Bạn tìm thông tin gì?

Blog

Dịch bệnh trên tôm

(Thủy sản Việt Nam) – Nuôi tôm đã và đang phát triển nhanh trong nhiều năm qua, dần trở thành ngành kinh tế quan trọng góp phần chính vào sự tăng trưởng chung của ngành thủy sản. Tuy nhiên, người nuôi đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về ô nhiễm môi trường, bùng phát dịch bệnh, lạm dụng kháng sinh, hóa chất trong quá trình nuôi, chất lượng sản phẩm không đáp ứng yêu cầu thị trường, gây tổn thất kinh tế cho người dân.

Tác động của ô nhiễm môi trường và bệnh

Việc mở rộng quy mô sản xuất, tăng mức độ thâm canh đã dẫn đến sự xuất hiện và bùng phát nhiều bệnh nguy hiểm đe dọa đến sự phát triển bền vững của ngành tôm, trực tiếp gây thiệt hại lớn cho người nuôi. Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường cũng là vấn đề nhận được sự quan tâm của không chỉ cộng đồng nuôi tôm mà còn của toàn xã hội theo cả hai chiều. Hoạt động nuôi chịu ảnh hưởng xấu từ ô nhiễm và nuôi tôm cũng là nguồn tự gây ô nhiễm cho ao nuôi và cho môi trường xung quanh. Do biến đối khí hậu, nắng nóng kéo dài, độ mặn tăng cao hay giảm đột ngột cũng làm dịch bệnh xảy ra thường xuyên hơn làm thiệt hại lớn cho nghề nuôi.

Số lượng và chất lượng tôm giống không nhiễm bệnh, được kiểm soát bệnh từ bố mẹ, sinh sản; quá trình kiểm soát bệnh trong nuôi thương phẩm đều chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của sản xuất. Những tồn tại này dẫn đến việc một số người sản xuất vẫn lạm dụng hóa chất và kháng sinh trong quá trình nuôi để xử lý môi trường và phòng trị bệnh; từ đó, sản phẩm nuôi trồng từ các hộ nuôi này cung cấp cho nhà máy chế biến chưa đảm bảo ATTP và theo đó uy tín ngành tôm Việt Nam cũng bị ảnh hưởng.

Tiếp cận ATTP thủy sản theo chuỗi từ nuôi trồng đến chế biến (Nguồn: Brett Koonse & Mai Văn Tài, 2017)

 

Một số bệnh gây thiệt hại lớn

Đốm trắng

Virus WSSV (White spot syndrome virus) gây bệnh đốm trắng trên tôm nuôi nước lợ được ghi nhận vào những năm 1990s tại Đài Loan và sau đó bùng phát ở nhiều nơi trong đó có Việt Nam. WSSV được xem là một loài virus đặc biệt vì nó có khả năng sống tiềm ẩn trong hầu hết các loài giáp xác nhưng chỉ gây thành dịch bệnh trên tôm nuôi nước lợ (Đặng Thị Lụa, 2018).

Hoại tử gan tụy cấp tính

Hội chứng chết sớm (EMS, Early mortality syndrome) còn được gọi là bệnh hoại tử gan tụy cấp (AHPND, Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease) đã gây thành dịch bệnh gây thiệt hại cho nghề nuôi tôm ở khu vực châu Á và Mỹ Latinh, được ghi nhận ở Việt Nam vào tháng 4/2011. Dịch bệnh gây chết nhanh tôm sú và TTCT ở giai đoạn 15 – 45 ngày tuổi sau khi thả nuôi với tỷ lệ chết lên tới 100%. Tác nhân gây bệnh AHPND được cho là do vi khuẩn thuộc nhóm Vibrio gây ra, như  Vibrio parahaemolyticus, V. harveyi và V. campbellii. Trong số các loại kháng sinh được phép hoặc khuyến cáo hạn chế sử dụng thì Vibrio parahaemolyticus nhạy với các loại kháng sinh gentamicin, florfenicol, oxytetracycline, doxycycline và tetracycline. Thức ăn, tảo độc, thuốc bảo vệ thực vật trong ao nuôi tôm không liên quan đến AHPND nhưng ao nuôi tôm bị bệnh AHPND thường có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ.

Hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô – IHHNV

Bệnh do virus Infectious Hypodermal and Hematopoietic Necrosis virus (IHHNV) gây ra. Cách phòng bệnh hiệu quả nhất vẫn là sử dụng tôm bố mẹ có chất lượng cao, sạch bệnh.

Đầu vàng – YHV

Bệnh là do phức hợp virus gây bệnh đầu vàng (Yellow Head Virus – YHV) và virus gây hội chứng liên quan đến mang (Gill-Associated Virus – GAV). Phòng bệnh hiệu quả bằng cách kiểm tra con giống sạch bệnh và xử lý nước trước khi thả nuôi.

Vi bào tử trùng – EHP

Bệnh EHP trên tôm do ký sinh trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) gây ra. Ký sinh trùng này ký sinh trong ống gan tụy của tôm và làm tôm không hấp thụ chất dinh dưỡng dẫn đến tôm chậm lớn. Cách tốt nhất là hạn chế sự xâm nhập của EHP vào ao nuôi và kiểm soát sự lây nhiễm của nó trong ao ở mức thấp nhất.

 

Giải pháp

Cần có cách nhìn mới tổng thể hơn trong việc lựa chọn cách thức tiếp cận để xây dựng các giải pháp phát triển ngành tôm đảm bảo ATTP, thân thiện môi trường và hạn chế dịch bệnh. Cách thức tiếp cận đó phải dựa trên nền tảng thực tế sản xuất đặc thù của ngành; hệ thống nghiên cứu, đào tạo; hệ thống cung ứng các dịch vụ đầu vào và hệ thống chế biến, thương mại hóa sản phẩm. Nói cách khác, đó là cách thức tiếp cận chuỗi ngành, mỗi khâu cần nhận thức và thực hiện được các nhiệm vụ của mình hướng tới sự phát triển bền vững chung của ngành tôm từ khâu sản xuất giống, nuôi thương phẩm, chế biến và cung ứng sản phẩm ra thị trường trong nước cũng như phục vụ xuất khẩu.

Mối quan hệ giữa đảm bảo ATTP trong sản xuất thủy sản nói chung, sản xuất tôm nói riêng từ nuôi đến chế biến. Đối với NTTS, đảm bảo an toàn sinh học (ATSH) trong đó việc phòng bệnh là một nền tảng của hoạt động sản xuất tốt (GAP) và đó cũng là điều kiện cần để đảm bảo ATTP trong NTTS. Điều đó cũng tương ứng với việc đảm bảo sản xuất tốt (GMP), kiểm soát vệ sinh (SCP) là nền tảng của việc phân tích mối nguy và kiểm soát điểm tới hạn (HACCP) trong chế biến thủy sản.

Những thách thức trên đòi hỏi cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ (KHCN), đào tạo nguồn nhân lực KHCN có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển bền vững của ngành. Nghiên cứu xác định tác nhân gây bệnh: Áp dụng các phương pháp nghiên cứu từ truyền thống như mô học đến các phương pháp hiện đại (như sử dụng kính hiển vi điện tử, PCR…) để xác định nhanh chóng và chính xác tác nhân gây bệnh. Nghiên cứu phát triển biện pháp phòng trị bệnh đảm bảo ATTP và thân thiện với môi trường như sản xuất vaccine, probiotic, sản phẩm nano, sản phẩm thảo dược, hạn chế sử dụng kháng sinh. Phát triển, ứng dụng các công nghệ nuôi tiên tiến như Bio-floc, Cope-floc, nuôi trong nhà; công nghệ sử dụng vi sinh ít thay nước; ứng dụng những thành tựu mới trong các lĩnh vực tin học, vật liệu mới và công nghệ sinh học, tự động hóa trong các khâu chăm sóc, cho ăn, giám sát môi trường và bệnh, truy xuất nguồn gốc. Nghiên cứu sản xuất giống, chọn giống sạch bệnh để tăng cường tỷ trọng tôm giống sạch bệnh phục vụ nuôi thương phẩm. Thắt chặt việc quản lý khâu nhập tôm bố mẹ và vận chuyển giống nhằm hạn chế lây lan bệnh. Tăng cường giám sát vùng nuôi, sớm phát hiện các vùng dịch để hạn chế lây lan. Phát triển các hệ thống sản xuất quy mô lớn để thuận lợi cho việc áp dụng quản lý ATSH, ATTP, quản lý môi trường và giảm giá thành sản phẩm. Tăng cường liên kết giữa các khâu trong chuỗi liên kết giữa các hộ sản xuất trong vùng nuôi để phòng ngừa dịch bệnh hiệu quả. Áp dụng nguyên tắc ATSH trong quản lý hoạt động nuôi từ khâu nuôi vỗ tôm bố mẹ cho đến nuôi thương phẩm ở trong các trại nuôi. Sử dụng chế phẩm sinh học dạng vi sinh định kỳ để cải thiện chất lượng nước và quản lý chất thải trong quá trình nuôi. Hạn chế sử dụng kháng sinh, tuyệt đối không sử dụng kháng sinh trong phòng bệnh tôm. Từng bước ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý hoạt động sản xuất.

Mai Văn Tài – Viện Nghiên cứu NTTS I

Bí quyết “hiện tượng” Ecuador

Ecuador là nước xuất khẩu tôm nuôi lớn thứ 3 thế giới. Điều gì đã thúc đẩy ngành tôm nước này phát triển nhanh như vậy?

Ảnh minh họa.

Ecuador bắt đầu nuôi tôm từ năm 1969 ở bờ Đông Nam vịnh Guayaquil. Vì thiếu kiến thức, người nuôi tôm ở Ecuador đã vận chuyển ấu trùng tôm trong các thùng nhựa mà không kiểm soát được, điều này khiến tỷ lệ sống rất thấp.

Ngay sau đó, nông dân Ecuador đã hiện thực hóa một hệ thống ương giống cho phép các cửa sông và con nước để trữ một lượng lớn ấu trùng tôm. Tuy nhiên, họ đã thất bại trong việc xác định mật độ con giống trên mỗi cửa sông. Để khắc phục điều này, Ecuador đưa ra một phương pháp mới, theo đó, con giống từ các cửa sông được bắt và vận chuyển đến một bể sinh sản. Tôm được duy trì trong các bể này 4 – 8 tháng, cho đến khi chúng sẵn sàng để tiêu thụ và thương mại hóa. Phương pháp này đã tạo ra một cuộc cách mạng hóa ngành tôm toàn cầu. Đến năm 2018, ngành tôm Ecuador đã rất phát triển với số lượng ao nuôi tôm tăng chóng mặt. Các công ty ở nước này sản xuất tôm chất lượng cao trong nhiều thập kỷ và bây giờ đã có chương trình nhân giống tích hợp theo chiều dọc.

Ngoài ra, chính sách phân vùng trang trại là mô hình thực hành tốt nhất trong nuôi tôm. Với mục tiêu về môi trường và bền vững, Ecuador đã đặt ra những hạn chế trong canh tác ở môi trường rừng ngập mặn ven biển, buộc nông dân phải xây dựng ao nuôi ở vùng cao. Không ngạc nhiên khi sản lượng tôm của Ecuador chạm mốc 500.000 tấn vào năm 2018, theo Phòng Nuôi trồng thủy sản Quốc gia Ecuador (CNA). Trong cùng kỳ, xuất khẩu tôm của Ecuador sang châu Á chiếm 61% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng từ 57% cùng kỳ năm 2017. Đáng chú ý, xuất khẩu trực tiếp sang Trung Quốc có mức tăng cao nhất. Với các lô hàng tôm đến nhiều hơn gấp 3 lần, Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành nhà nhập khẩu tôm lớn nhất của Ecuador về cả giá trị và khối lượng. Trong khi đó, xuất khẩu tôm Ecuador sang Việt Nam vẫn ổn định; xuất khẩu sang một số nước châu Âu, đặc biệt là Italia và Tây Ban Nha đã cho thấy một sự tăng trưởng lớn.

Sản lượng tôm tại các quốc gia nuôi tôm lớn ở Mỹ Latinh

Đây là kết quả của nhiều thay đổi và cân bằng thức ăn. Một số nhà sản xuất thức ăn lớn nhất thế giới như Skretting, Vitapro và BioMarGroup đang thực hiện kế hoạch mở rộng ở Ecuador. Tháng 8/2018, Công ty kinh doanh nông nghiệp khổng lồ Mỹ Cargill và nông dân nuôi tôm Naturisa tuyên bố họ đang sản xuất thử nghiệm trong một nhà máy sản xuất thức ăn nuôi tôm mới, dự kiến mở cửa vào tháng 10/2018.

Những lợi thế quan trọng khác mà ngành tôm Ecuador có được so với các đối thủ châu Á là chi phí sản xuất ở cấp độ trang trại thấp; độ đồng đều cao của nguyên liệu thô; quy mô thu hoạch tương đối lớn, mặc dù các nhà sản xuất ở Ecuador từ chối sử dụng hệ thống sản xuất thâm canh hơn. Do Ecuador có chi phí lao động công nghiệp cao, quốc gia này tập trung vào xuất khẩu tôm nguyên con còn đầu và vỏ (HOSO) thay vì sản phẩm bóc vỏ hoặc giá trị gia tăng.

Nước này cũng đang xem xét tiềm năng xuất khẩu công nghệ và chuyên môn trong nuôi tôm, đặc biệt là các nước Ả Rập đang hướng tới mục tiêu tự cung cấp và an ninh lương thực. Những sáng kiến như vậy cùng sự gia tăng liên tục trong sản lượng và chính sách đã khiến nhiều chuyên gia dự đoán, Ecuador có thể sản xuất 700.000 tấn tôm trong vài năm tới, vượt qua Ấn Độ để trở thành nhà sản xuất tôm lớn nhất thế giới.

Nguồn : https://sinhhoctomvang.vn/

Ước tính khả năng kháng WSSV ở tôm thẻ chân trắng

Kết quả của nghiên cứu này cho thấy có sự khác biệt đáng kể về khả năng kháng virut Hội chứng đốm trắng (WSSV – quan sát các điểm điển hình trong vỏ tôm) giữa các gia đình được đánh giá, và sự cải thiện khả năng kháng WSSV là Nó có thể đạt được bằng cách chọn lọc trong quần thể tôm này. Ảnh của Richard Martínez.

Một số bệnh lớn đã ảnh hưởng đến ngành tôm trên toàn thế giới trong nhiều năm và gây ra thiệt hại kinh tế đáng kể. Virus hội chứng đốm trắng (WSSV) là mầm bệnh quan trọng của tôm và nhiễm trùng ở tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương ( Litopenaeus vannamei ) được đặc trưng bởi tỷ lệ tử vong nhanh chóng lên tới 100% trong 7 đến 10 ngày. Khi tăng mỡ, tôm ở mọi lứa tuổi và kích cỡ đều nhạy cảm với WSSV, nhưng tỷ lệ tử vong cao nhất thường xảy ra từ 1 đến 2 tháng sau khi trồng.

Cho đến nay, các biện pháp kiểm soát WSSV bao gồm cải thiện các điều kiện nhân giống và thực hành quản lý môi trường, sử dụng chế độ ăn uống theo công thức chuyên biệt để kích thích hệ thống miễn dịch của tôm và các thực hành khác.

Cho đến nay, không có thông tin được công bố về các ước tính của các thông số di truyền về khả năng kháng WSSV tại các thời điểm nhiễm bệnh khác nhau ở cá con của L. vannamei. Kiến thức về sự biến đổi gen trong tính kháng WSSV và mối quan hệ của nó với trọng lượng cơ thể ở các giai đoạn phát triển tăng trưởng khác nhau có thể cung cấp thông tin cơ bản để phát triển các biện pháp di truyền nhằm cải thiện các đặc điểm thương mại trong các chương trình chọn giống trong tương lai cho loài này.

Con tôm được sử dụng trong nghiên cứu này là từ thế hệ thứ ba của quần thể L. vannamei được chọn để tăng trưởng cao tại Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản số 3 (RIA3), tại Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam. Khi tôm đạt kích thước trung bình 2 gram, chúng được phân tích bằng PCR để phát hiện bốn mầm bệnh (IHHNV, YHV, TSV và AHPNV) để đảm bảo rằng cá con không bị bệnh. Tổng cộng có 30.000 con tôm từ 150 gia đình (200 con / gia đình) được đánh dấu và đo bằng trọng lượng và chiều dài cơ thể. Trong số này, 15.000 con tôm đã được sử dụng cho thử thách thách thức và nửa còn lại, 15.000 cá thể được giữ trong các hệ thống nuôi an toàn sinh học như một quần thể dự phòng.

Mặc dù tôm chết / chết được thu thập thường xuyên, việc ăn thịt đồng loại có thể xảy ra do sự thay đổi kích thước quần thể. Tôm lớn hơn có thể đã tiếp xúc nhiều hơn với mầm bệnh trong quá trình thử thách. Nhìn chung, đề xuất rằng lựa chọn cho tăng trưởng cao có thể không có tác động bất lợi đến nguy cơ mắc bệnh của dân số.

Xét về ý nghĩa thực tiễn và quan trọng đối với các chương trình nhân giống, với sự liên quan ngày càng tăng của bệnh với sản xuất thương mại của L. vannamei , việc phát triển các giống kháng bệnh được coi là một giải pháp hiệu quả trong phòng chống dịch bệnh.

Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng kháng WSSV là di truyền trong quần thể L. vannamei này, điều này cho thấy sự cải thiện di truyền trong kháng WSSV có thể đạt được bằng cách nhân giống chọn lọc. Mối tương quan di truyền của kháng WSSV giữa các lần nhiễm khác nhau là cao; do đó, việc lựa chọn có thể được tiến hành sớm, ví dụ, từ ba đến năm ngày sau thử thách để tiết kiệm chi phí liên quan đến việc nuôi và nuôi động vật, làm tăng hiệu quả của các chương trình nhân giống chọn lọc.

Nguồn : https://sinhhoctomvang.vn/

Cần Đước (Long An): 50% diện tích tôm nuôi bị nhiễm bệnh

Theo số liệu của Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Cần Đước, tỉnh Long An, nông dân trên địa bàn huyện xuống giống được khoảng 169ha tôm, tập trung tại các xã Long Hựu Đông, Long Hựu Tây và Tân Chánh,… Tuy nhiên, đến thời điểm này đã có khoảng 50% diện tích tôm thả nuôi bị nhiễm bệnh.

Nông dân cần thực hiện đúng quy trình chuẩn bị ao đầm, chọn giống đã qua kiểm tra để bảo đảm chất lượng và thả nuôi với mật độ phù hợp

Năm nay, do ảnh hưởng thời tiết, nhiệt độ giữa ngày và đêm chênh lệch cao, độ mặn quá cao dẫn đến tình trạng tôm kéo đàn, tôm bị bệnh phân trắng, đặc biệt là bệnh đốm trắng phát triển sớm hơn so cùng kỳ nhiều năm.

Để hạn chế dịch bệnh, nông dân cần thực hiện đúng quy trình chuẩn bị ao đầm, chọn giống đã qua kiểm tra để bảo đảm chất lượng và thả nuôi với mật độ phù hợp theo mô hình nuôi, không nên thả quá dày. Đối vối diện tích tôm đã thả nuôi, cần hạn chế việc lấy nước trực tiếp mà phải qua xử lý; cần tăng sức đề kháng cho tôm bằng việc bổ sung vitamin C, thuốc bổ,…

Đặc biệt, khi tôm bị nhiễm bệnh cần thông báo cho cơ quan chức năng hỗ trợ, xử lý, không tự động tháo ra bên ngoài làm lây lan dịch bệnh trên diện rộng./.

Kim Khánh

Nguôn tin: Báo Long An

Các tiêu chí kiểm tra tôm giống đạt chuẩn

Trong trại sản xuất tôm giống, để đưa ra các quyết định về phương pháp cho ăn, sử dụng chế phẩm vi sinh, thay nước, kháng sinh, chuyển bể hay xả bỏ hằng ngày thì việc đầu tiên là quan sát hoạt động ấu trùng tôm (khám lâm sàng).

Hoạt động khám lâm sàng gồm: hoạt động bơi, tính hướng quang; đường phân; ruột; đục cơ và tính đồng nhất về kích cỡ.

HOẠT ĐỘNG BƠI LỘI

Hoạt động bơi lội của ấu trùng thay đổi đặc trưng theo chu kỳ sống và là một trong những chỉ tiêu khám dễ thực hiện nhất. Zoea bơi nhanh, liên tục về phía trước và thường bơi theo vòng tròn để lọc ăn tảo,. Mysis bơi ngược với những cái búng đuôi không liên tục, để giữ cơ thể trong cột nước và ăn thực vật phù du, động vật phù du. Postlarvae bắt đầu bơi nhanh và liên tục về phía trước, tìm kiếm thức ăn trong cột nước.

Trong các chế độ bơi riêng biệt này, nếu quan sát ấu trùng đang bơi tích cực thì ấu trùng tôm khỏe mạnh.

TÍNH HƯỚNG QUANG

Ấu trùng giai đoạn Nauplius và Zoea được đánh giá qua tính hướng quang. Để kiểm tra điều này, chúng ta lấy một ấu trùng cho vào cốc thủy tinh bên cạnh nguồn sáng và quan sát. Nauplius và Zoea chất lượng tốt sẽ di chuyển mạnh về hướng ánh sáng thì ấu trùng khỏe, hoạt động tốt và ngược lại.

Trong giai đoạn Zoea I, khi Zoea đang ăn thức ăn chủ yếu là tảo, các đường phân dài có thể được nhìn thấy nối từ hậu môn và dưới dạng lỏng trong cột nước. Khi 90 – 100% ấu trùng có những đường phân dài, liên tục dọc theo ống tiêu hóa, qua cơ thể của chúng và tiếp tục ở bên ngoài, chúng được coi là cho ăn tốt và khỏe mạnh.

Còn nếu ấu trùng không có những đường phân dài này có nghĩa là ấu trùng không ăn. Tuy nhiên, trong giai đoạn Zoea này, nếu hội chứng Zoea II xảy ra thì tỷ lệ chết cao. Hội chứng Zoea II xảy ra khi Zoea I biến thái không thành công sang Zoea II hoặc Zoea II bị nhiễm khuẩn. Để phát hiện sớm hội chứng này, ấu trùng Zoea cần được soi dưới kính hiển vi với các dấu hiệu quan sát thấy như trống ruột và hạt trắng ruột.

ĐƯỜNG RUỘT

Có thể quan sát đường ruột trên ấu trùng lớn như một đường đậm kéo dài từ gan tụy ở vùng đầu ấu trùng về phía sau hậu môn. Giữ ấu trùng trong cốc thủy tinh và quan sát ruột. Việc kiểm tra này rất hữu ích để biết được khả năng ăn của ấu trùng và xác định được thức ăn dư hay thiếu. Hầu hết các ấu trùng tốt xuất hiện với ruột đầy và tối màu, nếu không thì chúng đang bị cho ăn thiếu hoặc bị bệnh.

Khoảng 20 – 50% số ấu trùng có thức ăn trong ruột thì cần phải kiểm tra các yếu tố khác nhau như môi trường nước, bệnh để có biện pháp xử lý kịp thời. Tuy nhiên, trong một số trường hợp vào giai đoạn Mysis, ruột tôm trống không rõ nguyên nhân, vì vậy cần phải kiểm soát chặt tất cả các yếu tố để phòng là tốt nhất.

DỊCH BỆNH

Khi quan sát ấu trùng tôm, hai dạng bệnh đục cơ thường được thấy xuất hiện trong các trại giống. Bệnh thứ nhất có biểu hiện hoại tử và trắng gan tụy và ruột giữa. Bệnh thứ hai biểu hiện đuôi trắng nơi nó uốn cong ở đốt bụng thứ ba, dần dần lan ra toàn bộ cơ thể cho đến khi gây chết. Sợi phân trắng được quan sát thấy nổi trong bể, bệnh này gây  tỷ lệ tử vong thấp hơn. Nếu không quan sát thấy bệnh đục cơ thì ấu trùng tôm khỏe mạnh; nếu bệnh quan sát xuất hiện từ 10% trở lên, quần thể xuất hiện đục cơ, nguy cơ bệnh rất cao.

Nguyên nhân chính xác của các bệnh này vẫn chưa rõ, nhưng có thể liên quan đến sự hiển diện của ký sinh trùng microsporidian và các dịch bệnh do virus như virus hoại tử tuyến ruột giữa (BMNV). Hầu như các biện pháp xử lý bao gồm kháng sinh đều vô tác dụng, bể cần được xả nhanh nhất có thể trước khi bệnh lây lan sang các bể khác. Phòng ngừa bệnh thông qua lựa chọn tôm bố mẹ sạch bệnh, khử trùng và xử lý nước thích hợp, làm sạch bể và sử dụng men vi sinh thay vì kháng sinh được khuyến nghị áp dụng.

Các chất trong đường ruột có thể được quan sát trong các giai đoạn ấu trùng lớn. Ruột có thể nhìn thấy như một đường tối kéo dài về phía sau từ gan tụy ở vùng đầu ấu trùng. Giữ ấu trùng trong cốc thủy tinh để quan sát ruột. Việc kiểm tra này rất quan trọng để biết được khả năng ăn của ấu trùng và xác định thức ăn dư hay thiếu. Hầu hết các ấu trùng khỏe mạnh có ruột đầy và tối màu.

KÍCH CỠ

Hầu hết, các ấu trùng lột xác tốt nhất ở trong một giai đoạn. Khi có nhiều giai đoạn lột xác trong một bể duy nhất nghĩa là có vấn đề (như bệnh hoặc chất lượng nguồn nước kém) cần được lưu ý. Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý thêm khi ấu trùng tôm lột xác, tính đồng nhất về kích cỡ sẽ giảm đi, do đó thời gian lấy mẫu xác định tính đồng nhất của giai đoạn này phải được xem xét hợp lý.

Ngoài ra, hiện tượng phát quang được quan sát trực tiếp của bể nuôi ấu trùng trong bóng tối hoàn toàn. Sự phát quang của ấu trùng nói chung là do sự hiển diện của vi khuẩn như Vibro harveyi. Nếu có các vi khuẩn có khả năng gây bệnh phải được xử lý ngay bằng chế phẩm vi sinh hoặc thay nước cho đến khi hết phát quang. Trường hợp nghiêm trọng và điều trị không hiệu quả, bể nên được xả nhanh chóng để tránh truyền nhiễm sang các bể khác, vì vi khuẩn này dễ dàng lây nhiễm dẫn đến tử vong hàng loạt.

Hà Nguyễn

Nguồn : http://nguoinuoitom.vn/

Hoa Kỳ điều tra hành vi lẩn tránh thuế với tôm xuất khẩu

Hoa Kỳ thông báo khởi xướng điều tra hành vi lẩn tránh thuế chống bán phá giá đang áp dụng biện pháp tạm thời với sản phẩm tôm xuất khẩu của Công ty cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú.

Chế biến sản phẩm tôm xuất khẩu tại nhà máy của Tập đoàn Thủy sản Minh Phú tỉnh Cà Mau. Ảnh: Vũ Sinh – TTXVN 

Cục Phòng vệ Thương mại (Bộ Công Thương), Cơ quan Hải quan và Bảo vệ biên giới Hoa Kỳ thông báo khởi xướng điều tra hành vi lẩn tránh thuế chống bán phá giá đang áp dụng cho tôm xuất khẩu của Ấn Độ; đồng thời áp dụng biện pháp tạm thời với sản phẩm tôm xuất khẩu của Công ty cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú (Công ty Minh Phú) và công ty liên kết tại Hoa Kỳ.

Do vậy, Bộ Công Thương đã phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan báo cáo Thủ tướng Chính phủ về vụ việc này và có văn bản đề nghị Công ty Minh Phú phối hợp làm rõ các thông tin liên quan.

Theo Cục Phòng vệ Thương mại, thực hiện Quyết định số 824/QĐ-TTg ngày 4 tháng 7 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường quản lý Nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ” và Nghị quyết số 119/NQ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ về một số biện pháp cấp bách nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phòng chống gian lận xuất xứ, chuyển tải hàng hóa bất hợp pháp, Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các Bộ, ngành, hiệp hội và doanh nghiệp để làm việc, trao đổi với phía Hoa Kỳ trên tinh thần nghiêm túc đấu tranh chống lại các hành vi gian lận thương mại; trong đó, có gian lận xuất xứ nhưng cũng đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của ngành nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu tôm của Việt Nam./.

Uyên Hương/BNEWS/TTXVN

Dám nghĩ, dám làm ắt thành công

(Thủy sản Việt Nam) – Anh Lê Trọng Nghĩa, xã Lộc An, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được biết đến là một trong 16 nông dân nuôi trồng thủy sản giỏi nhất cả nước năm qua. Thế nhưng, để có được kết quả này, anh cũng đã trải qua nhiều thất bại.

Những kinh nghiệm nền tảng

Khoảng năm 1994, khi mới ngoài 20 tuổi, vừa xuất ngũ trở về, anh Lê Trọng Nghĩa bắt đầu vào khai hoang vùng đất Lộc An. Sau vài năm cải tạo, anh đã có thành quả đầu tiên, đó là hơn 1 ha mặt nước ao nuôi cua biển.

Những ngày đầu lập nghiệp vô cùng gian nan. Anh Nghĩa nhớ lại, thời đó thiếu thốn đủ thứ, máy móc chẳng có như bây giờ, đào ao, đắp bờ cũng bằng tay, sức người hạn chế nên ao đào xong đều bị lũ cuốn trôi. Tiền vốn không có, tôi vay anh em để đầu tư. Sau thời gian miệt mài vất vả, cuối cùng anh cũng đã thành công trong lĩnh vực nuôi cua và được gắn với biệt danh “vua cua biển vùng Đất Đỏ”.

Thời thế thay đổi, đến những năm 2000, theo phong trào nuôi tôm của mọi người, anh cũng vào vùng đất Lộc An để đầu tư nuôi tôm. Mới tham gia nuôi tôm nên anh cũng chịu nhiều thất bại. Hiểu được nguyên nhân, anh quyết tâm tham gia học hỏi từ các lớp tập huấn khuyến nông, đồng thời tìm về các mô hình nuôi tôm khu vực miền Tây, Đông Nam bộ để học hỏi kinh nghiệm. Từ những đợt đi thực tế này, anh trở về và xây dựng đầm nuôi tôm của riêng mình với những kỹ thuật đào đầm, thả giống, chăm sóc… riêng. Nhờ có trang bị kiến thức tốt, thành công đã mỉm cười với anh.

Anh Lê Trọng Nghĩa kiểm tra tôm nuôi

 

“Chìa khóa” thành công

Anh Lê Trọng Nghĩa hiện đã sở hữu tài sản “kếch xù” với 14 ao nuôi tôm – cá trên tổng diện tích gần 5 ha. Ngoài cá chẽm, mỗi năm anh thu hoạch khoảng 60 – 70 tấn tôm sú, tôm thẻ chân trắng. Tùy theo giá thị trường, sau khi trừ chi phí, anh Nghĩa thu lãi vài tỷ đồng/năm, giải quyết việc làm thường xuyên cho hơn chục lao động.

Thành công là vậy nhưng anh Nghĩa cho rằng, việc nuôi tôm rất bấp bênh, cần có kinh nghiệm phát hiện sớm các triệu chứng khi tôm mắc bệnh, như bệnh do môi trường ô nhiễm từ các hộ nuôi xả thải ra, hay các hội chứng còi cọc trên tôm… Như năm 2013, tôm nuôi của anh và các hộ xung quanh bị bệnh đốm trắng. Từ kinh nghiệm của mình, anh đã thả nuôi tôm xen cá chẽm nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường ao nuôi. Kết quả, rủi ro trong nuôi tôm của anh Nghĩa giảm rõ rệt. Hiện, anh Nghĩa nuôi xen canh 2 đối tượng này mỗi vụ, “riêng cá chẽm mỗi vụ nuôi tôi cũng thu 40 – 50 tấn, lãi khoảng 500 – 600 triệu đồng”, anh Nghĩa cho biết.  Ông Phạm Văn Xum, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Đất Đỏ khi nói về anh Nghĩa đã khẳng định: Anh Nghĩa không chỉ ham học hỏi, nắm bắt được kỹ thuật nuôi trồng, mà còn là người có ý chí sắt đá. Từ những thất bại của bản thân, anh đã rút ra kinh nghiệm và có cách làm riêng của mình và đã thành công trên cương vị một người chủ và trở thành một trong 16 nông dân tiêu biểu của cả nước.

“Nhiều người nuôi tôm khác đã tìm đến học hỏi và được anh “truyền” hết kinh nghiệm, bí quyết, giúp họ cùng thành công. Hiện nay, chúng tôi đang có kế hoạch nhân rộng mô hình này ra toàn tỉnh, với hy vọng sẽ có nhiều nông dân tỷ phú như anh Nghĩa”, ông Xum cho biết thêm.

Kim Phượng

Nguồn : http://thuysanvietnam.com.vn/