Bạn tìm thông tin gì?

Blog

Kiểm soát khí độc ao tôm

Ảnh hưởng         

Trong nuôi tôm nói chung, đặc biệt tôm thẻ chân trắng thâm canh mật độ cao, các loại khí độc trong ao luôn đe dọa quá trình sinh trưởng cũng như phát triển của tômQuá trình nuôi, ao xuất hiện một số khí độc làm ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm nuôi như NH3, NO2 và H2S. Trong quá trình phát triển, tôm chỉ có thể tiêu thụ được khoảng 20 – 30% lượng thức ăn, phần còn lại sẽ rớt đáy và tích lũy ở lớp bùn đáy tạo nên lượng ô nhiễm cực kỳ lớn. Quá trình chuyển hóa đạm diễn ra qua nhiều bước, do nhiều nhóm vi sinh vật tham gia nhưng quá trình hình thành khí độc NH3 nhanh hơn tốc độ chuyển hóa NH3 thành các chất không độc, dẫn đến sự tích lũy NH3 kéo theo NO2 ngày càng tăng. H2S sinh ra do sự tích lũy hợp chất hữu cơ trong quá trình nuôi ở các ao đất. Các chất thải được máy quạt nước gom tụ vào giữa đáy ao (đối với ao đáy bùn đất thì một lượng chất thải vẫn còn phân bố xung quanh nền đáy). Các chất thải này phân thành 2 lớp. Lớp ngoài rất mỏng (khoảng 5 mm) được ôxy hoá nên có màu tương đối sáng, có chức năng bao phủ và hạn chế khí độc thoát ra ngoài. Lớp bên dưới có màu đen, chất thải ở điều kiện thiếu ôxy nên vi khuẩn khử lưu huỳnh tạo ra khí độc H2S.

Khí độc rất nguy hại cho tôm nuôi, đặc biệt là H2S với hàm lượng chỉ 0,01 ppm đã có thể giết chết tôm. Độc hơn rất nhiều so với NH3 và NO2. Đặc biệt H2S chưa có công cụ để kiểm tra sự xuất hiện trong ao. Khi tôm bị khí độc ảnh hưởng chúng thường nổi đầu, bơi lờ đờ trên mặt nước, tấp mé, bỏ ăn, nếu không xử lý kịp thời tôm sẽ dễ nhiễm bệnh và chết.

Trong suốt quá trình nuôi, luôn luôn đảm bảo cung cấp đầy đủ ôxy cho ao nuôi

 

Giải pháp

Để hạn chế ảnh hưởng không đáng có, người nuôi phải thường xuyên chú ý đến hoạt động cũng như môi trường chất lượng nước ao nuôi. Vấn đề đầu tiên cần thực hiện là giảm lượng bùn và chất thải hữu cơ trong ao bằng hệ thống xi phông đáy ao từ đó giảm thiểu, giải phóng khí độc trong ao nuôi tôm. Hiện có nhiều hình thức xi phông khác nhau: Máy xi phông di động, máy xi phông đáy ao đặt trên bờ, xi phông nhờ van tự động… Tùy theo mật độ tôm nuôi và lượng chất thải trong ao mà lựa chọn hình thức xi phông cũng như kế hoạch xi phông đáy ao cho phù hợp.

Trong quá trình nuôi, thường xuyên sử dụng các chế phẩm vi sinh (CPVS) xử lý môi trường, được sử dụng để phân hủy các hợp chất hữu cơ như thức ăn thừa, phân tôm, xác chết của tảo và sinh vật trong ao… làm cho đáy ao và chất lượng nước tốt hơn, hạn chế ô nhiễm nước. Các vi khuẩn có trong CPVS sẽ chuyển hóa các khí độc trong nước thành dạng không độc. Chế phẩm vi sinh có nguồn gốc từ vi sinh vật hữu ích, được tạo ra bằng con đường sinh học, rất đa dạng với nhiều tên thương mại khác nhau. Để đạt được hiệu quả tốt nhất, cần lựa chọn sản phẩm phù hợp của các công ty uy tín, chất lượng.

Cùng với sự phát triển của tôm, cần duy trì cũng như phát triển hệ thống thực vật phù du, tạo quần đàn trong môi trường ao nuôi. Một quần thể thực vật nguyên sinh phù hợp với ao nuôi sẽ cung cấp một lượng ôxy đáng kể cho hệ thống thông qua quá trình quang hợp vào thời điểm ban ngày đồng thời nhanh chóng khử nitơ amoniac từ nước làm giảm hàm lượng CO2, NH3, NO2, H2S… Sự nở hoa của thực vật nguyên sinh có thể làm giảm các chất độc vì thực vật nguyên sinh có thể tiêu thụ N-NH3 và liên kết với kim loại nặng.

Vấn đề quan trọng kể đến đó là trong suốt quá trình nuôi, luôn luôn đảm bảo cung cấp đầy đủ ôxy cho ao nuôi. Khí ôxy có thể ôxy hóa trực tiếp các chất độc hại trong nước và dưới đáy ao; giảm hoặc loại bỏ độc tính của nó, ôxy hóa các chất có độc tính mạnh như H2S, NO2 lần lượt biến thành Sulfate, Nitrate…

Nguyễn Hằng

Nguồn :http://contom.vn/

Phòng, chống rét cho thủy sản nuôi: Đôn đốc thực hiện hướng dẫn

Theo dự báo của Trung tâm Khí tượng thủy văn Quốc gia: cuối tháng 12-2019, không khí lạnh hoạt động mạnh dần và tần suất nhiều hơn, có khả năng xuất hiện nhiều đợt không khí lạnh tăng cường, bất lợi cho hoạt động nuôi trồng thủy sản.

Để giảm thiểu thiệt hại cho người nuôi trồng thủy sản (NTTS), người dân các địa phương cần chủ động triển khai các biện pháp phòng, chống rét ở các đối tượng nuôi.

Hộ nuôi lớn tích cực triển khai

Những ngày này, tại các đầm NTTS trên địa bàn thành phố, nhiều hộ sản xuất tập trung cao phòng, chống rét cho thủy sản nuôi. Tại vùng NTTS Lô 6, thôn Xuân Hưng, xã Tiên Hưng (huyện Tiên Lãng), nhiều hộ dân đang tích cực triển khai phòng, chống rét cho tôm thẻ chân trắng. Vừa thả hơn 10 vạn tôm thẻ chân trắng được hơn 1 tháng qua, bà Phạm Thị Kim Luẩn không khỏi lo lắng nếu như thời tiết rét đậm, rét hại kéo dài. Bà cho biết, từ nhiều ngày qua, hằng ngày gia đình chủ động bơm nước vào các ao nuôi bảo đảm độ sâu ổn định từ 1,5-2 m để giữ đủ nước cho tôm sinh trưởng; chuẩn bị sẵn sàng nguồn thức ăn giàu khoáng chất, vitamin bổ sung cho tôm ăn, đồng thời giảm thời gian sử dụng quạt sục nước trong các ao nuôi vào ban đêm. Tương tự, các gia đình ông: Nguyễn Văn Trang, Nguyễn Thế Học, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Bá Bột, Lương Văn Tuân…ở khu vực nuôi tôm liền kề cũng đang tích cực triển khai các biện pháp phòng, chống rét cho tôm.

Hộ sản xuất cần chủ động áp dụng biện pháp bảo đảm phòng, chống rét cho vật nuôi, thủy sản.

Chủ tịch UBND xã Tây Hưng Phạm Hữu Vì thông tin, toàn xã có hơn 400 hộ NTTS. Đến thời điểm này hầu hết hộ nuôi tôm sú và cá cơ bản thu hoạch xong nên việc phòng, chống rét cho thủy sản chủ yếu tập trung ở những hộ nuôi tôm thẻ chân trắng.

Tại các vùng NTTS khác ở quận Dương Kinh, các huyện: Kiến Thụy, Thủy Nguyên, Cát Hải…từ đầu tháng 12-2019 đến nay, người dân các địa phương đang tích cực triển khai các biện pháp phòng, chống rét cho thủy sản nuôi như: che phủ ni-lông, bạt phủ để bảo đảm nhiệt độ trong khu vực nuôi, bảo đảm an toàn cho tôm nuôi.

Theo ông Nguyễn Đức Văn, Giám đốc Hợp tác xã thủy sản Mắt Rồng, xã Lập Lễ, huyện Thủy Nguyên, hợp tác xã có hơn 200 ha nuôi cá trắm đen, cá vược. Việc chống rét cho thủy sản nuôi được các hộ sản xuất chủ động, tập trung cao. Theo đó, các ao nuôi luôn giữ mực nước bảo đảm độ sâu, sạch, hằng ngày cho cá ăn đủ lượng, sử dụng các loại thức ăn đảm bảo chất lượng.

Chủ động làm theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn

Ông Nguyễn Thanh Xuân, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản (Sở Nông nghiệp – Phát triển nông thôn) cho biết, qua kiểm tra, theo dõi của cán bộ chi cục, từ đầu tháng 12 đến nay, nhìn chung các địa phương tích cực hướng dẫn người dân triển khai các biện pháp phòng, chống rét cho thủy sản nuôi. Tuy nhiên, việc phòng, chống rét cho thủy sản vẫn chỉ tập trung nhiều ở những hộ NTTS chuyên nghiệp, quy mô lớn, giá trị kinh tế cao như: nuôi tôm, cá vược. Nhiều hộ nuôi trồng nhỏ lẻ chưa quan tâm thực hiện hướng dẫn của cơ quan chuyên môn.

Thực tế những tháng tiếp theo, thời tiết vẫn diễn biến phức tạp, nhiều khả năng có rét đậm kéo dài. Vì thế, các địa phương cần tập trung tuyên truyền, đôn đốc các hộ NTTS nhỏ lẻ chủ động triển khai thực hiện các biện pháp phòng, chống rét cho thủy sản theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn. Trước mắt, các địa phương đôn đốc hộ nuôi chủ động triển khai ngay các biện pháp đơn giản theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn. Với những ngày mù trời, lặng gió, các hộ cần chú ý sử dụng viên bổ sung ô-xi và tăng cường quạt nước, sục khí để tránh thiếu oxy và hiện tượng phân tầng nước cho cá nuôi. Trong những ngày rét đậm, hạn chế cho cá ăn, không kéo lưới để tránh xây xát gây cho thủy sản và hạn chế các bệnh đốm đỏ, lở loét da do nấm, ký sinh trùng gây ra.

Ngoài tập trung triển khai các biện pháp bảo vệ đàn cá, tôm đang nuôi, Sở Nông nghiệp – Phát triển nông thôn cũng đặc biệt lưu ý những hộ sản xuất giống cá chú trọng chủ động triển khai các biện pháp bảo vệ giữ ấm cho đàn cá bố mẹ và chủ động thời gian sinh sản cá giống bảo đảm an toàn để cung ứng nguồn cá giống cho các hộ vào vụ mới. Trong quá trình nuôi, người dân cần theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết khi thủy sản nuôi có dấu hiệu bất thường hoặc bị chết, cần thông báo ngay cho cơ quan chức năng để có hướng xử lý kịp thời./.

Cơ quan chuyên môn khuyến cáo: Trong quá trình nuôi nên định kỳ 2 lần/tuần bổ sung các chất khoáng, Vitamin tổng hợp từ 4-5g/kg thức ăn để tăng cường sức đề kháng cho thủy sản nuôi. Khi nhiệt độ nước ao nuôi thấp dưới 15°C, ngừng cho thủy sản ăn. Vào thời điểm năng nóng có thể cho ăn bằng thức ăn tinh, thức ăn công nghiệp bảo đảm cá có đủ lượng dinh dưỡng cần thiết. Thả bèo tây trên mặt ao từ 1/2 -2/3 diện tích mặt ao về phía Bắc (bèo được gom vào một góc ao, tránh thả tràn lan che kín hết mặt ao; thả chà, tạo giá để cá trú ẩn tránh rét ở góc phía Bắc của ao nuôi (chà có thể làm bằng cành lá dừa, búi rơm, bao tải, đăng đó)…

Tiến Đạt – Ảnh: Hoàng Phước

Nguồn : https://thanhphohaiphong.gov.vn/

Xã Nga Tân xây dựng vùng nuôi trồng thủy sản an toàn

Thời gian qua, các hộ nuôi trồng thủy sản ở xã Nga Tân, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng theo hướng VietGap, quản lý chặt chẽ về con giống, tình hình dịch bệnh và việc sử dụng các chế phẩm sinh học trong quá trình nuôi, mang lại hiệu quả kinh tế cao.  

 

Trong quá trình nuôi tôm theo hướng VietGap, các hộ nuôi trồng thủy sản theo hướng VietGap ở xã Nga Tân ghi sổ nhật ký, ghi chép rõ ràng lượng thức ăn hàng ngày, chỉ số môi trường nước phù hợp với quá trình sinh trưởng và phát triển của tôm. Với sự giám sát chặt chẽ ngay tại vùng nuôi, nên tỷ lệ tôm sống đạt từ 75 – 80%, cao gấp 1,5 lần so với mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng không theo quy trình VietGap.

Nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình VietGap giảm dịch bệnh, sản phẩm nuôi an toàn vệ sinh thực phẩm, hiệu quả kinh tế cao hơn; Môi trường ao nuôi được duy trì tốt trong quá trình nuôi, lượng hóa chất sử dụng ít và bảo đảm yêu cầu truy xuất nguồn gốc sản phẩm qua nhật ký ghi chép; Hạn chế được việc tác động ảnh hưởng đến môi trường ngoài ao nuôi. Mô hình đã từng bước giúp các hộ nuôi tôm thay đổi cách làm, chuyển hướng sang nuôi thâm canh, tăng thu nhập.

Theo chuyên mục Vàng trong đất ngày 27.12/TTV      

Những điểm sáng nổi bật của ngành NN trong năm “sóng gió”

Đánh giá chung những điểm sáng trong năm 2019, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh, toàn ngành đã nỗ lực duy trì 8 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu (XK)  trên 1,0 tỷ USD; trong đó có 4 mặt hàng trên 3 tỷ USD (gỗ và sản phẩm gỗ; tôm; rau quả; hạt điều). Bộ đã tích cực đàm phán để có thêm các loại quả tươi có giá trị cao XK  sang các thị trường Mỹ, Úc, Nhật Bản, Trung Quốc…; đồng thời, thúc đẩy XK  thịt gà chế biến đi Nhật Bản; XK  lợn sữa vào Malaysia, Hồng Kông (Trung Quốc); XK  mật ong đi EU, Hoa Kỳ.

Năm 2019, ngoài đối mặt với “sóng gió”, thách thức về năng suất, chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh, ngành nông nghiệp còn chịu tác động lớn của nhiều yếu tố dịch bệnh, thị trường, biến đổi khí hậu…

tr6a.jpg

4 mặt hàng xuất khẩu trên 3 tỷ USD (gỗ và sản phẩm gỗ; tôm; rau quả; hạt điều).

Song, toàn ngành đã nỗ lực bám sát thực tiễn, vượt qua khó khăn, tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng và đạt được những kết quả tích cực với nhiều điểm sáng nổi bật.

8 nhóm mặt hàng xuất khẩu “tỷ đô”

Đánh giá chung những điểm sáng trong năm 2019, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh, toàn ngành đã nỗ lực duy trì 8 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu (XK)  trên 1,0 tỷ USD; trong đó có 4 mặt hàng trên 3 tỷ USD (gỗ và sản phẩm gỗ; tôm; rau quả; hạt điều).

Bộ đã tích cực đàm phán để có thêm các loại quả tươi có giá trị cao XK  sang các thị trường Mỹ, Úc, Nhật Bản, Trung Quốc…; đồng thời, thúc đẩy XK  thịt gà chế biến đi Nhật Bản; XK  lợn sữa vào Malaysia, Hồng Kông (Trung Quốc); XK  mật ong đi EU, Hoa Kỳ. Đã xuất lô sữa đầu tiên đi Trung Quốc trong tháng 10/2019, hoàn thành đàm phán với cơ quan có thẩm quyền của Hồng Kông để XK  thịt lợn mảnh đông lạnh, thịt gà chế biến và tổ yến sang Hồng Kông.

Bộ cũng đã chủ động triển khai rà soát, điều chỉnh chiến lược, quy mô và cơ cấu sản xuất phù hợp với lợi thế, nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; xây dựng chuỗi liên kết chặt chẽ giữa người sản xuất với doanh nghiệp (DN) trong chế biến, tiêu thụ sản phẩm.

Đặc biệt, với thị trường lớn nhất, truyền thống là Trung Quốc đã thay đổi nhiều chính sách trong nhập khẩu, ngành đã tập trung tháo gỡ các vướng mắc để thúc đẩy XK  một số mặt hàng như yến sào, sắn, trái cây, thủy sản…; phổ biến tới cộng đồng DN các thông tin, nghiệp vụ về an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật, các quy định kiểm soát xuất nhập khẩu nông sản tại thị trường này.

Đến nay, Trung Quốc đã chấp thuận nhập khẩu 9 loại trái cây, 48 loài thủy sản sống và 128 loại sản phẩm thủy sản sơ chế, chế biến từ Việt Nam. Tiêu biểu là Nghị định thư cho mặt hàng sữa và sản phẩm sữa của Việt Nam đã đưa sữa tươi gia nhập vào thị trường đông dân nhất thế giới này.

Với thủy sản, tin vui nhất là sau hơn 3 năm nỗ lực hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; tuyên truyền, tập huấn cho nông dân; xây dựng hệ thống chế biến bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, Bộ Nông nghiệp Mỹ đã chính thức công bố quyết định công nhận tương đương hệ thống kiểm soát an toàn thực phẩm cá da trơn của Việt Nam XK  sang Mỹ.

Việc Mỹ công nhận tương đương đối với sản phẩm cá tra này đã giúp Việt Nam bổ sung DN đăng ký XK  cá tra vào thị trường này và quan trọng hơn là tạo niềm tin cho nhà nhập khẩu Mỹ yên tâm nhập khẩu sẽ gia tăng sản lượng, giá trị XK  cá tra vào thị trường này thời gian tới.

Riêng lĩnh vực lâm nghiệp, kim ngạch XK năm nay có thể đạt 11,3 tỷ USD, vượt mục tiêu đề ra. Cùng với phát triển thị trường, Hiệp định Đối tác tự nguyện giữa Việt Nam và EU về Thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản (VPA/FLEGT) được ký kết và có hiệu đã gửi một tín hiệu mạnh mẽ về cam kết của Việt Nam không chỉ với EU mà tất cả các thị trường mà Việt Nam đang có thương mại về lâm sản về sự minh bạch, đảm bảo nguồn gốc sản phẩm hợp pháp và hướng đến bền vững.

Năm 2019, mặc dù khó khăn về thị trường, giá hầu hết các mặt hàng nông sản giảm 10 – 15%, nhưng tổng kim ngạch XK  nông – lâm – thủy sản dự kiến đạt 41,3 tỷ USD, tăng khoảng 3,2% so với với năm 2018 (riêng lĩnh vực lâm nghiệp đạt trên 11,2 tỷ USD, tăng 19,2%). Thặng dư thương mại toàn ngành ước đạt mức kỷ lục mới, 10,4 tỷ USD, tăng 19,3% so với năm 2018.

Chú trọng phát triển mô hình theo chuỗi

Nhận ra những khó khăn, thách thức từ thị trường, điều kiện sản xuất, ngành nông nghiệp đã chủ động triển khai rà soát, điều chỉnh chiến lược, quy mô và cơ cấu sản xuất phù hợp với lợi thế, nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Nhiều địa phương đã xây dựng chuỗi liên kết chặt chẽ giữa người sản xuất với các DN trong chế biến, tiêu thụ để nâng cao chất lượng sản phẩm.

tr6b.jpg

Trên địa bàn cả nước đã triển khai xây dựng và phát triển mô hình chuỗi với 1.484 chuỗi (tăng 388 chuỗi so với năm 2018), 2.374 sản phẩm (tăng 948 sản phẩm) và 3.267 địa điểm bán sản phẩm đã kiểm soát theo chuỗi nông sản ATTP theo chuỗi (tăng 93 địa điểm). Đồng thời, Bộ cùng các địa phương, DN đang tiến hành xây dựng các chuỗi liên kết một số sản phẩm chủ lực như: Chuỗi liên kết cá tra ba cấp chất lượng cao vùng ĐBSCL; Chuỗi liên kết ngành hàng lâm sản chủ lực; Chuỗi liên kết ngành hàng lúa gạo của 10.000 hộ trồng lúa ở vùng ĐBSCL.

Năm 2019 đã thành lập mới 6 Liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN), 1.455 HTXNN, nâng tổng số lên 45 Liên hiệp HTXNN, 15.434 HTXNN, trong đó có 72,89% số HTX hoạt động hiệu quả (năm 2018 là 55%), tỷ lệ HTX tham gia dịch vụ tiêu thụ nông sản cho xã viên tăng từ dưới 10% trước đây lên 24,5%.

Cả nước có 36.000 trang trại theo tiêu chí mới, tăng 500 trang trại so với năm 2018; các trang trại ngày càng sử dụng nhiều đất đai, lao động và sản xuất lượng nông sản hàng hóa lớn; tổ chức sản xuất theo chuỗi, hợp tác liên kết quy mô lớn tiếp tục được nhân rộng ở các lĩnh vực và nhiều địa phương.

Xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, DN là đầu tàu

Lực lượng DN nông nghiệp ngày càng lớn mạnh và tâm huyết đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn hơn, đang trở thành nòng cốt trong chuỗi giá trị nông sản.

Năm 2019, số DN NLTS thành lập mới là 2.756 doanh nghiệp, tăng 25,3% so với năm 2018, nâng tổng số DN nông nghiệp lên 12.581 DN, tăng 36,23% (NLTS là một trong những lĩnh vực có số DN quay lại hoạt động cao hơn đáng kể so với lượng tạm ngừng).

Bên cạnh sự đầu tư, phát triển của các DN nhỏ và vừa, một số tập đoàn, DN lớn đã đẩy mạnh đầu tư vào nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao như Vinamilk, Nafoods, TH, Dabaco Việt Nam, Masan, Lavifood, Ba Huân, Biển Đông…

Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp về cơ chế chính sách để khuyến khích, tạo điều kiện thu hút các tổ chức, cá nhân tham gia ứng dụng khoa học công nghệ tạo các sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao ở ba trục sản phẩm, gồm: nhóm sản phẩm chủ lực cấp quốc gia; nhóm sản phẩm chủ lực cấp tỉnh;  nhóm sản phẩm địa phương (OCOP).

Theo đó, ở cấp quốc gia, đến nay đã có 3 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (NNƯDCNC) được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập (Hậu Giang, Phú Yên và Bạc Liêu); 8 Khu đang trong quá trình hoàn thiện đề án. Cấp địa phương, căn cứ các tiêu chí quy định, cả nước đã có 9 vùng NNUDCNC nuôi trồng thủy sản, trồng hoa, lúa, chuối được địa phương công nhận;  124 khu sản xuất NNƯDCNC do DN đầu tư đã được UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập; và 45 DN nông nghiệp được công nhận là DNNNƯDCNC.

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho hay, thời gian tới, ngành nông nghiệp sẽ phát triển các cụm liên kết sản xuất – chế biến – tiêu thụ nông sản tại các địa phương, vùng miền có sản lượng nông sản lớn, thuận lợi giao thông, lao động, logistics, có tiềm năng trở thành cực động lực tăng trưởng cho cả khu vực. Lựa chọn các DN “đầu tàu” có đủ năng lực (vốn, khoa học công nghệ, thị trường) để dẫn dắt chuỗi liên kết vận hành một cách thông suốt, hiệu quả.

Bộ cũng tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi cho đầu tư vào chế biến nông – lâm – thủy sản. Theo đó, ngành nông nghiệp xây dựng Chiến lược phát triển chung về công nghiệp chế biến nông sản và các Đề án phát triển chế biến các ngành hàng có tiềm năng về sản xuất và thị trường tiêu thụ như: rau quả, thủy sản, đồ gỗ,… để định hướng lâu dài cho DN tập trung đầu tư phát triển mạnh những ngành hàng này.

Chương trình Quốc gia về XDNTM đã về đích sớm trước một năm rưỡi. Đến hết năm 2019, cả nước có trên 4.806 xã (54%) đạt chuẩn NTM, bình quân cả nước đạt 15,66 tiêu chí/xã, không còn xã dưới 5 tiêu chí, hoàn thành trước 1,5 năm và vượt mục tiêu 10 năm (2010 – 2020).

Đồng thời, có 63 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và xuất hiện địa phương có xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Có 112/664 đơn vị cấp huyện (16,86%) của 41 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn NTM; 08 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với 100% số xã đạt chuẩn NTM. 94% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh (tăng 2% so với năm 2018, tăng 8% so với năm 2015), vượt mục tiêu đề ra vào năm 2020.

Thanh Tâm – KTNT.

Săn tôm càng xanh mùa nước rút, thu bội tiền

Khi nước rút hết chân ruộng, tôm càng xuống mương, đó là lúc người dân “săn” tôm càng xanh. Trước đây tôm càng xanh sống tự nhiên trong ruộng lúa, ngày nay tôm càng được người dân Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang nuôi trong ruộng lúa. Diện tích tôm càng xanh trong ruộng lúa tại Cà Mau lên đến 16.000ha, Bạc Liêu trên 8.000ha. Nguồn thu từ tôm càng xanh không nhỏ đối với người dân nơi đây.

Lúa vàng đồng, nước rút khô cũng là lúc tôm càng xuống mương (ảnh Nhật Hồ)
Lúa vàng đồng, nước rút khô cũng là lúc tôm càng xuống mương (ảnh Nhật Hồ)
Tôm càng gọi là nuôi trong ruộng lúa, nhưng người dân không cho ăn, sau 4 đến 5 tháng đã có thể thu hoạch (ảnh Nhật Hồ)
Tôm càng nuôi trong ruộng lúa, nhưng người dân không cho ăn, sau 4 đến 5 tháng đã có thể thu hoạch (ảnh Nhật Hồ)
Bắt tôm càng trên ruộng lúa (ảnh Nhật Hồ)
Bắt tôm càng trên ruộng lúa (ảnh Nhật Hồ)
Bắt tôm càng đòi hỏi có nhiều người tham gia (ảnh Nhật Hồ)
Bắt tôm càng đòi hỏi có nhiều người tham gia (ảnh Nhật Hồ)
Bắt tôm càng trong ruộng lúa tại huyện Phước Long, Bạc Liêu (ảnh Nhật Hồ)
Bắt tôm càng trong ruộng lúa tại huyện Phước Long, Bạc Liêu (ảnh Nhật Hồ)
Thu hoạch tôm càng có thêm một nguồn thu nhập đáng kể (ảnh Nhật Hồ)
Thu hoạch tôm càng giúp người dân có thêm một nguồn thu nhập đáng kể (ảnh Nhật Hồ)
Bắt tôm càng mùa nước rút (ảnh Nhật Hồ)
Bắt tôm càng mùa nước rút (ảnh Nhật Hồ)
Tôm càng đầu vụ loại nhất thương lái mua với giá 80.000 đồng/kg (ảnh Nhật Hồ)
Tôm càng đầu vụ loại nhất thương lái mua với giá 80.000 đồng/kg (ảnh Nhật Hồ)
NHẬT HỒ
Nguồn : https://laodong.vn/

Những loại tôm hùm hiếm nhất thế giới

Với tỷ lệ 1:30 triệu cho đến 1:50 triệu, việc bắt được một con tôm hùm màu vàng hay pha lê là điều gần như bất khả thi.

Nhung loai tom hum hiem nhat the gioi hinh anh 1 fwcooks-grilled-lobster-tails-with-pasta-recipe2019_344.jpg

Trước đây, tôm hùm bị xem là “gián biển” và chỉ dành cho dân nghèo, nô lệ hay tù nhân. Tuy nhiên, qua thời gian, loài vật này dần trở thành món ăn chỉ xuất hiện trên những bàn tiệc của giới nhà giàu. Tôm hùm khi được bắt lên từ biển có màu nâu, hơi pha xanh lá và chuyển sang đỏ hồng khi nấu. Đó là loại cơ bản thường thấy. Dù vậy, có những con tôm hùm lại mang những màu kỳ lạ, được liệt vào hàng hiếm, nhiều tiền chưa chắc mua được. Ảnh: Food and Wine

Nhung loai tom hum hiem nhat the gioi hinh anh 2 21026530d168eb16fd45bad06aaa7bdf.jpg

Tháng 5/2016, hai ngư dân Canada bắt được hai con tôm hùm mang màu xanh neon ở vịnh Nova Scotia. Các nghiên cứu chỉ ra chế độ ăn cũng như điều kiện sống có thể ảnh hưởng đến màu của chúng. Số khác mang màu xanh nguyên bản di truyền từ bố mẹ. Tôm hùm xanh được xem là điềm may mắn. Theo các nghiên cứu, bạn cũng phải thực sự may mắn để bắt được một con tôm hùm xanh với tỷ lệ 1:2 triệu. Ảnh: Animals Day.

Nhung loai tom hum hiem nhat the gioi hinh anh 3 181569_00_2x.jpg

Tôm hùm màu đỏ thậm chíhiếm hơn tôm hùm xanh. Khi nấu, những con tômthường sẽ chuyển dần sang màu đỏ hồng. Tuy nhiên, việc bắt được con tôm hùm đỏ tự nhiên rơi vào khoảng 1:10 triệu. Ảnh: YouWorkForThem.

Nhung loai tom hum hiem nhat the gioi hinh anh 4 ODD_Calico_Lobster_ONe.jpg

Nếu tỷ lệ bắt được tôm hùm đỏ là 1:10 triệu, con số này với tôm hùm vàng (tôm hùm calico) là 1:30 triệu. Năm 2014, một con tôm hùm vàng siêu hiếm này được phát hiện đang ngụp lặn trong một bể tôm hùm thường ở siêu thị tại Mỹ. Những người có chuyên môn nhanh chóng nhận ra độ quý giá và thả nó về tự nhiên. Loài tôm hùm nàycó xu hướng thay đổi màu từ vàng nhạt thành vàng cam theo thời gian. Ảnh: TDG.

Nhung loai tom hum hiem nhat the gioi hinh anh 5 NINTCHDBPICT000521029213.jpg

Tôm hùm còn có loại 2 màu, được phân đôi bằng một đường thẳng giữa lưng. Loại tôm này không có màu đặc trưng, có con nửa xanh, nửa vàng. Một số khác lại mang màu đỏ đen. Theo các nhà khoa học, việc tôm hùm mang hai màu là do ảnh hưởng từ gen di truyền. Để bắt gặp một con tôm hùm hai màu, bạn cần rất may mắn khi tỷ lệ chỉ vỏn vẹn 1:50 triệu. Ảnh: The Sun.

Nhung loai tom hum hiem nhat the gioi hinh anh 6 og-rainbow-lobster-screen-shot-2018-06-19-at-10_58_39-am.ngsversion.1529440206388.adapt.1900.1.jpg

Loại tôm hùm hiếm nhất, hơn cả tỷ lệ 1:50 triệu, là con mang màu pha lê hay còn được biết đến với tên “tôm hùm bạch tạng”. Cách đây vài năm, hai ngư dân Anh đã bắt được một con tôm hùm bạch tạng 30 tuổi ở vịnh Dorset. Đây mới là con thứ 3 xuất hiện tại Anh trong 30 năm qua. Thông thường, tôm hùm thường ngụy trang nhờ lớp vỏ màu tối để tránh kẻ thù tấn công. Việc một con tôm màu pha lê nổi bật sống sót 30 năm là điều phi thường. Ảnh: NatGeo.

Theo Zing

Trình diễn kỹ thuật sản xuất bột đạm tôm xuất khẩu

Ngày 27/12 tại Công ty cổ phần Việt Nam Food (Khu công nghiệp Hòa Trung, xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau) sau khi được Sở Công thương Cà Mau phê duyệt, Trung tâm Khuyến công tỉnh Cà Mau tổ chức hội nghị giới thiệu mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất bột đạm tôm xuất khẩu.

Quy trình sản xuất bột đạm với cách làm là tận dụng các nguyên liệu bỏ đi từ dịch tôm thủy phân sau khi thực hiện công đoạn cô đặc còn nhiều tạp chất như vỏ, râu, rác…bằng những kỹ thuật tiên tiến, máy móc hiện đại để sản xuất bột đạm tôm dạng khô, đóng gói xuất khẩu. Vừa tận dụng được nguồn nguyên liệu bỏ đi vừa góp phần bảo vệ môi trường.

Tham quan quy trình sản xuất bột đạm tôm của Công ty cổ phần Việt Nam Food

Đề án này với tổng kinh phí gần 10 tỷ đồng, trong đó Trung tâm Khuyến công hỗ trợ doanh nghiệp 500 triệu đồng đầu tư máy móc thiết bị. Thiết bị công nghệ được đầu tư tiên tiến, hiện đại, đảm bảo yêu cầu quy trình sản xuất bột đạm tôm, đảm bảo vệ sinh môi trường. Với quy mô công suất 624 tấn sản phẩm/năm, tổng doanh thu thuần dự kiến 53 tỷ đồng/năm, lợi nhuận sau thuế là trên 2 tỷ đồng/ năm. Đặc biệt, trong quá trình sản xuất còn giải quyết việc làm cho 30 lao động ở địa phương./.

Thảo Phương

Theo Báo Cà Mau