu nguyên liệu chế biến, các nhà máy đẩy mạnh mua vào để thực hiện những hợp đồng đã ký trước đó nên đẩy giá tôm thời gian gần đây leo thang.

Tuần trước, tại ĐBSCL giá tôm thẻ chân trắng cỡ 40 con/kg mua tại ao là 146.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, người nuôi có lời khoảng 70.000 đồng/kg. Tôm cỡ 30 con/kg trên 175.000 đồng/kg, tăng hơn 40.000 đồng/kg so với cách đây vài tháng. Với mức tăng từ 15.000 – 45.000 đồng/kg, người nuôi tôm đạt lợi nhuận lớn.

Vụ tôm Tết năm nay được dự báo sẽ rất rủi ro khi thời tiết bất thường.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), mặc dù giá tôm đang tăng cao, và vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, thậm chí theo dự báo gái tôm sẽ còn tăng trong những ngày tới, nhưng VASEP khuyến cáo nông dân không nên đua nhau thả tôm để tránh nguy cơ tăng cung ào ạt, nhất là trong bối cảnh giá tôm Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào thị trường Trung Quốc.

Nguồn : Dân Việt

Xuất khẩu chính ngạch – Gỡ khó cho thị trường tôm hùm

VTV.vn – Thị trường tôm hùm đã đảo chiều, tăng giá trở lại từ khoảng 1 tháng nay nhưng nghịch lý là ở chỗ nhiều người nuôi không có tôm để bán.

Tôm hùm bông giờ đã ở mức 1,3 – 1,4 triệu đồng mỗi kg. Tôm hùm xanh dao động từ 700 – 800 ngàn đồng. So với hồi giữa năm, giá tôm hùm hiện tại đã tăng trên dưới 200 ngàn đồng.

Nhiều người nuôi tôm hùm tiếc nuối khi không còn tôm để bán. Tiếc nhưng không ai bất ngờ, họ đã quá quen với chuyện bấp bênh trên thị trường tôm hùm.

Ở vùng biển hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên, sản lượng tôm hùm mỗi năm xấp xỉ 1.800 tấn. Phần lớn lượng tôm này xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc. Thế nhưng, từ cuối năm 2018, Trung Quốc đã thay đổi trong chính sách biên mậu đối với việc nhập khẩu hàng thủy sản Việt Nam. Cụ thể đối với tôm hùm là siết chặt nhập khẩu tiểu ngạch, tăng cường nhập khẩu chính ngạch với yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, truy xuất nguồn gốc.

Suốt một năm qua, các địa phương có nghề nuôi tôm hùm đã tìm cách để chuyển từ xuất khẩu tiểu ngạch sang chính ngạch. Theo yêu cầu trong xuất khẩu chính ngạch, từng lô hàng tôm hùm phải có chứng thư kiểm dịch, kiểm soát nguồn gốc, đảm bảo quy cách đóng gói, nhãn mác… Những điều này để làm được, cả doanh nghiệp thu mua lẫn người nuôi tôm hùm buộc phải thay đổi, không thể nuôi theo kiểu tự phát như lâu nay.

Những gì xảy ra đối với mặt hàng tôm hùm cũng là thực tế chung đối với nhiều mặt hàng thủy sản mà lâu nay đầu ra lệ thuộc vào xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc. Cũng vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch tiếp tục là vấn đề nóng trải dài ở hầu khắp các vùng nuôi thủy sản.

Hiệu quả từ nuôi tôm vụ đông

Ba năm trở lại đây, nuôi tôm vụ đông (hay còn gọi là nuôi tôm trái vụ) đã trở thành phương thức canh tác mới mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân khu vực các xã bãi ngang của huyện Kim Sơn. Năm nay, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do môi trường, dịch bệnh nhưng người nuôi tôm thắng lớn do giá tôm thương phẩm đang cao gấp đôi, gấp ba so với tôm chính vụ và cao hơn giá tôm vụ đông năm trước.

Gia đình anh Trần Văn Cường ở xóm 1, xã Kim Hải (Kim Sơn) ứng dụng công nghệ nhà bạt trong nuôi tôm trái vụ.
Gia đình anh Trần Văn Cường ở xóm 1, xã Kim Hải (Kim Sơn) ứng dụng công nghệ nhà bạt trong nuôi tôm trái vụ.

 

Trong tiết trời se lạnh, mưa lất phất bay của những ngày cuối năm, chúng tôi về thăm các đầm tôm vụ đông cho thu nhập bạc tỷ của những nông dân mạnh dạn đi đầu áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất. Điểm đến đầu tiên của chúng tôi là mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao trên diện tích hơn 7 ha của Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển thủy sản Bình Minh.
Giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư phát triển thủy sản Bình Minh Vũ Hải Đường chia sẻ: Bắt đầu từ năm 2016, Công ty thuê hơn 7ha đất nhiễm mặn, cấy lúa kém hiệu quả của Công ty TNHH MTV Bình Minh triển khai xây dựng mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao với hệ thống ao nuôi, ao ươm, ao xử lý nước đều được bê tông hóa bờ, đáy; riêng 2,6 ha ao nuôi được làm mái che hình chóp nón, sử dụng khung cáp chịu lực và 3 lớp lưới, ni lông che phủ; áp dụng công nghệ mới giúp ao nuôi chống rét, giữ ấm về mùa đông và chống nắng vào mùa hè, nhiệt độ ao luôn đảm bảo cho con nuôi sinh trưởng, phát triển.
Do vậy ngoài sản xuất 2 vụ chính như các hộ nuôi quảng canh khác, Công ty còn sản xuất thêm 1 vụ tôm thẻ trong vụ đông. Thực tế cho thấy ở miền Bắc, nếu không làm ao có mái che sẽ không nuôi được tôm vụ đông. Mái che có tác dụng giữ được nhiệt bên trong ao, vào mùa đông nhiệt độ bên ngoài trời và bên trong ao sẽ chênh lệch từ 10-12 độ C, đảm bảo tôm thích nghi. Qua hơn 3 năm sản xuất cho thấy đây là mô hình phù hợp và cho hiệu quả kinh tế rất cao.
Tôm thành phẩm đảm bảo chất lượng và có năng suất tương đương 2 vụ chính, ước tính mỗi ha đạt từ 22 -24 tấn/vụ. Trong khi giá bán ra cao hơn từ 1,5 -2 lần so với tôm chính vụ. Sau khi trừ chi phí, nuôi tôm vụ đông cho thu nhập đạt trên 1,5 tỷ đồng/ha/vụ. Toàn bộ diện tích tôm vụ đông năm nay của Công ty đang phát triển tốt và dự kiến sẽ xuất bán đúng dịp Tết Nguyên đán Canh Tý.

Cũng nuôi tôm vụ đông nhưng hộ anh Trần Văn Cường xóm 1, xã Kim Hải sử dụng công nghệ nhà bạt che phủ trên diện tích 3.600 m2. Trong khi phần lớn các hộ nuôi tôm quảng canh đang cải tạo, vệ sinh ao đầm cho vụ nuôi đầu tiên của năm 2020 thì đầm tôm vụ đông của anh đã có tôm thu hoạch. Quăng một mẻ lưới nhỏ với vài chục con tôm to tầm ngón tay cái, anh Cường phấn khởi chia sẻ: “Tôm này đạt trọng lượng 30 con/kg và đã có thương lái vào trả trên 300 nghìn đồng/kg.

Hiện nay thị trường tôm rất khan hiếm, đặc biệt là dịp Tết Nguyên đán sắp tới nhu cầu tăng cao, giá có thể tăng, do vậy hộ nuôi nào giữ được, không để dịch bệnh xảy ra sẽ có lãi lớn”. Cũng theo anh Cường, giải pháp cho nuôi tôm vụ đông là xây dựng các ao nuôi có nhà bạt che phủ, lót bạt dưới đáy ao và có hệ thống quạt, oxy để kiểm soát nhiệt độ, đảm bảo nhiệt độ bên trong và ngoài ao luôn chênh lệch từ 7 – 12 độ C, giúp tôm sinh trưởng tốt.

Ngoài việc làm nhà bạt, thì người nuôi còn phải lưu ý quản lý hiệu quả môi trường nuôi, xử lý tốt nguồn nước đầu vào và tìm nguồn con giống có uy tín. Hiệu quả kinh tế đem lại của nuôi tôm vụ đông tăng gấp đôi, gấp ba so với sản xuất chính vụ. Do vậy ngày càng có nhiều hộ nuôi trong vùng mạnh dạn áp dụng công nghệ mới vào sản xuất.

Nghề nuôi trồng thủy sản ở vùng ven biển huyện Kim Sơn đã trở thành một trong những nghề chính mang lại thu nhập cao, ổn định cho người dân các xã bãi bồi. Tuy nhiên, hầu như các hộ nuôi chỉ sản xuất 2 vụ chính do các đối tượng nuôi không chịu được nhiệt độ thấp.

Xuất phát từ nhu cầu của thị trường trong mùa đông, nhiều hộ nuôi trên địa bàn huyện Kim Sơn đã mạnh dạn phát triển thêm 1 vụ sản xuất trong năm là nuôi tôm thẻ vụ đông trong nhà bạt. Ước tính trên địa bàn huyện có 150 -170 ha nuôi tôm công nghiệp, trong đó có trên 20 mô hình nuôi tôm vụ đông trong ao nổi, đáy lót bạt, mái che bạt với tổng diện tích ước hơn 18ha.

Các mô hình hiện đang phát huy hiệu quả rất tốt, sản lượng tương đương nhưng thu nhập cao gấp 2 lần so với sản xuất tôm vụ chính. áp dụng công nghệ nuôi tôm vụ đông đã giúp người nuôi tăng hiệu quả trên đơn vị diện tích canh tác, đáp ứng nhu cầu tăng cao của người tiêu dùng và sẽ là hướng phát triển chính trong thời gian tới tại vùng bãi bồi của huyện Kim Sơn.

Bài, ảnh: Giáng Hương
Nguồn :http://baoninhbinh.org.vn/

Nuôi tôm thời công nghệ số

Vượt qua những sóng gió thị trường song hành cùng dịch bệnh tôm đe dọa, người nuôi tôm ở ĐBSCL dần tìm ra cách xoay xở “tiến – thoái” hiệu quả.

Trong các biện pháp, dấu ấn ứng dụng công nghệ số hóa thành điểm sáng ảo diệu mở ra con đường ngắn nhất đi tới thành công.

Giải pháp công nghệ mới

Rynan Mekong – Smart Agriculture Network mở App Store cài đặt Smart phone, đăng nhập, ứng dụng. Dân nuôi tôm hay làm ruộng vườn có thể cập nhật qua màn hình điện thoại thông minh trong lòng bàn tay. Các Icon hiển thị về quan trắc nước, quản lý thiết bị, quản lý nước canh tác, giám sát sâu rầy, bảng màu lá lúa, thương mại điện tử, giá cả thị trường…

Tôi thử chạm vào Icon mạng lưới quan trắc xem chi tiết tại một trạm quan trắc. Tại điểm Vàm Trà Vinh, vào lúc giờ – ngày – tháng – năm: Độ mặn bao nhiêu g/L, pH, mực nước, độ kiềm hay thời tiết trong ngày đều hiện rõ các chỉ số.

Một ngày cuối năm 2019, TS Nguyễn Thanh Mỹ, Tổng Giám đốc Công ty CP RYNAN Smart Fertilizers (Trà Vinh) – một Việt kiều Canada nổi tiếng sở hữu 200 bằng sáng chế, về trường Đại học Cần Thơ tham dự hội nghị khoa học “Quản lý đất và Sử dụng phân bón hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp”.

16-48-54_ts_nguyen_thnh_my_phi_-_td_myln_group_chuyen_gio_pho_qun_trc_o_tinh_tr_vinh_-_nh_ct
TS Nguyễn Thanh Mỹ (phải) – Mylan Group chuyển giao phao quan trắc ở tỉnh Trà Vinh. Ảnh: CT.

Ông trình bày Ứng dụng phân bón thông minh trong canh tác nông nghiệp như mối quan tâm nhiệt thành mà ông bày tỏ khi trở về quê hương mình. Quan sát về hệ thống canh tác nông nghiệp, TS Mỹ hướng góc nhìn mới, thông qua giải pháp công nghệ ứng dụng để không chỉ giúp nông dân Trà Vinh quê ông, nông dân nội vùng ĐBSCL mà ước muốn mở rộng phạm vi địa lý rộng lớn với nhiều lĩnh vực đa ngành.

Gặp tôi, ông cười tươi kể lại ứng dụng Rynan Technologies chứng minh thành công nhất là được ngày càng nhiều nông dân dễ dàng cập nhật, ứng dụng.

Sau khi công ty của ông trao tặng, lắp đặt 2 phao quan trắc đầu tiên đặt trên sông thử nghiệm ở Trà Vinh đã góp phần giúp chính quyền địa phương và người dân nuôi tôm hay canh tác lúa, bảo vệ vườn cây trong mùa hạn – mặn gay gắt. Số lượng phao quan trắc đặt hàng và chuyển giao về các địa phương vùng ven biển.

Riêng tỉnh Trà Vinh – nơi “đại bản doanh” của Tập đoàn Mylan Group của TS Mỹ, được bố trí lắp đặt mạng lưới phao quan trắc tăng lên gần 20 phao để đáp ứng yêu cầu sản xuất và sinh hoạt cho người dân địa phương.

Nhớ ngày đầu “trình làng” Rynan Technologies – giải pháp mới “Ứng dụng công nghệ 4.0” sáng tạo của TS Nguyễn Thanh Mỹ được các nhà chuyên môn đánh giá là một trong các sản phẩm công nghệ rất cao.

Rynan Technologies tạo ra từ ứng dụng trên smartphone kết nối trực tiếp với phao quan trắc đặt dưới sông để cho bà con nông dân ở vùng cửa sông bị xâm nhập mặn theo dõi các chỉ số độ mặn, độ oxy hòa tan, nhiệt độ, độ pH…, thông tin được gửi lên hệ thống đám mây và báo kết quả cho nông dân có thể biết được khi nào độ mặn giảm đúng theo chỉ số yêu cầu để bơm nước vào ao nuôi tôm hay độ mặn giảm hơn dưới mức cho phép để bơm lấy nước ngọt bơm tưới cho cây trồng.

Những điểm sáng

Trong những năm gần đây một số trại tôm ở Sóc Trăng, Bạc Liêu tiên phong tự lực đầu tư phòng nghiên cứu bệnh tôm, phòng Lab phân tích bệnh học, phân tích, giám sát các chỉ số nước, áp dụng qui trình kỹ thuật ghi chép sổ tay quản lý tôm giống, nước cấp – ao nuôi – ao lắng lọc và xử lý nước thải.

Hệ thống dữ liệu máy tính cập nhật các chương trình quản lý thức ăn và chăm sóc, quản lý dịch bệnh đến an toàn sinh học, quy trình ngăn ngừa nhiễm bệnh và chương trình thu hoạch, quản lý sau thu hoạch… Nhờ đó kết quả thu hoạch các vụ tôm gần đây đạt cao hơn, đồng thời tỷ lệ rủi ro do dịch bệnh giảm đến mức thấp nhất.

Ba năm nay, người dân Sóc Trăng trúng mùa tôm liên tiếp nhờ ứng dụng nhiều biện pháp kỹ thuật. Một trong những điểm tạo dấu ấn chính là an toàn sinh học áp dụng triệt để trong hệ thống ao nuôi. Nghề nuôi tôm hiện còn mang tính rủi ro rất cao trước những bất lợi về thời tiết, dịch bệnh tôm diễn biến phức tạp. Khó khăn nhất là nuôi tôm vụ 2 thường gặp thời tiết bất lợi do mùa mưa.

Tuy nhiên, các trại nuôi tôm đã chủ động ứng phó bằng cách sử dụng vi sinh để làm sạch đáy ao. Đây là cách phòng bệnh tốt vì đáy ao luôn sạch, tiết kiệm được năng lượng, tăng ô xy hòa tan, tăng khả năng tiêu hóa cho tôm, đồng thời đảm bảo cấp đủ nguồn nước sạch để thay nước ao nuôi.

Trên thực tế từ những năm qua công nghệ nuôi tôm 4.0 của Tập đoàn Việt Úc đang trở thành điểm sáng. Hội đủ các điều kiện về tiềm lực vốn và chủ động hai yếu tố “sạch” tiên quyết – Là nhà sản xuất tôm giống sạch hàng đầu cùng với giải pháp kiểm soát nguồn nước tốt nhất. Việt Úc tâm huyết ứng dụng CNC vào sản xuất, thiết lập chuỗi giá trị nuôi tôm, với tham vọng nâng cao giá trị và xây dựng thương hiệu cho con tôm Việt Nam.

Tập đoàn Việt Úc đầu tư khu phức hợp nuôi tôm CNC ở Bạc Liêu. Ảnh: .

Tại thủ phủ tôm Bạc Liêu, Việt Úc là công ty đầu tiên đầu tư khu nuôi tôm trong nhà màng (nhà kính) với quy mô lớn khoảng 315ha. Mỗi nhà màng rộng 1ha, bao trùm bởi khung nhà kính không gian nhịp lớn và chứa trong đó 10 ao nuôi tôm. Chính giải pháp kỹ thuật nhà màng đóng vai trò quan trọng giúp kiểm soát môi trường ổn định và an toàn về mặt sinh học. Tôm nuôi không bị sốc nhiệt đồng thời ngăn ngừa các dịch bệnh.

Bên cạnh đó một hệ thống ao lắng lọc, siêu lọc nước bảo đảm nguồn cấp nước sạch vừa đủ nuôi tôm không hao phí. Hơn nữa Việt Úc còn đầu tư hệ thống tự động cho tôm ăn với các cảm biến, máy tính theo dõi biết mỗi khi tôm đói sẽ tự động đưa lượng thức ăn hợp lý, ưu điểm không tốn phí thức ăn thừa.

Việt Úc tự tin đầu tư khu phức hợp nuôi tôm đạt chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, bắt đầu từ nền tảng căn bản con tôm bố mẹ tạo ra tôm giống sạch. Mỗi nhà màng giá trị đầu tư 7 tỷ đồng kỳ vọng thành công nuôi tôm công nghệ cao đạt tỷ lệ 80 – 100%. Theo mô hình này có thể thả nuôi tôm mật độ khá dày, chỉ 3 tháng là có thể thu hoạch và một năm nuôi được 3 vụ, với năng suất đạt từ 150-200 tấn/ha.

Tập đoàn Việt Úc đang dự trù kế hoạch triển khai mô hình nuôi tôm CNC tại các tỉnh Bình Định và Quảng Ninh, với mục tiêu hướng tới hình thành một vùng nuôi tôm rộng lớn được kiểm soát chất lượng chặt chẽ, tạo ra sản phẩm tôm tốt nhất của Việt Nam.

HỮU ĐỨC  https://nongnghiep.vn

Chia sẻ thông tin trong trang trại nuôi tôm

Ralf Onken, người đứng đầu bộ phận phát triển phần mềm tại FAI, giải thích cách làm việc với các nhà sản xuất tôm Thái Lan để quản lý hiệu suất và các chỉ số bền vững có thể cải thiện tính minh bạch và trách nhiệm trong ngành nuôi tôm.
Chia sẻ thông tin trong trang trại nuôi tôm

Ảnh minh họa

Bạn có thể giải thích công việc của bạn trong ngành nuôi tôm châu Á?

Tôi hiện đang làm việc với các nhà sản xuất tôm ở vùng Chumpon, Surathani và Rayong ở Thái Lan để tư vấn về quản lý và các công cụ để giảm tác động tiềm năng của dịch bệnh, thông qua việc thiết lập các hệ thống cảnh báo sớm.

Cơ sở dữ liệu mà chúng tôi đã xây dựng – ứng dụng myshaleigh.farm – đối chiếu thông tin từ nhiều nguồn và xây dựng giao diện người dùng liên quan để nhập dữ liệu và sử dụng dữ liệu/cung cấp tư vấn cho phép người nuôi tôm và người quản lý ngành giảm thiểu dịch bệnh tại các trang trại riêng lẻ và tại khu vực thông qua công tác quản lý trang trại được cải thiện và hành động phối hợp.

Trong chương trình chẩn đoán tôm di động đang vận hành ở Thái Lan, giờ đây chúng tôi đã tăng cường sự tham gia của người nuôi tôm. Việc sử dụng hiệu quả các công cụ phù hợp trong việc phân tích mẫu và dữ liệu giúp giảm thời gian cần thiết để đưa ra các quyết định quan trọng. Các công cụ này thân thiện với người dùng và đơn giản về đầu vào nhưng hiệu quả về đầu ra.

Đưa các công cụ phù hợp vào tay người nuôi tôm sẽ giúp họ kiểm soát tốt nhất tôm nuôi. Việc sử dụng phù hợp các công cụ phân tích di động hiện nay sẽ giúp tất cả chúng ta đạt được chiến lược và hiệu quả cần thiết trong quản lý và sản xuất trang trại.

Những lợi ích chính của việc sử dụng các công cụ dữ liệu là gì?

Tôi tin rằng các công cụ dữ liệu có thể phục vụ hai mục tiêu liên quan: tăng tính minh bạch và niềm tin trong chuỗi thức ăn và giúp các nhà sản xuất thúc đẩy cải tiến trang trại của họ.

Các nhà sản xuất thường sử dụng các bảng dữ liệu thủ công để ghi lại thông tin cho trang trại của họ theo quốc gia và khu vực. Điều này có nghĩa là thông tin thường không được lưu trữ trong một khu vực duy nhất để dữ liệu có thể được phân tích và đưa vào sử dụng dễ dàng. Đây là cơ hội lớn để chúng tôi giúp chuẩn hóa, ghi lại, phân tích và chia sẻ dữ liệu theo cách vừa thúc đẩy hành động dựa trên thông tin tốt, tạo ra thực hành tốt nhất và tạo sự minh bạch và tin cậy giữa các tác nhân khác nhau trong chuỗi thức ăn.

Tôi nghĩ rằng dữ liệu cung cấp một nền tảng cho suy nghĩ chủ động hơn. Bằng cách giới thiệu các công cụ quản lý dữ liệu cho một hệ thống sản xuất thực phẩm, chúng tôi loại bỏ sự phỏng đoán ra khỏi quá trình nuôi tôm, việc nuôi tôm trở nên dễ dự báo hơn theo thời gian và người nuôi tôm có thể theo dõi dữ liệu của họ trong thời gian thực và hành động nhanh chóng.

Làm thế nào có thể thúc đẩy việc tiêu chuẩn hóa và chia sẻ dữ liệu?

Nó thường đòi hỏi một sự thay đổi văn hóa để đào tạo mọi người thu thập dữ liệu và xem những lợi ích mà nó mang lại trong việc cải thiện sản xuất.

Một ví dụ thực tế về điều này là việc sử dụng sàng lọc các bệnh cụ thể. Trong ngành tôm, chúng tôi đang làm việc với các nhà sản xuất bằng cách sử dụng các công cụ chẩn đoán di động để xác định bệnh. Thông tin này, cùng với dữ liệu môi trường và sản xuất – về các yếu tố như nhiệt độ, độ mặn, oxy hòa tan, tỷ lệ chết, thông tin thức ăn và tăng trưởng – giúp xây dựng một bức tranh về các yếu tố có thể dẫn đến sự bùng phát bệnh cụ thể.

Trong một số hệ thống sản xuất thực phẩm, điều trị dự phòng kháng sinh thường là thông lệ. Điều này có nghĩa là thuốc được sử dụng trước khi có dịch bệnh. Điều này có thể làm tăng nguy cơ kháng kháng sinh đang ngày càng phổ biến. Thông qua việc ghi lại và sử dụng dữ liệu sàng lọc tốt hơn, các nhà sản xuất có thể bắt đầu dự đoán và ngăn ngừa dịch bệnh, và do đó giảm sử dụng kháng sinh dự phòng.

Người tiêu dùng, người nuôi tôm và các nhà bán lẻ đang đòi hỏi các hệ thống minh bạch hơn và chúng tôi làm việc với các nhà bán lẻ có tầm nhìn, những người sẽ thúc đẩy các hoạt động tốt nhất và sẽ có tác động tích cực thực sự đến ngành.

Mục tiêu dài hạn của bạn trong ngành nuôi tôm là gì?

Có hai điều tôi mong muốn và cả hai đều tập trung vào tính minh bạch. Đầu tiên, đối thoại cởi mở với người nuôi tôm về tất cả các chủ đề đầy thách thức của việc nuôi tôm như dịch bệnh, phúc lợi, các biện pháp điều trị bệnh ở tôm và thuốc kháng sinh. Thứ hai, khuyến khích chia sẻ thông tin về chuỗi giá trị trong toàn bộ chuỗi cung ứng – từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Hiện tại, người tiêu dùng chưa biết sản phẩm của họ đến từ đâu và người nuôi tôm chưa biết sản phẩm của họ được tiêu thụ ở đâu. Bằng cách kết nối hai đầu của chuỗi cung ứng thông qua luồng dữ liệu và thông tin tốt hơn, chúng tôi có thể cho phép sự minh bạch hoàn toàn về mặt nhu cầu của người tiêu dùng và sản xuất phù hợp và công bằng cho người nuôi tôm.

Điều này sẽ cho phép bạn thấy những tác động của người nuôi tôm đối với toàn bộ chuỗi giá trị. Ví dụ, sử dụng kháng sinh là một vấn đề quan trọng đối với người tiêu dùng. Quản lý dữ liệu tốt hơn cho phép tính minh bạch cao hơn, điều này cho phép người tiêu dùng đưa ra quyết định mua hàng sáng suốt hơn: đó là đôi bên cùng có lợi. Công nghệ có thể giúp người nuôi tôm gần gũi hơn với người tiêu dùng cuối cùng và ngược lại.

HNN (Theo Thefishsite)

Sử dụng đất hiếm trong NTTS

Đất hiếm thường được biết đến với các ứng dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp, điện tử và đã được nghiên cứu ứng dụng trong nông nghiệp từ rất sớm. Trong NTTS, sử dụng đất hiếm bước đầu đã có kết quả giúp việc quản lý môi trường, dịch bệnh và dinh dưỡng tốt hơn cho vật nuôi.

Đất hiếm là một nhóm 17 loại vật chất có từ tính và tính điện hóa đặc biệt. Chúng bao gồm các chất như gadolinium, lanthanum, cerium và promethium, có vai trò thiết yếu trong sản xuất thuốc điều trị ung thư, điện thoại thông minh và các công nghệ năng lượng tái tạo.

Trung Quốc đã sớm nghiên cứu ứng dụng đất hiếm trong NTTS, bao gồm cá và tôm. Cung cấp các hợp chất đất hiếm khác nhau: các axit amin đất hiếm (50% đất hiếm methionine và lysine tương ứng), đất hiếm Vitamin C, citrate đất hiếm, gluco đất hiếm và acid gluconic đất hiếm để nuôi cá chép trong 60 ngày, tăng trọng lượng cơ thể > 20% trong tất cả các nhóm thử nghiệm so đối chứng. Kết quả tốt nhất nhận được trong thực nghiệm cho cá ăn axit amin đất hiếm, có thể làm tăng trọng lượng cơ thể 28,9%. Đối với đất hiếm Vitamin C và các hợp chất citrate, tăng trọng lượng cơ thể tăng tương ứng là 27,2% và 24,1%, trong khi đó glutamate đất hiếm và acid gluconic tăng 23,0% và 20,1%. Hơn nữa, bổ sung đất hiếm cũng có khả năng tăng hiệu quả sinh sản nhân tạo cá chép, cá trắm cỏ, cá hồi vân và cả trên tôm.

Ở Việt Nam, những năm gần đây, ứng dụng đất hiếm đã được nghiên cứu trên tôm nuôi. Thực nghiệm của các nhà khoa học tại cơ sở nuôi tôm ở Hà Tĩnh đối chứng ao nuôi sử dụng đất hiếm và các ao không sử dụng đất hiếm với cùng mô hình thả nuôi và chế độ dinh dưỡng cho thấy sự khác biệt của ao nuôi sử dụng đất hiếm là: pH nước ổn định, tạo màu nước tốt, hạn chế sự phát triển của tảo độc, tạo điều kiện cho các tảo có lợi phát triển. Môi trường nuôi sạch, ít khí độc, từ đó, chi phí sử dụng hóa chất dùng cho xử lý nước thấp hơn. Ao nuôi không phải thay nước nhiều giúp tiết kiệm tài nguyên nước, giảm nguy cơ phát tán bệnh ra môi trường và giảm nguy cơ nhiễm bệnh từ môi trường bên ngoài, tiết kiệm chi phí năng lượng, chi phí hao mòn máy móc thiết bị (do không phải bơm thay nước nhiều). Trong ao nuôi sử dụng đất hiếm, tôm khỏe, có sức đề kháng tốt, ít bị bệnh, hạn chế dùng kháng sinh và giảm chi phí thức ăn do tăng khả năng chuyển hóa thức ăn.

Do điều kiện tự nhiên trong năm 2015 không thuận lợi, không quản lý tốt nguồn nước, nguồn dịch bệnh… nên hầu hết các vùng nuôi tôm đều bị mất mùa, đặc biệt là vùng nuôi tôm ven biển Hà Tĩnh (cả 5 ao đối chứng của Công ty Dịch vụ Thủy sản Thạch Hà đều bị mất trắng, không cho thu hoạch). Trong khi đó, chỉ có duy nhất ao nghiên cứu có sử dụng các chế phẩm đất hiếm là có thu hoạch. Đây là một minh chứng rất rõ cho tính ưu việt của việc sử dụng các chế phẩm đất hiếm trong quản lý, xử lý nước hồ nuôi tôm.

Việc phân tích dư lượng đất hiếm trong sản phẩm tôm cho thấy dư lượng đất hiếm trong mẫu khảo nghiệm không khác so với đối chứng. Sản phẩm tôm của mô hình khảo nghiệm và đối chứng được phân tích tại Trung tâm Phân tích Viện Công nghệ xạ hiếm. Ngoài các thực nghiệm ở Hà Tĩnh, các thực nghiệm ở các địa phương khác cũng cho kết quả tương tự.

Triển vọng mở rộng các ứng dụng của đất hiếm để tạo ra các giải pháp NTTS bền vững là rất rõ ràng. Tuy nhiên, còn những vấn đề cần phải giải quyết như: Thành phần và hàm lượng tối ưu của các nguyên tố đất hiếm đối với những vấn đề cần giải quyết trong NTTS, chi phí sử dụng chế phẩm đất hiếm trong giá thành sản xuất thủy sản, tính tiện dụng và an toàn của mỗi chế phẩm… Ngoài sự tham gia của các doanh nghiệp, cần sự tham gia của các cơ quan sự nghiệp công ích nhằm xác định tính hiệu quả và an toàn của giải pháp công nghệ này trước khi ứng dụng rộng rãi trong sản xuất.

H.N (Thủy sản Việt Nam)

Tôm càng xanh – Tiềm năng và khó khăn

Lúa tôm
Mô hình trồng lúa kết hợp nuôi tôm càng xanh được nhiều nông dân huyện Mỹ Xuyên thực hiện mang lại hiệu quả cao.

Không quá khó như con tôm sú, cũng không đòi hỏi quá cao như con tôm thẻ, con tôm càng xanh có thể sống khỏe ở cả vùng ngọt và vùng lợ. Chẳng những vậy, tôm càng xanh còn có thể nuôi luân canh, xen canh với cây lúa hoặc nuôi chuyên canh đều cho kết quả tốt. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, con tôm càng xanh vẫn chưa thể phát triển mạnh như con tôm sú hay tôm thẻ ngay trên vựa tôm đồng bằng sông Cửu Long.

Sau thời gian bị khai thác quá mức cùng với đó là sự bùng nổ của nghề trồng lúa khiến sản lượng tôm càng xanh tự nhiên ngày một ít đi và cũng như một số đối tượng thủy sản có giá trị khác, con tôm càng xanh bắt đầu được đưa vào nuôi trồng và phát triển dần cho đến ngày nay. Từ việc chỉ nuôi quảng canh trên ruộng lúa là chính, con tôm càng xanh bắt đầu được nuôi theo hình thức quảng canh cải tiến với nguồn con giống toàn đực.

Dẫn chứng cho tính hiệu quả của mô hình nuôi tôm càng xanh toàn đực, ông Võ Văn Hoa, ở xã Thạnh Quới (Mỹ Xuyên), một trong những hộ tiên phong trong mô hình nuôi tôm càng xanh cho rằng, tuy lợi nhuận từ con tôm càng xanh không bằng tôm sú hay tôm thẻ, nhưng ít rủi ro và giúp mình luôn nói không với thuốc bảo vệ thực vật hóa học. Cũng nhờ vậy mà khi chuyển sang làm lúa hữu cơ ngay vụ đầu tiên đã đạt được chứng nhận quốc tế.

Không nói đâu xa, ở vụ tôm càng xanh xen canh trên ruộng lúa năm 2018, hầu hết người nuôi tôm càng xanh ở các tỉnh: Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang đều có được niềm vui trúng mùa, trúng giá, khi có thời điểm giá tôm càng xanh loại I lên đến 230.000 đồng/kg. Theo các hộ nuôi, dù năng suất tôm càng xanh chưa cao, nhưng con tôm càng xanh là một trong những đối tượng nuôi có hiệu quả cao khi được nuôi xen canh với cây lúa giúp tăng thêm lợi nhuận cho nông dân so với chỉ đơn thuần trồng lúa.

Theo ước tính, nếu thả nuôi tôm càng xanh toàn đực trên diện tích 1ha, người nuôi có thể thu lợi nhuận trên 100 triệu đồng sau mỗi vụ nuôi. Đây cũng được xem là đối tượng nuôi có nhiều triển vọng cho đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Sóc Trăng nói riêng trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt vì con tôm càng xanh có thể sống và phát triển tốt ở nhiệt độ từ 24 – 34oC và độ mặn từ 0 – 15 phần ngàn. Thậm chí, các kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II và Khoa Thủy sản Trường Đại học Cần Thơ còn cho thấy, ở độ mặn 5, 10, 15 phần ngàn, tôm càng xanh phát triển tốt hơn và có chất lượng ngon hơn so với ở độ mặn 0 phần ngàn.

Với tính hiệu quả và điều kiện nuôi thuận lợi, nhưng việc phát triển nghề nuôi tôm càng xanh ở đồng bằng sông Cửu Long đến nay được đánh giá là chưa tương xứng với tiềm năng. Một trong những trở ngại lớn nhất cho sự phát triển của các mô hình nuôi tôm càng xanh đó là: thiếu hụt nguồn giống tôm toàn đực có chất lượng cao, thời gian nuôi kéo dài, mật độ thả nuôi thấp (dẫn đến năng suất, sản lượng không cao) và đặc biệt là thị trường tiêu thụ chủ yếu là nội địa nên giá bán thường bấp bênh. Chính từ những rào cản trên, nên diện tích, sản lượng tôm càng xanh ở đồng bằng sông Cửu Long đến nay vẫn còn thấp so với một số đối tượng nuôi khác, dù điều kiện nuôi là khá thuận lợi.

Do phần lớn các hình thức nuôi tôm càng xanh chủ yếu là nuôi xen canh theo mô hình tôm – lúa, mật độ thả nuôi chỉ từ 1 – 2 con/m2, nên năng suất bình quân chỉ từ 200 – 500kg/ha, chỉ một số ít diện tích nuôi quảng canh cải tiến bằng con giống toàn đực cho năng suất từ 800 – 1.000kg/ha. Mặt khác, do năng suất còn thấp, quy mô nuôi nhỏ lẻ, rải rác, nên sản lượng tôm càng xanh chưa nhiều, khiến việc tiêu thụ từng lúc, từng nơi vẫn còn khó khăn, giá cả bấp bênh. Một trở ngại khác là nguồn cung con giống toàn đực đảm bảo chất lượng hiện vẫn chưa nhiều khiến cho việc mở rộng diện tích, quy mô thả nuôi gặp khó. Chính vì những hạn chế trên, nên dù tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư là khá cao và ít rủi ro, nghề nuôi tôm càng xanh vẫn chưa đủ sức hấp dẫn nông dân tham gia.

Theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông quốc gia, tiềm năng phát triển nuôi tôm càng xanh của Việt Nam rất lớn, tập trung chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long như: Bến Tre, Đồng Tháp, Trà Vinh, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng… Năm 2018, diện tích nuôi tôm càng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm khoảng 3,24% tổng diện tích nuôi trồng thủy sản toàn vùng và theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông nông quốc gia, diện tích nuôi tôm càng xanh có thể tăng lên gấp 3 lần trong thời gian tới nhờ các lợi thế: tính thích nghi cao, ít dịch bệnh, chi phí đầu tư thấp, kỹ thuật không quá khó và mang lại hiệu quả cao gấp 3 – 5 lần so với chỉ độc canh cây lúa.

Một trong những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để phát triển nuôi tôm càng xanh được đề ra trong kế hoạch hành động quốc gia phát triển ngành tôm Việt Nam đến năm 2025 là rà soát quy hoạch và đầu tư cải thiện hạ tầng vùng nuôi tập trung tại đồng bằng sông Cửu Long, sản xuất giống đảm bảo chất lượng và số lượng (2 – 3 tỉ con giống năm 2025). Mặt khác, để mô hình nuôi tôm càng xanh mang lại hiệu quả cao hơn cần tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác, liên kết chuỗi sản xuất.

Tích Chu Sóc Trăng