Bạn tìm thông tin gì?

Blog

6 quốc gia dẫn đầu nuôi tôm thẻ chân trắng

(Thủy sản Việt Nam) – Theo báo cáo Công ty đầu tư công nghệ nuôi trồng thủy sản Hatch, Indonesia, Ấn Độ, Ecuador, Việt Nam, Thái Lan và Trung Quốc là 6 quốc gia dẫn đầu trong ngành công nghiệp nuôi tôm thẻ chân trắng xét về sản lượng.

Indonesia

Theo Bộ Hàng hải và Thủy sản Indonesia (MMAF), sản lượng tôm nước này  năm 2015 đạt 535.000 tấn. Còn theo FAO (2018), sản lượng tôm của Indonesia đã đạt 637.555 tấn trong năm 2016, đưa Indonesia trở thành nhà sản xuất tôm lớn thứ 2 trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Indonesia đang đặt mục tiêu sản lượng tôm đạt 600.000 tấn vào năm 2020. Ngành công nghiệp tôm của Indonesia bắt đầu vào cuối những năm 1980, khởi đầu ở Đông Java. Tôm thẻ chân trắng đã được giới thiệu ở Indonesia vào năm 2002. Hiện, tôm thẻ chân trắng chiếm hơn 75% tổng sản lượng tôm của nước này và việc nuôi tôm trải dài khắp đất nước, từ Sumbawa đến phía Đông và Nam Sumatra, đến phía Tây Kalimanta, Sulawesi và Maluka đến phía Bắc.

 

Ấn Độ

Số liệu của World’s Top Exports hồi tháng 5/2019 cho biết, Ấn Độ là nước xuất khẩu tôm lớn nhất thế giới, đạt giá trị thương mại 4,4 tỷ USD, chiếm 25,4% thị trường toàn cầu và gần gấp đôi so với quốc gia xếp thứ hai (Ecuador 2,9 tỷ USD). Sự tăng trưởng thần kỳ này bắt nguồn từ việc chuyển dịch sang nuôi tôm thẻ chân trắng, loài có khả năng nuôi ở mật độ cao, nuôi ngắn, sức sống tốt và khả năng kháng bệnh hiệu quả. Từ những năm 2000, sau khi tôm sú bị dịch bệnh hoành hành, tôm thẻ chân trắng và phần nào đó là tôm càng xanh trở thành đối tượng nuôi phổ biến và chiếm vị thế dẫn đầu trong ngành thủy sản Ấn Độ. Dù vậy, việc tăng trưởng quá nóng dẫn đến nhiều mặt trái. Ấn Độ đang đặt mục tiêu đạt 1 triệu tấn tôm vào năm 2020. Tuy nhiên, theo dự báo mới nhất tại GOAL 2019, sản lượng tôm của nước này dự kiến vẫn ổn định ở dưới mức 600.000 tấn.

Tôm thẻ chân trắng đang là đối tượng nuôi chính tại nhiều quốc gia – Ảnh: Net Zero Enterprises

Ecuador

Nuôi tôm bắt đầu ở Ecuador gần 50 năm trước. Các trang trại nuôi tôm đầu tiên được thành lập ở phía Nam và kể từ đó đến nay, diện tích nuôi tôm của nước này đã đạt gần 220.000 ha. Ecuador hiện là nhà sản xuất tôm thẻ chân trắng lớn thứ 3 thế giới và lớn nhất ở Nam Mỹ. Sản lượng tôm của Ecuador cũng tăng trưởng liên tục, từ 115.000 tấn năm 1998 lên 246.000 tấn năm 2017 và 500.000 tấn năm 2018. Sandro Coglitore, Giám đốc điều hành Omarsa – một trong những nhà xuất khẩu tôm lớn của Ecuador cho biết, sản lượng tôm Ecuador dự kiến đạt ít nhất 640.000 tấn trong năm 2019, cao hơn Ấn Độ.

 

Trung Quốc

Trung Quốc là nước xuất khẩu tôm lớn thứ 2 về khối lượng, sau Thái Lan và lớn thứ 3 về giá trị trên toàn cầu. Trung Quốc quyết tâm đáp ứng nhu cầu và chất lượng của cả thị trường quốc tế và trong nước. Sản xuất tôm thẻ chân trắng đã đóng góp vào lượng protein động vật, tạo việc làm, tăng thu nhập cho các hộ gia đình. Nhiều nhà đầu tư và người nuôi trồng thủy sản đang hy vọng về tiềm năng của lĩnh vực tôm nuôi ở Trung Quốc vì thị trường tiêu thụ nội địa rộng lớn. Sản lượng tôm của Trung Quốc ngày càng tăng; đặc biệt là tôm thẻ chân trắng. Sản lượng tôm thẻ chân trắng của nước này đã tăng từ 605.259 tấn năm 2002 lên 1.672.246 tấn năm 2016.

 

Thái Lan

Nuôi tôm bán thâm canh ở Thái Lan bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ trước và đã được thay thế bởi nuôi tôm thâm canh vào năm 1987. Tôm sú là loài ưa chuộng vì sự sẵn có các trại sản xuất giống và khả năng tăng trưởng nhanh của tôm sú trong điều kiện nuôi bán thâm canh. Tuy nhiên, năm 2002, Hội chứng tôm sú tăng trưởng chậm (MSGS) đã tấn công ngành nuôi tôm công nghiệp, khiến sản lượng hàng năm giảm khoảng 36%. Đây là dịch bệnh tôm nghiêm trọng nhất trong lịch sử nuôi tôm Thái Lan, kết thúc việc mở rộng nuôi tôm sú thâm canh và đưa tôm thẻ chân trắng vào nuôi trong những năm 2003 – 2004. Tôm thẻ chân trắng hợp với khí hậu nhiệt đới của Thái Lan và nhanh chóng thích nghi hệ thống nuôi thâm canh khép kín. Vậy nhưng, sự bùng phát của Hội chứng tôm chết sớm (EMS) cuối tháng 8/2011 đã khiến sản lượng tôm Thái Lan sụt giảm mạnh; đến nay gần như chưa thể hồi phục lại sản xuất như trước đây.

 

Việt Nam

Tôm thẻ chân trắng được đưa vào Việt Nam từ năm 2001, nuôi ở mức độ thử nghiệm. Đến năm 2006, Bộ NN&PTNT cho phép nuôi tôm thẻ chân trắng từ Quảng Bình đến Bình Thuận; năm 2008, được nuôi ở các tỉnh phía Nam. Cả diện tích và sản lượng tôm thẻ chân trắng của Việt Nam tăng đều qua các năm. Theo Tổng cục Thủy sản, 10 tháng đầu năm 2019, diện tích nuôi tôm nước lợ của Việt Nam đạt 713.402 ha, tăng 0,1% so cùng kỳ 2018; trong đó diện tích thả nuôi tôm chân trắng là 99.740 ha. Sản lượng thu hoạch tôm nước lợ đạt 600.874 tấn, tăng 4,4% so cùng kỳ 2018, sản lượng là 386.701 tấn, vượt mạnh so với con tôm sú.

>> Báo cáo của Hatch cũng cho biết, tôm thẻ chân trắng đang được nuôi ở 36 quốc gia, đạt giá trị sản xuất cao nhất trong ngành nuôi trồng thủy sản với trị giá 26,7 tỷ USD.

Phương Ngọc

Nguồn : http://thuysanvietnam.com.vn/

Tăng cường phòng chống rét cho thủy sản nuôi

(Thủy sản Việt Nam) – Ngày 24/12/2019, Tổng cục Thủy sản ban hành Công văn số 2881/TCTS-NTTS về việc tăng cường chỉ đạo phòng chống rét trong nuôi trồng thủy sản (NTTS).

Nội dung Công văn nêu rõ, theo dự báo của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, thời tiết những tháng cuối năm 2019 và đầu năm 2020 tiếp tục diễn biến phức tạp, hiện tại thời tiết rét đậm, rét hại đã và đang diễn ra tại các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung bộ, có thể gây ảnh hưởng bất lợi cho sinh trưởng và phát triển thủy sản nuôi. Để chủ động ứng phó với diễn biến phức tạp của thời tiếp, đảm bảo an toàn cho sản xuất, giảm thiểu thiệt hại do rét đậm, rét hại gây ra cho NTTS; đồng thời đảm bảo tốt công tác chuẩn bị các điều kiện cho vụ nuôi năm 2020, Tổng cục Thủy sản đề nghị Sở NN&PTNT các tỉnh/thành phố khu vực phía Bắc và Bắc Trung bộ tiếp tục triển khai kế hoạch sản xuất và chủ động triển khai một số nhiệm vụ, cụ thể như sau:

– Tăng cường kiểm tra công tác phòng chống rét cho thủy sản nuôi của các đơn vị, địa phương. Phân công trách nhiệm cho các cán bộ, lãnh đạo trong công tác chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thực hiện kế hoạch, phương án phòng chống rét.

– Chỉ đạo các đơn vị chuyên môn phối hợp với các địa phương tiếp tục chỉ đạo thực hiện các biện pháp chống rét cho thủy sản nuôi.

– Thường xuyên cập nhập, phổ biến, hướng dẫn trên các phương tiện thông tin diễn biến không khí lạnh, biện pháp chống rét cho cơ sở sản xuất giống thủy sản, lưu giống, nuôi thương phẩm để tránh bị thiệt hại, đảm bảo cung cấp đủ thực phẩm cho thị trường, nhất là Tết Nguyên đán.

– Rà soát nhu cầu con giống, khả năng sản xuất giống tại chỗ, xây dựng kế hoạch và có các giải pháp chủ động con giống đáp ứng nhu cầu nuôi trong năm 2020, nhất là các tháng đầu năm 2020.

– Chủ động thực hiện và phối hợp với cơ quan chức năng, chuyên môn thường xuyên quan trắc, cảnh báo môi trường vùng nuôi và phòng chống dịch bệnh cho thủy sản.

– Trong trường hợp rét đậm, rét hại kéo dài gây thiệt hại lớn cần tham mưu cho UBND tỉnh hỗ trợ thiệt hại cho người nuôi theo chính sách tại Nghị định số 02/NĐ-CP ngày 9/1/2017 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh.

Một số biện pháp tránh rét cho thủy sản (Ban hành kèm theo Công văn này)

1. Chỉ tổ chức NTTS trong điều kiện giá rét đối với cơ sở đáp ứng đủ các điều kiện, có thể chủ động các biện pháp phòng chống rét cho động vật thủy sản;

2. Trong thời gian giá rét, tuyệt đối không kéo lưới kiểm tra thủy sản nuôi, không thu hoạch theo cách đánh tỉa thả bù để tránh bị xây xát cho thủy sản nuôi nhằm hạn chế các bệnh đốm đỏ, lở loét do nấm, trùng quả dưa và ký sinh trùng…;

3. Đối với các đối tượng thủy sản nuôi đạt cỡ thương phẩm gần đến kỳ thu hoạch nhưng không có điều kiện thực hiện các biện pháp chống rét, nhất là các đối tượng chịu rét kém như các rô phi, cá chim trắng, cá lóc, ba ba, cá vược, cá chim vây vàng… chỉ đạo, tổ chức thu hoạch sớm và triệt để, không để xảy ra hiện tượng thủy sản chết do rét;

4. Đối với diện tích thủy sản đang nuôi (thủy sản chưa đạt cỡ làm thương phẩm, đàn bố mẹ, cá giống) cần khuyến cáo người nuôi áp dụng các biện pháp chống rét:

– Duy trì mực nước ao nuôi đảm bảo độ sâu 1,5 – 2 m để ổn định nhiệt độ.

– Thả sọt đan bằng tre nứa, bên trong sọt có các búi rơm tạo giá thể để thủy sản trú ẩn tránh rét, sọt được đặt ở góc phía Bắc ao nuôi.

– Làm khung và che phủ bề mặt ao nuôi bằng nilon sáng màu (nếu đủ điều kiện) hoặc thả bèo tây trên mặt ao từ 1/2 – 2/3 diện tích mặt ao nuôi về phía Bắc để chắn gió, cách nhiệt không khí, tăng khả năng giữ nhiệt cho ao nuôi và khi có ánh nắng sẽ tăng khả năng hấp thụ năng lượng mặt trời bổ sung nhiệt cho ao nuôi.

– Di chuyển lồng bè đến nơi ít gió hoặc thả sâu lồng nuôi 1,8 – 2 m.

– Cho thủy sản ăn đầy đủ, sử dụng các loại thức ăn có chất lượng cao, khẩu phần phù hợp, bổ sung Vitamin C để tăng sức đề kháng. Khi nhiệt độ nước ao nuôi xuống dưới 150 thì ngừng cho ăn, vào thời điểm nắng ấm trong ngày có thể cho ăn bằng thức ăn tinh, thức ăn chế biến, thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh.

– Định kỳ dùng CaO, liều lượng 2 – 3 kg/100 m2 (1 lần/tháng) bón xuống ao nuôi để phòng ngừa bệnh nấm, ký sinh trùng cho cá.

5. Khuyến cáo người nuôi thường xuyên theo dõi diễn biến điều kiện tự nhiên, tình trạng sức khỏe thủy sản nuôi và các yếu tố môi trường nhằm phát hiện kịp thời các hiện tượng bất thường để có biện pháp xử lý phù hợp.

Bảo Hân

Nguồn: http://thuysanvietnam.com.vn/

Ưu và nhược điểm sử dụng sàng ăn trong nuôi tôm

(Thủy sản Việt Nam) – Hiểu được ưu và nhược điểm của sàng ăn trong nuôi tôm giúp người nuôi tôm sử dụng đúng cách, hiệu quả.

Ưu điểm

– Sử dụng sàng ăn giúp giảm hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR);

– Góp phần làm giảm chi phí thức ăn;

– Giúp cải thiện tăng trưởng của tôm nuôi;

– Nâng cao chất lượng nước, giúp nâng cao mật độ nuôi, tăng năng suất và giảm ô nhiễm môi trường;

– Giúp cho người nuôi tôm đánh giá các động vật ăn thịt và các loài cạnh tranh thức ăn với tôm nuôi trong ao;

– Giúp đánh giá các kích cỡ khác nhau của tôm nuôi trong ao;

– Giúp quan sát tôm nuôi, đánh giá và có thể đưa ra quyết định sớm trong việc quản lý cho ăn, giúp quan sát tình hình sức khỏe của tôm (tôm bệnh hay có các biểu hiện bất thường) và thời điểm thu hoạch phù hợp;

– Giúp phát hiện tôm chết thông qua sàng ăn;

– Quản lý thức ăn tốt thông qua sàng ăn sẽ giữ cho đáy ao luôn được sạch sẽ.

 

 Nhược điểm

– Những người quản lý hoặc trực tiếp cho tôm ăn phải có kỹ năng, có trách nhiệm cao và được đào tạo kỹ lưỡng; Sử dụng sàng ăn mà không có sự giám sát thích hợp của người có kinh nghiệm sẽ gây nên những vấn đề nghiêm trọng cho ao nuôi;

– Sàng ăn nên được gắn phao, không nên gắn cố định ở một độ sâu nhằm tránh trường hợp đáy ao bị lõm, sàng ăn không tiếp đất được;

– Số lần cho ăn hàng ngày giới hạn, vì cần thời gian cho thức ăn vào sàng ăn và mất thời gian kiểm tra thức ăn trong sàng ăn sau một thời gian cho ăn;

– Thiết kế sàng ăn phải đúng, nhưng hiện tại không có tiêu chuẩn công nghiệp cho việc thiết kế sàng ăn dùng trong nuôi tôm;

– Lượng thức ăn cho vào sàng ăn mỗi lần có giới hạn;

– Quyết định gia tăng hay giảm lượng thức ăn thông qua việc kiểm tra lượng thức ăn còn lại trong sàng ăn phụ thuộc hoàn toàn vào con người và kinh nghiệm của người nuôi;

– Sàng ăn và các dụng cụ liên quan cần phải kiểm tra và bảo trì thường xuyên;

– Lượng thức ăn thất thoát ra khỏi sàng ăn do dòng chảy hoặc thiết kế sàng ăn kém có thể dẫn đến hiểu sai về lượng thức ăn thực tế mà tôm đã ăn và rất dễ dẫn đến việc cho ăn quá dư;

– Trong quá trình bắt mồi, thức ăn rất dễ bị rơi khỏi sàng ăn. Điều này rất dễ nhầm lẫn với việc tôm đã ăn hết thức ăn và tăng lượng thức ăn lên, dẫn đến cho ăn dư quá mức;

– Cho tôm ăn bằng sàng ăn làm gia tăng chi phí nhân công và các chi phí khác, do đó cần phải phân tích chi phí và lợi nhuận cẩn thận;

– Một số nghiên cứu cho rằng, việc sử dụng sàng ăn giúp cải thiện tốc độ tăng trưởng, hiểu theo một cách logic là giúp nâng cao chất lượng nước ao nuôi. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng có thể không tối ưu vì tôm không được cung cấp đầy đủ lượng thức ăn cho sự tăng trưởng của nó;

– Khi cho tôm ăn dựa vào một vài sàng ăn mẫu trong ao, rất dễ dẫn đến việc một số tôm ăn quá nhiều và một số khác thiếu thức ăn, nhất là trong trường hợp nuôi mật độ cao.

HL 

(Theo The Global Aquaculture Advocate)  

Nguồn :http://thuysanvietnam.com.vn/

C.P. Việt Nam: Mô hình CPF-COMBINE phiên bản 2

(Thủy sản Việt Nam) – Có mặt tại Việt Nam từ rất sớm và đồng hành với người nuôi tôm ngay từ những này đầu tiên, bên cạnh việc sản xuất và cung cấp ra thị trường các sản phẩm thức ăn tôm, tôm giống, chế phẩm sinh học chất lượng cao. Điều đặc biệt khiến khách hàng luôn nhắc tới C.P. Việt Nam đó là ở mỗi giai đoạn của nghề tôm, C.P đều có những mô hình tiên tiến và giải pháp kỹ thuật vượt trội để hỗ trợ cho bà con nuôi tôm.

Quay lại thời điểm của năm 2015, dựa trên sự kết hợp của các chương trình nuôi tôm an toàn sinh học CPF- Turbo program, chương trình ương tôm CPF- Greenhouse, chương trình quản lý trại tôm theo phương pháp vi sinh C.P Probiotic farming, chương trình quản lý 3 sạch, các cán bộ kỹ thuật của C.P. Việt Nam đã sáng tạo nên mô hình hoàn thiện có tên là CPF- COMBINE.

Mô hình CPF- COMBINE đã cho thấy hiệu quả vượt trội của mình: Tôm nuôi được kích cỡ lớn, năng suất cao, kiểm soát rủi ro tốt, hiệu quả kinh tế tối đa. Tính đến hết năm 2019, trên cả nước đã có hơn 8.000 ao nuôi được xây dựng theo mô hình này. Đáng chú ý là tỷ lệ thành công lên tới 96%, mô hình đã giúp nhiều bà con nuôi tôm vươn lên làm giàu với nghề.

Mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2


Hệ thống xử lý nước trong mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2

Ưu điểm  của mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2

– Kiểm soát dịch bệnh tốt do an toàn sinh học tốt hơn. Các ao nuôi được xây nổi và có lưới che nắng, lưới ngăn chim đầy đủ.

– Quản lý chất lượng nước tốt hơn. Các ao tròn giúp cho việc gom tụ chất thải và siphon hiệu quả hơn, ôxy trong ao cũng được phân bố đều, các vách dựng giúp làm giảm nhớt bờ.

– Giảm chi phí nhân công và chi phí điện năng. Từ việc quản lý hiệu quả hơn sẽ giúp giảm được số lượng nhân công chăm sóc, ngoài ra do kết cấu ao tròn nên giảm được chi phí đầu tư dàn quạt so với ao đất lót bạt hình vuông.

– Dễ dàng sang tôm, thu tỉa, giúp nuôi được kích cỡ lớn, năng suất cao, xoay vòng vụ nhanh.

– Thời gian xây dựng nhanh chóng và đáp ứng được nhiều quy mô diện tích khác nhau. Mô hình CPF- COMBINE được thiết kế theo dạng module ao ương – ao nuôi, từ các trang trại có diện tích nhỏ vài ngàn mét vuông cho đến các trang trại nhiều hécta đều có thể xây dựng được 1 hệ thống đầy đủ từ khu xử lý nước cho đến khâu ương, nuôi. Các ao nổi khung sắt có thời gian thi công nhanh chóng.


Các khách hàng có diện tích nhỏ cũng có thể thực hiện Mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2. Trong hình là bản thiết kế một trang trại CPF- COMBINE phiên bản 2 hoàn chỉnh chỉ với diện tích 3.500 m2

 

Hiệu quả thực tiễn

Anh Bùi Thế Vương, chủ đầu tư trang trại nuôi tôm tại huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, chia sẻ: “Sau hơn 10 năm trong nghề xây dựng, đầu tháng 5/2019, tôi cùng với một số người bạn đồng hương chuyển hướng đầu tư nuôi tôm theo mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2 của C.P Việt Nam. Sau 3 tháng xây dựng, trang trại đi vào hoạt động. Với 10 ao nổi 800 m2, ngay vụ tôm đầu tiên đã thu được 63 tấn tôm kích cỡ từ 22 – 31 con/kg. Dù mới bước vào nghề tôm, nhưng với thành công bước đầu này, tôi rất tin tưởng vào mô hình cũng như các sản phẩm của C.P. Đặc biệt, tôi gửi lời cảm ơn tới các anh em kỹ thuật của C.P đã giúp đỡ tôi rất nhiều.


Anh Bùi Thế Vương và nhân viên kỹ thuật của C.P. Việt Nam

Hay như trang trại CPF- COMBINE phiên bản 2 của ông Tạ Thanh Tròn tại huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu. Trong năm 2019, chỉ với 2 ao nổi 500 m2 nhưng cũng đã thu tới 18,3 tấn tôm sau cả 3 vụ toàn thắng, lợi nhuận lên tới trên 1,3 tỷ đồng, tôm nuôi về tới kích cỡ 25 con/kg.

Ông Tạ Thanh Tròn và nhân viên kỹ thuật của C.P Việt Nam 

Từ hiệu quả kinh tế cao, mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2 đang thu hút được sự quan tâm lớn từ người đầu tư nuôi tôm khắp cả nước, dù là bà con nuôi tôm lâu năm hay là những cá nhân, tổ chức mới bước chân vào nghề tôm. Đối với những hộ khó khăn về vốn đầu tư, C.P. Việt Nam đã có định hướng liên kết với các ngân hàng để cung cấp nguồn tín dụng. Riêng trong năm 2019, tại hai tỉnh nuôi tôm trọng điểm là Bến Tre và Sóc Trăng, một số ngân hàng đã tham gia cùng C.P. Việt Nam hỗ trợ hàng trăm hộ nuôi tôm thực hiện mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2. Trong năm 2020, C.P. Việt Nam sẽ tiếp tục mở rộng chuỗi liên kết giữa C.P với các ngân hàng trên phạm vi toàn quốc, giúp đưa mô hình CPF-COMBINE phiên bản 2 tới mọi người nuôi tôm Việt Nam.


Anh Nguyễn Thanh Việt (áo xanh ở giữa) khách hàng tại Sóc Trăng đã đầu tư mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2 từ nguồn vốn vay từ ngân hàng HDbank Sóc Trăng

Nguyễn Long An

Nguồn : http://thuysanvietnam.com.vn/

Ngành tôm thế giới: Kiên định phát triển bền vững

(Thủy sản Việt Nam) – Ngành tôm vẫn phát triển không ngừng sau nhiều biến động thăng trầm. Tuy nhiên, định hướng chính vẫn là xây dựng mô hình bền vững và khắc phục những thách thức xuyên suốt ngành hàng này nhiều năm qua.

3 thách thức

Thoái hóa môi trường, biến đổi khí hậu và dịch bệnh là những thách thức lớn nhất của ngành tôm hiện nay, theo nhận định của các chuyên gia trong Hội nghị thế giới về ngành tôm Infofish 2019 tại Bangkok Thái Lan vừa qua. Robins McIntosh, Giám đốc Công ty Pokphand Foods Public cũng khẳng định, phát triển mô hình bền vững luôn là xu hướng chủ đạo của ngành tôm nuôi suốt hơn 4 thập kỷ qua.

Nghề nuôi tôm không ngừng thay đổi theo thời gian từ các  mô hình “Thế hệ 1 với đặc trưng ao nuôi rộng 5 – 30 ha, không quạt nước, sản lượng 500 kg – 3 tấn/ha đến những mô hình “Thế hệ 5” với ao nuôi nhỏ, rộng 0,2 – 0,5 ha, tuần hoàn nước, chú trọng kiểm soát môi trường và sản lượng 30 – 60 tấn/ha. Những mô hình nuôi tôm “Thế hệ 5” đang được phát triển tại Việt Nam, Trung Quốc và Thái Lan. Mô hình này đòi hòi tôm giống sạch bệnh, khỏe mạnh, giảm sử dụng thức ăn sống và kháng sinh.

Dù vậy, tiềm năng của ngành tôm vẫn chưa được khai thác hết và chưa đạt đích bền vững thực sự do quản lý dịch bệnh còn hạn chế. Những vi khuẩn mang mầm bệnh như Vibrio spp đang sinh sôi khi nhiệt độ nước tăng, nhưng mối đe dọa lớn hơn lại chính là dịch bệnh có thể tự xuất hiện. Sự phát triển ồ ạt của các vùng nuôi tôm thâm canh, đặc biệt ở châu Á cùng nhiều trang trại thả nuôi mật độ dày đặc đã khiến cho ngành tôm càng dễ tổn thương hơn trước sự thay đổi của thiên nhiên.

Khi môi trường chịu áp lực, khắc sinh ra dịch bệnh. Tỷ lệ sống của tôm hiện nay vẫn chưa thể phục hồi về mức trước thời điểm EMS bùng phát, thậm chí ngành tôm vẫn tiếp tục đối diện nhiều rủi ro khó lường hơn. Do đó, một mô hình nuôi tôm bền vững là xu hướng cần thiết và tất yếu. Nhưng trở ngại lớn trên con đường phát triển này là phải xây dựng được các phương pháp nuôi tôm bền vững để giảm thiểu chi phí cố hữu trong khi vẫn tăng sản xuất ổn định và hiệu quả. Ngành tôm cần phải rà soát lại các hướng tiếp cận bền vững đã áp dụng để cải tiến tốt hơn trong tương lai.

 

Những “điểm sáng”  ngành tôm

Tiến sĩ Somsak Paneetatyasai, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi tôm Thái Lan chia sẻ, nghề nuôi tôm hiện đại của Thái Lan bắt đầu từ giữa thập niên 90 và đã từng đối mặt nhiều thách thức dịch bệnh, sản lượng lao dốc, nông dân sa sút… kìm hãm tăng trưởng chung của toàn ngành. Nhưng được sự hỗ trợ của Cục Thủy sản Thái Lan, các viện nghiên cứu nhà nước, tư nhân, ngành tôm Thái Lan nỗ lực tìm giải pháp nuôi hiệu quả, thân thiện môi trường và không sử dụng kháng sinh bừa bãi.

Nhờ đó, Thái Lan tiên phong nâng cao an toàn sinh học và sử dụng chế phẩm sinh học để nuôi tôm. Somsak Paneetatyasai cho biết, từ đầu năm 2000, ngành tôm Thái Lan đã nhìn thấy trước nhu cầu giảm phụ thuộc vào tôm giống khai thác tự nhiên, và tăng cường cải thiện năng suất của tôm. Điều này là động lực thúc đẩy các bộ phận tư nhân đầu tư sản xuất tôm giống bố mẹ cải thiện gen nhằm tạo ra các sản phảm tôm post chất lượng tốt nhất. Do đó, tôm giống Thái Lan luôn được bạn hàng tin cậy, đặc biệt sản phẩm của Công ty C.P.  Tiến sĩ Olivier Decamp, Giám đốc Phát triển sản phẩm tại Công ty TNHH Inve Asia Thái Lan đánh giá cao những phương thức nuôi tôm cân bằng dinh dưỡng, sức khỏe và môi trường với trọng tâm bền vững của Thái Lan. Ông cho biết, ngành tôm đang đối mặt rất nhiều thách thức khác nhau. Trong số này, dịch bệnh và giá nguyên liệu rẻ là những nỗi lo muôn thuở của nông dân. Nhưng đây cũng là lý do thúc đẩy nông dân Thái Lan tăng cường áp dụng an toàn sinh học, quản lý môi trường và chất lượng dinh dưỡng thức ăn.

Ngoài những quốc gia nuôi tôm quá quen thuộc ở châu Á hay Nam Mỹ, Trung Đông đang tìm kiếm chỗ đứng trên bản đồ ngành tôm thế giới. Theo Haydar H Al Sahtout, tư vấn cao cấp Hiệp hội NTTS Saudi, Ả Rập Saudi, ngành tôm tại đây phát triển theo hướng hiện đại hóa công nghệ nuôi và cải tiến phương pháp chế biến đến vận chuyển. Ngành tôm Trung Đông thực chất xuất hiện từ đầu thập niên 90, chủ yếu tập trung dọc Biển Đỏ với đối tượng chính là tôm sú.

Do tôm sú dễ tổn thương trước dịch bệnh, nông dân Trung Đông đã chuyển sang tôm thẻ vào đầu những năm 2000. Tuy nhiên, dịch bệnh đốm trắng xuất hiện đầu năm 2010 đã khiến ngành tôm Trung Đông buộc phải cơ cấu lại toàn bộ. Tôm thẻ giống SPF xuất hiện, cùng những giải pháp thắt chặt an toàn sinh học, chủ yếu bởi Chính phủ Ả Rập Saudi. Năm 2018, Ả Rập Saudi trở thành nước nuôi tôm lớn nhất vùng, sản lượng đạt trên 65.000 tấn và xuất khẩu tôm sang hơn 30 thị trường quốc tế. Iran đứng thứ 2 với sản lượng ước đạt 46.000 tấn, chủ yếu được nuôi tại các tỉnh phía Nam; Ai Cập đứng thứ 3 với 7.000 tấn.  Ngành tôm Trung Đông đang thu hút đầu tư mạnh mẽ vì có nhiều triển vọng tăng trưởng trong tương lai, đặc biệt dọc vùng biển Đỏ. Công nghệ cao, điều kiện tự nhiên thích hợp đi cùng chính sách thắt chặt an toàn sinh học và sự hỗ trợ từ chính phủ sẽ là bàn đạp để ngành tôm Trung Đông sớm tìm được chỗ đứng ngày càng vững chắc hơn trên bản đồ ngành tôm toàn cầu.

 

Chìa khóa “an toàn sinh học”

Dù không phải vấn đề mới, nhưng an toàn sinh học vẫn luôn xuyên suốt ngành tôm như một mắt xích quan trọng nhất trên con đường phát triển bền vững. Tiến sĩ Eduardo Leano, điều phối viên Chương trình sức khỏe vật nuôi thủy sản, Mạng lưới trung tâm NTTS tại châu Á – Thái Bình Dương (NACA), Thái Lan, cho biết an toàn sinh học mang lại sự sống cho ngành tôm suốt hơn 30 năm thăng trầm cùng dịch bệnh. Gần 60% dịch bệnh xuất hiện trong trại tôm đều do virus mang mầm bệnh gây ra và 20% do vi khuẩn, trong khi đó dịch bệnh do nấm mốc hay ký sinh trùng chiếm tỷ lệ tương đối nhỏ.

Tiến sĩ Eduardo Leano cũng nhận định thách thức hàng đầu trong ngành tôm hiện nay chính là dịch bệnh, đặc biệt là những dịch bệnh mới như vi bào tử trùng do HPM-EHP gây ra; và dịch bệnh do virus gây tỷ lệ tử vong cao như VCMD và SHIV. An toàn sinh học hiệu quả được xem như công cụ hiệu lực nhất để ngăn chặn sự xuất hiện của vi sinh vật mang mầm bệnh trong hệ thống nuôi tôm. Tuy nhiên, nói luôn dễ hơn làm, vì hầu hết các trại nuôi tôm đều hạn chế năng lực ứng dụng giải pháp an toàn sinh học, đặc biệt ở quy mô trại nuôi. Dù vậy, bất chấp những dịch bệnh có sức tàn phá kinh khủng nhất, ngành tôm vẫn có khả năng tiếp tục mở rộng sản xuất nhờ ứng dụng các giải pháp an toàn sinh học cải tiến.

Tiến sĩ Darryl E. Jory – Liên minh NTTS toàn cầu (GAA)

Nguồn :http://thuysanvietnam.com.vn/

Khuyến cáo khung mùa vụ nuôi tôm nước lợ

BDK.VN – Thông tin từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, dự báo nuôi tôm nước lợ năm 2020 tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách thức.

Sở này cũng đã đưa ra khuyến cáo khung mùa vụ nuôi tôm nước lợ năm 2020 như sau:

Nuôi tôm sú quảng canh, tôm rừng, thả giống quanh năm. Tuy nhiên, người nuôi cần ngắt vụ, cải tạo ao diệt mầm bệnh ít nhất 1 lần/năm.

Nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm canh, thả giống từ ngày 1-3 đến hết ngày 30-9-2020.

Nuôi tôm sú – lúa, thả giống từ tháng 1 đến hết 5-2020.

Nuôi tôm chân trắng, thả giống từ ngày 1-12-2019 đến hết ngày 30-9-2020.

Nuôi tôm sú, tôm chân trắng thâm canh trong hệ thống có mái che, có điều kiện cơ sở hạ tầng đảm bảo, kiểm soát tốt môi trường; chủ động trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh có thể thả giống quanh năm.

Gia đoạn chuyển mùa và các tháng 2, 3, 4-2020, dự báo cao điểm nắng nóng, xâm nhập mặn. Các vùng, cơ sở không chủ động được nguồn nước, hạ tầng không đảm bảo không nên thả nuôi.

Người nuôi tôm với loại hình luân canh tôm – lúa nên thả giống từ tháng 1 đến 5-2020 và thu hoạch dứt điểm vào tháng 8-2020 để tránh thiệt hại.

Minh Quốc

Nguồn: http://baodongkhoi.vn

Vĩnh Thuận “làm chắc” vụ tôm mới, 1ha “tôm xen tôm” lãi 300 triệu

(Dân Việt) Nhằm chuẩn bị cho vụ tôm năm 2020, mới đây Trung tâm Khuyến nông tỉnh Kiên Giang phối hợp Phòng NNPTNT huyện Vĩnh Thuận tổ chức tọa đàm sản xuất vụ tôm năm 2020 với sự tham gia của 60 nông dân huyện Vĩnh Thuận – một trong những địa phương nuôi tôm càng xanh lớn nhất nhì bán đảo Cà Mau.

Huyện Vĩnh Thuận cũng là nơi áp dụng thành công mô hình nuôi tôm sú xen tôm càng xanh kết hợp trồng lúa, đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Đánh thức tiềm năng vùng nước lợ

Năm nay nông dân huyện Vĩnh Thuận phấn khởi với vụ tôm trúng mùa- được giá.  Ảnh:  I.T

Theo Sở NNPTNT Kiên Giang, năm 2019 diện tích thả nuôi tôm nước lợ toàn tỉnh đạt 127.876 ha, sản lượng tôm nuôi 82.726 tấn, vượt 8,8% kế hoạch, tăng 11,5% so với năm 2018.

Hơn 10 năm trước, cuộc sống của người dân Vĩnh Thuận chủ yếu bám vào cây dừa nước mọc tự nhiên ven sông rạch, làm thuê làm mướn hoặc đánh bắt cá tôm. Vì thế, nhà nào đủ ăn đã là may lắm, nói gì đến tỷ phú này, triệu phú kia. Lúc đó, phong trào nuôi tôm sú, tôm càng xanh bên mạn Cà Mau, Bạc Liêu (gần huyện Vĩnh Thuận) nở rộ khắp nơi, nhiều người đổi đời chỉ sau mấy vụ tôm nên đã thôi thúc một số hộ nông dân Vĩnh Thuận đến học hỏi, rồi dần chuyển đổi những cánh đồng ngập mặn thành đầm nuôi tôm sú, tôm càng xanh.

Tuy nhiên, do chưa nắm vững kỹ thuật, lại quá vội vàng, các đầm tôm cho hiệu quả rất thấp, thậm chí lỗ vốn. Để tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả của con tôm, lúc đó HTX Dịch vụ nông nghiệp ấp Căn Cứ (xã Vĩnh Phong) đã chủ động tìm gặp kỹ sư nông nghiệp, cán bộ khuyến nông nhằm tiếp cận với khoa học – kỹ thuật, sau đó cùng các hộ nuôi tôm tiến hành xử lý ao nuôi bằng vôi để rửa phèn, điều tiết độ mặn… Sau một thời gian, những cánh đồng ngập mặn cỏ mọc um tùm đã biến thành những vuông nuôi tôm quy mô, tôm nhảy tanh tách mỗi ngày.

Ông Nguyễn Văn Dậu – Giám đốc HTX Căn Cứ, cho biết: “Vĩnh Thuận hiện có khoảng 23.000ha đất luân canh lúa – tôm, trong đó khoảng 80% diện tích nuôi xen canh tôm thẻ với tôm càng xanh. Sản lượng tôm bình quân hàng năm đạt từ 13.000 – 15.000 tấn”.

Trưởng phòng NNPTNT huyện Vĩnh Thuận – ông Võ Hoàng Nguyên khẳng định: “Trong phát triển sản xuất nông nghiệp, Vĩnh Thuận cũng đã xác định và đi đúng hướng theo kế hoạch tái cơ cấu ngành nông nghiệp, đặc biệt là trong nuôi trồng thủy sản. Theo đó huyện đã mạnh dạn chuyển đổi mô hình đất lúa 2 vụ kém hiệu quả và một số diện tích cây trồng khác sang nuôi 1 vụ tôm – 1 vụ lúa. Mặc dù những tháng đầu năm 2019 bị ảnh hưởng bởi tình hình thời tiết bởi nắng nóng, khiến 100ha bị thiệt hại, song nhờ bà con sớm khắc phục và thả nuôi theo đúng lịch thời vụ nên con tôm vẫn đem lại hiệu quả kinh tế cao”.

Tại buổi tọa đàm, 60 nông dân huyện Vĩnh Thuận đã được lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông tỉnh Kiên Giang hướng dẫn các biện pháp xử lý ruộng nuôi và phòng trị bệnh cho tôm, kỹ thuật nuôi tôm sú luân canh trồng lúa. Nông dân được khuyến cáo khung lịch thời vụ thả tôm giống nuôi tập trung từ tháng 1 đến tháng 3, thu hoạch dứt điểm tháng 8, rửa mặn sạ lúa trong tháng 9.

Theo Phòng NNPTNT huyện, trung bình mỗi ha nuôi tôm cho thu hoạch hơn 550kg, tăng hơn 50kg so với năm trước. Đặc biệt, bà con nông dân ở các xã Bình Minh, Vĩnh Bình Nam, Vĩnh Bình Bắc và thị trấn Vĩnh Thuận hiện đang áp dụng mô hình nuôi kết hợp tôm sú hoặc tôm thẻ chân trắng với tôm càng xanh cho năng suất cao vượt trội. Thậm chí nhiều hộ có năng suất thu hoạch hơn 1 tấn/ha.

Không chỉ tôm nuôi đạt năng suất cao, bà con rất phấn khởi vì giá tôm đang tăng cao. “So với cùng kỳ năm ngoái, giá tôm thẻ đang tăng khoảng 20.000 đồng/kg. Tôm sú và tôm càng thì ổn định. Riêng tôm càng loại từ 10 – 15 con/kg đang dao động từ 145.000 – 150.000 đồng/kg nên ai cũng phấn khởi” – ông Danh Mót ở ấp Đồng Tranh, xã Vĩnh Bình Bắc, chia sẻ.

Tuân thủ lịch thời vụ thả nuôi

Năm 2020, tỉnh Kiên Giang phấn đấu đạt sản lượng tôm nuôi 85.000 tấn, cung ứng nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu thủy sản, với tổng diện tích nuôi tôm khoảng 120.000ha.

Theo đó, Sở NNPTNT Kiên Giang đã xây dựng khung lịch thời vụ thả giống nuôi tôm nước lợ thích hợp với từng vùng sinh thái trên địa bàn tỉnh. Cụ thể là cơ cấu mùa vụ thả giống sản xuất tôm sú – lúa vùng U Minh Thượng; nuôi tôm sú khu vực ven sông Cái Lớn thuộc vùng Tây sông Hậu, vùng ven biển Hòn Đất – Kiên Lương – Hà Tiên – Giang Thành; nuôi tôm công nghiệp – bán công nghiệp; nuôi quảng canh cải tiến, tôm – rừng; nuôi tôm càng xanh xen lúa…

Với hiệu quả từ mô hình nuôi 1 vụ tôm càng xanh xen tôm thẻ với 1 vụ lúa huyện Vĩnh Thuận đã quy hoạch mô hình này ở các xã nằm ven sông Cái Lớn, với tổng diện tích gần 10.000ha.

Nông dân gọi đây là mô hình “tôm xen tôm” vì tôm càng xanh từ thả nuôi đến thu hoạch là 6 tháng. Trong khi đợi thu hoạch, nông dân thả xen vào tôm thẻ chân trắng, loại này chỉ 3 tháng cho thu hoạch. Như vậy, trên cùng diện tích, nông dân thu hoạch 3 lần tôm trong 6 tháng. Theo tính toán và thu hoạch thực tế của nông dân, 1ha nuôi theo mô hình “tôm xen tôm” sẽ cho lợi nhuận khoảng 300 triệu đồng.

Bên cạnh đó, tỉnh Kiên Giang cũng phối hợp với các tỉnh sản xuất tôm giống giám sát chặt chẽ chất lượng con giống nhập về; thực hiện tốt công tác quan trắc, cảnh báo môi trường, dịch bệnh kịp thời thông tin đến người nuôi để chủ động sản xuất; triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng, chống dịch bệnh thủy sản. Hướng dẫn người dân đăng ký nuôi tôm sú, tôm thẻ chân trắng để được cấp mã số cơ sở nuôi theo quy định. Xây dựng mô hình chuỗi sản xuất tôm đảm bảo an toàn dịch bệnh phục vụ xuất khẩu.

Nguồn : Dân Việt