Bạn tìm thông tin gì?

Blog

Cơ hội nào cho tôm Việt Nam sau dịch Covid-19?

Quý 1/2020, chưa vào vụ nuôi tôm chính, thị trường tiêu thụ mặt hàng này cũng chưa khởi động, nên ngành tôm Việt Nam gần như chưa gặp nhiều khó khăn như các ngành hàng khác trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát trên toàn thế giới. Tuy nhiên, nếu dịch Covid 19 vẫn kéo dài đến quý 2 thì điều này thực sự sẽ trở thành một thách thức không hề nhỏ cho ngành tôm Việt Nam.

Dịch bệnh kéo dài sẽ ảnh hưởng lớn đến thị trường Trung Quốc và lan tỏa đến các thị trường lân cận, tác động xấu đến các DN XK, như nguy cơ bị hủy đơn hàng do các nước thực hiện biện pháp hạn chế đi lại và đóng cửa kinh doanh, các mặt hàng XK có thể phải đối mặt với áp lực giảm giá.

Tuy nhiên, trước khi dịch bệnh bùng phát, ngành tôm Việt năm 2020 được đánh giá có nhiều cơ hội để tăng trưởng. Căng thẳng thương mại Mỹ – Trung khiến Mỹ tăng thuế đối với hàng hóa NK từ Trung Quốc, trong đó có thủy sản, tạo cơ hội cho nguồn cung từ các thị trường khác vào Mỹ, trong đó có Việt Nam.

Đồng thời, năm 2020 sẽ diễn ra nhiều sự kiện lớn như Thế vận hội Olympic Tokyo 2020, vòng chung kết Euro 2020, thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng thủy sản trên thị trường Nhật Bản và các nước châu Âu, đặc biệt là tôm, nên nhu cầu tiêu thụ tôm dự kiến tăng, tạo cơ hội cho các nhà XK tôm trên thế giới.

Mặc dù dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp nhưng các chuyên gia đều cho rằng dịch bệnh này đặt ra nhiều thách thức nhưng cũng tạo ra những cơ hội cho XK.

Dịch bệnh bùng phát tại Trung Quốc sẽ khiến nhiều thị trường lớn giảm nhập hàng hóa từ Trung Quốc. Doanh nghiệp thủy sản Việt Nam có thể tận dụng cơ hội này để tăng XK vào Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước châu Âu. Và khi XK có dấu hiệu không thuận lợi, DN có thể tập trung gia tăng thị phần ngay tại thị trường nội địa.

Trong điều kiện dịch Covid 19 đang hoành hành, mức tiêu thụ giảm, bà con nuôi tôm cũng có giải pháp chủ động nhằm vượt qua khó khăn trong bối cảnh dịch bệnh.

Thay vì nuôi tôm toàn bộ trên diện tích 20 ha, ông Lê Anh Tuấn, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, đã chủ động giảm số lượng nuôi xuống 20% so với năm ngoái.

Không dừng lại ở đó, ông Tuấn còn đang tiến hành nuôi tôm theo tiêu chuẩn an toàn, để có thể bán được con tôm ở bất kỳ thị trường nào.

Với sự đầu tư về con giống, công nghệ, quy trình nuôi bài bản, ông Tuấn đã thu về kết quả nuôi ngoài mong đợi: Kết quả tôm tôm đạt đầu con 80 ngày, tôm thu về size 40 con/kg, thu hoạch 15 ao, đạt sản lượng trên 200 tấn (Diện tích ao 2.500m2, mật độ thả 400 con/m2). Tôm đáp ứng các tiêu chuẩn sạch, chất lượng sẵn sàng xuất khẩu sang nhiều thị trường như Mỹ, Châu Âu và cả thị trường nội địa của Việt Nam. Bên cạnh đó, việc đa dạng sản phẩm, nuôi tôm đủ kích cỡ phù hợp với nhiều thị trường cũng được chú trọng.

Với các DN kinh doanh và sản xuất tôm, hiện nay cũng đã có những phương án, trong việc tìm kiếm thị trường khác như đẩy mạnh XK vào Nhật Bản, Mỹ và châu Âu. Đồng thời chung tay hỗ trợ người nuôi tôm bằng nhiều hình thức.

Hiện nay Tập đoàn Việt – Úc, đơn vị sản xuất tôm giống lớn nhất Việt Nam và đang có chính sách giảm giá bán tôm giống tối đa hỗ trợ cho người nuôi.

Ông Bùi Bá Sự – Phó TGĐ Kinh Doanh Tập đoàn Việt – Úc cho biết “Chúng tôi đã và đang có chính sách hỗ trợ tôm giống lớn nhất từ trước đến giờ, góp phần làm cho chi phí đầu vào giảm đáng kể. Thứ hai, người nuôi nên cân nhắc thả tôm bây giờ để đón đầu xu thế giá tôm sẽ tăng do thiếu hụt thực phẩm sau dịch bệnh. Thứ ba là tập trung vào nuôi tôm sạch, truy xuất nguồn gốc để xuất sang châu Âu khi Hiệp định Thương mại Tự do giữa 2 bên EVFTA đã được ký kết”.

Hiện có khoảng 70%-80% tôm Việt Nam xuất đi các nước Nhật Bản, Mỹ, Châu Âu. 30% còn lại ở Trung Quốc và Hàn Quốc. Dịch Covid 19 bùng phát tại Trung Quốc, sẽ khiến nhiều thị trường lớn giảm nhập hàng hóa từ Trung Quốc. DN thủy sản Việt Nam có thể tận dụng cơ hội này để tăng XK vào các nước khác trên thế giới, nhất là khi Hiệp định EVFTA bắt đầu có hiệu lực vào tháng 7 tới đây.

Theo ông Trương Đình Hòe – Tổng Thư ký Hiệp hội VASEP, cuối tháng 6, chúng ta thông thường vào mùa vụ, mùa tiêu thụ bắt đầu trên cơ sở sẽ bắt nhịp. Nếu dịch bệnh chấm dứt sớm hơn rõ ràng thuận lợi, mặc dù cũng rất khó dự đoán được tình hình hiện nay, tình hình dịch bệnh ở Trung Quốc cũng đang có chiều hướng kiểm soát tốt dần.

Bên cạnh đó, người nuôi phải thường xuyên theo dõi tình hình và trao đổi với người thu mua, DN để nắm bắt cụ thể nhu cầu để đảm bảo sau dịch có sẵn sàng nguồn nguyên liệu tốt nhất cung cấp cho thị trường.

Các chuyên gia cũng cho rằng, mặc dù có nhiều tín hiệu tích cực, tuy nhiên XK tôm Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức kể cả thị trường NK hay trong nội tại ngành. Do vậy, các DN cần tập trung xây dựng các liên kết chuỗi từ khâu đầu vào: con giống, thức ăn, chế biến, nhằm kiểm soát vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm cũng như nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường…

Với những nỗ lực chung của toàn ngành, hy vọng ngành thủy sản Việt Nam sẽ sớm vượt qua được khó khăn, sớm khôi phục lại tỷ trọng XK và đạt đúng kế hoạch đề ra.

Nguồn tin: Vasep

Thuế xuất khẩu tôm sang EU sẽ giảm mạnh

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), hầu hết tôm nguyên liệu nhập khẩu vào EU sẽ được giảm thuế từ mức 12-20% xuống 0% ngay khi hiệp định EVFTA có hiệu lực.

EU là thị trường nhập khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 20,5% trong tổng giá trị XK tôm của Việt Nam. Năm 2019, XK tôm Việt Nam sang thị trường EU đạt 689,8 triệu USD, giảm 17,7% so với năm 2018. Trong quý cuối cùng của năm 2019, XK tôm sang EU có chiều hướng tốt hơn, không giảm sâu như 3 quý đầu năm.

Các doanh nghiệp XK tôm kỳ vọng Hiệp định EVFTA dự kiến có hiệu lực vào tháng 7/2020 có thể tạo đà, mở rộng cửa cho tôm Việt Nam XK sang thị trường này trong năm 2020.

Theo EVFTA, thuế nhập khẩu hầu hết tôm nguyên liệu (tươi, đông lạnh, ướp lạnh) vào EU sẽ được giảm từ mức thuế cơ bản 12-20% xuống 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực, thuế nhập khẩu tôm chế biến sẽ về 0% sau 7 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực.

Về lợi thế cạnh tranh thuế nhập khẩu vào EU so với các nước sản xuất khác, lợi thế rõ rệt với tôm sú, tôm chân trắng đông lạnh XK khi tôm sú được giảm từ mức thuế GSP 4,2% về 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực, tôm chân trắng đông lạnh sẽ giảm dần về 0% sau 5 năm, trong khi Thái Lan không được hưởng GSP, không ký FTA, bị mức thuế cơ bản 12%, Ấn Độ không có FTA chịu thuế GSP 4,2%, Indonesia hưởng thuế GSP4,2%, Ecuador thuế cơ bản 12%.

Theo phân tích của VASEP, khu vực EU thu nhập đầu người cao, sản phẩm càng nhiều tiện ích càng được ưa chuộng, phân khúc thị trường cao cấp rộng, đủ dư địa các doanh nghiệp tôm Việt lựa chọn các hệ thống phân phối thuỷ sản vừa tầm cung ứng của mình. Năm 2020 diễn ra vòng chung kết Giải vô địch bóng đá các quốc gia châu Âu (UEFA Euro 2020), cũng có thể khiến nhu cầu tiêu thụ thủy sản bao gồm tôm trong khu vực tăng.

Nguồn: Báo Công Thương

Covid – 19: Đến tôm hùm Mỹ cũng phải điêu đứng

Tôm hùm
Ngư dân và con tôm hùm vừa bẫy được.

 

Covid – 19 bùng phát đã biến tôm hùm xa xỉ thành nỗi lo của ngư dân Mỹ.

Thị trường tôm hùm Mỹ bỗng nhiên lao đao

Những tháng đầu năm vốn là thời điểm nhu cầu tiêu thụ tôm hùm của Trung Quốc bùng nổ, nhưng dịch bệnh Covid-19 đã khiến Trung Quốc phải dừng nhập khẩu tôm hùm. Mất đi thị trường lớn nhất, giá tôm hùm ở Mỹ đã giảm mạnh xuống mức thấp nhất trong vòng 4 năm qua, khiến nông dân Mỹ điêu đứng.

Mỹ từng là nhà cung cấp tôm hùm sống chính cho Trung Quốc, nhưng người mua đã chuyển sang nguồn cung tương đối rẻ hơn từ Canada sau khi Bắc Kinh áp thuế trả đũa đối với thủy hải sản Mỹ vào năm 2018. Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung hòa hoãn, ngư dân và các công ty xuất khẩu tôm hùm Mỹ vừa thoát khỏi áp lực thuế quan thì dịch bệnh Covid-19 bùng phát khiến giá tôm hùm rớt xuống tận đáy, và tất nhiên – họ cũng đang đứng trước vực thẳm.

Một con tôm hùm đi dưới đáy đại dương gần một cái bẫy tôm hùm.

Giám đốc công ty tôm hùm The Lobster ở Arundel – ông Stephanie Nadeau ngao ngán cho biết, các đơn đặt hàng từ Hồng Kông từ 1.000 hộp mỗi tuần đã sụt giảm chỉ còn 120 hộp, mỗi hộp cân nặng 33 pound (1 pound khoảng 0,45kg). Tình trạng đã kéo dài kể từ cuối tháng 1 đến nay, công ty này cũng đã phải sa thải số lượng lớn công nhân.

Bị hạn chế bay sang châu Á, tôm hùm Canada đáp xuống Mỹ

Nhu cầu đối với tôm hùm Canada đã giảm xuống chỉ còn 5% bình thường. Canada thường thu được doanh số 1,5 triệu bảng mỗi tuần khi xuất khẩu thủy sản có vỏ đến Hàn Quốc và Trung Quốc. Nhưng khi các nước châu Á, đặc biệt là Trung Quốc thực thi chính sách hạn chế giao thương để ngăn chặn sự lây lan của virus, tôm hùm Canada đã tìm đường đi đến Mỹ. Giờ đây, thị trường Mỹ đang tràn ngập tôm hùm: tôm của chính mình và tôm từ Canada.

Dư thừa nguồn cung khiến giá tôm hùm giảm sâu. Hiện tại, giá tôm hùm ở Mỹ đã giảm 17% so với ngày 20/1, hiện ở mức 8,10 USD/pound, mức thấp nhất trong khoảng thời gian kể từ năm 2016. Đáng lẽ mùa này giá tôm hùm phải tăng cao do nguồn cung giảm trước khi vụ đánh bắt chính bắt đầu. Thời điểm này năm ngoái, tôm hùm giá 10,70 USD/pound, mức trung bình 10 năm ở mức 9,85 USD/pound.

Nuôi hy vọng ở những thị trường mới

Không chỉ Mỹ và Canada bị ảnh hưởng, Úc cũng bị tác động khi xem Trung Quốc là thị trường chính để xuất khẩu tôm hùm đá trong kế hoạch năm mới. Trong khi đó, New Zealand đang nghĩ đến chuyện sẽ cho phép thả tôm hùm đá trở lại tự nhiên sau khi Trung Quốc hủy đơn đặt hàng.

Để xử lý tôm hùm tồn kho, các công ty Mỹ đang hướng đến các thị trường khác ở châu Âu, Bắc Mỹ và Trung Đông, họ nuôi thêm hy vọng những thị trường mới sẽ chấp nhận đuôi tôm hùm và tôm hùm đông lạnh. Tuy nhiên, với diễn biến khó lường của Covid – 19, các thị trường khác cũng có nguy cơ trì trệ khi virus lây lan. Không ai có thể chắc chắn được nước nào sẽ bùng phát dịch tiếp theo, thị trường sẽ đóng băng bao lâu và mất bao nhiêu thời gian để phục hồi như trước.

Hoài An
Nguồn :https://tepbac.com/

Ninh Bình: Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi tôm thẻ chân trắng 3 vụ/năm

Ninh Bình: Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi tôm thẻ chân trắng 3 vụ/năm

kéo tôm
Thu hoạch tôm vụ đông

Những năm gần đây, ngành thủy sản Ninh Bình đang phát triển mạnh mẽ, trong đó nghề nuôi tôm thẻ chân trắng tại vùng ven biển huyện Kim Sơn có nhiều tiềm năng phát triển lớn. Diện tích nuôi trồng thủy sản huyện Kim Sơn là 3,315 ha trong đó diện tích nuôi tôm sú quảng canh cải tiến là 1,985 ha, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng bán thâm canh và thâm canh đạt 130 ha và 1,200 ha diện tích nuôi ngao.

Theo Ông Phạm Văn Hải – Trạm trưởng Trạm thủy sản Kim Sơn – Yên Khánh cho biết do Ninh Bình là một tỉnh thuộc phía Bắc nước ta chịu ảnh hưởng của khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia ra làm bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa đông nhiệt độ giảm xuống rất thấp dưới 10oC, mùa hè nhiệt độ tăng cao và kéo dài kèm theo mưa, bão kéo dài đã ảnh hưởng rất lớn đến nghề nuôi tôm thẻ thâm canh nói riêng và thủy sản nói chung tại huyện Kim Sơn.

Hiện nay, tại vùng ven biển huyện Kim Sơn nghề nuôi trồng thủy sản nói chung và nghề nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh chỉ thực hiện được 02 vụ/năm, bắt đầu từ tháng 4 dương lịch và kết thúc vào tháng 11 dương lịch hàng năm, điều này đã làm hạn chế thế mạnh mũi nhọn của huyện Kim Sơn, sản lượng thủy sản sản xuất ra cũng như hiệu quả kinh tế đem lại chưa tương xứng với thế mạnh của vùng.

Công ty TNHH Tân Vân đã ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, sử dụng hình thức nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh trong nhà mái che kết hợp với áp dụng công nghệ Biofloc, thực hiện quy trình nuôi không thay nước, xử lý nước nhanh để thực hiện nuôi tôm thể chân trắng 3 vụ/năm. Công ty đã thực hiện nuôi tôm thẻ chân trắng với mật độ từ 150 – 170 con/m2 tại 06 ao trong 02 năm 2018 và 2019. Sau 02 năm thực hiện sản lượng tôm thu được trên 90 tấn/03 vụ/năm đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho công ty, tăng cao thu nhập cho người lao động, thúc đẩy nghề nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh tại vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn phát triển, phát huy được tiềm năng và thế mạnh của vùng.

Để các hộ nuôi tôm tại vùng ven biển huyện Kim Sơn có thể nuôi được 03 vụ/năm đạt hiệu quả cao thì cần sự quan tâm của các cấp các ngành nghiên cứu thực nghiệm để có được quy trình kỹ thuật hoàn chỉnh phù hợp với điều kiện của vùng, quy hoạch vùng nuôi tôm thâm canh tập trung, liên kết tiêu thụ sản phẩm, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến mới… giúp cho nghề nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh phát triển bền vững.

Trung Tiến Chi cục thủy sản Ninh Bình

Nhập khẩu tôm của Trung Quốc dự kiến giảm mạnh trong quý I/2020

Theo số liệu của ITC, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu tôm đứng thứ 3 trên thế giới, chiếm 7,5% tổng NK tôm của toàn thế giới năm 2018. Năm 2018, Trung Quốc vươn lên vị trí 3 thế giới về NK tôm từ vị trí thứ 6 những năm trước đó. Năm 2019, Trung Quốc vượt Mỹ trở thành nước NK tôm lớn nhất thế giới về khối lượng.

Nhu cầu NK tôm để tiêu thụ trong nước và chế biến tái XK của Trung Quốc những năm gần đây liên tục tăng. Tôm luôn là sản phẩm được quan tâm nhiều nhất trong các hội chợ triển lãm về thủy sản ở Trung Quốc.

Năm 2019, NK tôm của Trung Quốc tăng mạnh so với các năm trước đó. Ngành nuôi tôm nội địa của Trung Quốc sụt giảm do dịch bệnh trong khi tiêu thụ trong nước tăng. Theo số liệu của Hải quan Trung Quốc, năm 2019, NK tôm của Trung Quốc đã tăng gần gấp 3 lần, đạt 718.000 tấn, vượt Mỹ trở thành nước NK tôm lớn nhất thế giới về khối lượng. Giá trị NK đạt 4,44 tỷ USD.

Năm 2019, NK trực tiếp tôm nước ấm của Trung Quốc (chủ yếu là tôm nuôi) tăng mạnh nhất, tăng 237% đạt 649.000 tấn. NK tôm nước lạnh tăng 6% đạt 56.000 tấn. Tôm nước lạnh NK vào Trung Quốc chủ yếu là tôm pandalus Borealis khai thác ở phía bắc Đại Tây Dương.

Ecuador và Ấn Độ là các nguồn cung cấp tôm nước ấm lớn nhất cho Trung Quốc, chiếm gần ¾ tổng NK mặt hàng này của Trung Quốc năm 2019. Việt Nam đứng thứ 4 về cung cấp tôm nước ấm cho Trung Quốc, chiếm 5,4% tổng khối lượng NK tôm vào Trung Quốc.

Năm 2019, khối lượng NK tôm vào Trung Quốc từ Ecuador đạt 322.636 tấn, tăng 324% so với năm 2018 trong khi giá trị NK tăng 285% đạt 1,85 tỷ USD.

NK tôm đông lạnh vào Trung Quốc từ Ấn Độ tăng 346% đạt 155.027 tấn trong khi giá trị NK tăng 337% đạt 904 triệu USD. Hầu hết tôm Ấn Độ được bỏ đầu ở Ấn Độ trước khi được chế biến thêm tại các nhà máy Trung Quốc.

Năm 2019, giá NK trung bình tôm nước ấm đông lạnh từ các nguồn cung cho Trung Quốc đều giảm so với năm 2018. Giá NK trung bình mặt hàng này từ Việt Nam đạt 7,3 USD/kg, giảm 23% so với 2018. Giá NK từ Ecuador và Ấn Độ lần lượt đạt 5,73 và 5,83 USD/kg, giảm lần lượt 9% và 2%.

Năm 2019, nguồn cung tôm nước lạnh lớn nhất của Trung Quốc là Canada (27.529 tấn), tiếp đó Greenland (15.400 tấn), Nga (3.877 tấn) và Đan Mạch (3.007 tấn).

Quý I/2020, NK tôm của Trung Quốc dự kiến giảm mạnh do ảnh hưởng của dịch Covid-19 bùng phát tại Vũ Hán, Trung Quốc cuối tháng 12/2019. NK tôm vào Trung Quốc từ Ecuador, Ấn Độ, Việt Nam, Indonesia, Thái Lan 2 tháng đầu năm 2020 đều đồng loạt giảm. Nhu cầu tiêu thụ tại Trung Quốc giảm do các nhà hàng đóng cửa, người dân hạn chế đi lại, khách du lịch vắng bóng; lưu thông, vận chuyển hàng hóa, tiếp nhận nhập cảng bị đình trệ.

Mặc dù rất khó dự đoán về diễn biến tiếp theo của dịch Covid-19, nhưng sau đợt dịch này, dự kiến nhu cầu thủy sản của Trung Quốc trong đó có tôm sẽ tăng vì nguồn cung thịt gà, thịt lợn giảm. Tiêu thụ và NK mặt hàng tươi, sống sẽ sụt giảm do cảnh báo về những nguy cơ dịch bệnh từ động vật sống, tạo cơ hội cho các sản phẩm tôm chế biến sẵn, sản phẩm đông lạnh, đáp ứng nhu cầu thương mại điện tử, mua hàng online của các hộ gia đình và các điểm bán lẻ tại thị trường trong nước. Dịch Covid 19, cúm gia cầm, dịch tả lợn, nạn châu chấu sẽ khiến cho sản xuất nông nghiệp của Trung Quốc sụt giảm, mức sống của người dân giảm, chi tiêu cho thực phẩm cao cấp sẽ hạn chế, tạo cơ hội cho phân khúc sản phẩm giá phải chăng như tôm chân trắng đông lạnh.

Giao thương của Trung Quốc tê liệt do dịch Covid-19 nên Trung Quốc đưa ra chính sách mới thúc đẩy NK bằng cách giảm thuế cho các sản phẩm NK, bao gồm cả thủy sản, cũng tạo điều kiện cho NK tôm vào Trung Quốc tăng sau đợt dịch bệnh này.

Nguồn: VASEP

Kiên Giang: Đẩy mạnh phát triển tôm nuôi nước lợ

Những tháng đầu năm 2020, thủy sản nuôi trồng của Kiên Giang tăng trưởng khá, nhất là tôm nuôi nước lợ.

Diện tích thả nuôi tôm của Kiên Giang tăng mạnh

Kiên Giang là tỉnh nằm ven biển Tây, với chiều dài bờ biển hơn 200 km. Đây là điều kiện thuận lợi để tỉnh phát triển nghề nuôi tôm nước lợ. Nhiều năm qua, ngành nông nghiệp tỉnh đã quy hoạch vùng nuôi và đầu tư cơ sở hạ tầng cho phát triển nghề nuoi tôm nước lợ.

Theo đó, ven biển các huyện vùng U Minh Thượng, gồm An Biên, An Minh, U Minh Thượng, Vĩnh Thuận và một phần huyện Gò Quao sẽ phát triển mô hình nuôi luân canh tôm – lúa theo hình thức quảng canh và quảng canh cải tiến. Diện tích nuôi tôm khu vực này khoảng 80.000 ha. Ngoài ra, khu vực ven biển, cặp theo quốc lộ 80, trải dài từ huyện Hòn Đất đến Kiên Lương cũng đang được chuyển đổi từ đất 2 vụ lúa/năm sang luân canh tôm – lúa, với diện tích có khả năng chuyển đổi khoảng 20.000 ha.

Người nuôi tôm tại Kiên Giang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vào sản xuất, hạn chế những tác động bất lợi từ môi trường

Khu vực Tứ giác Long Xuyên, gồm các huyện: Kiên Lương, Giang Thành và TP Hà Tiên là vùng tập trung nuôi tôm thâm canh công nghiệp và nuôi công nghệ cao. Nhiều doanh nghiệp đã chọn vùng đất này để nuôi tôm thâm canh, đầu tư khá bài bản. UBND tỉnh Kiên Giang cũng đã có quyết định công nhận vùng nông nghiệp công nghệ cao đối với diện tích nuôi tôm của Cty CP Thủy sản Trung Sơn tại đây.

Từ đầu năm đến nay toàn tỉnh đã thả nuôi được 104.245/130.700 ha tôm nước lợ. Trong đó, nuôi theo mô hình tôm – lúa là 80.711 ha, nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến 22.826 ha. Đáng chú ý là nuôi thâm canh công nghiệp, với diện tích thả nuôi là 708 ha, chủ yếu là nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng.

Không chỉ tăng về diện tích thả nuôi mà sản lượng tôm thu hoạch của tỉnh những tháng đầu năm cũng đạt khá cao, đạt 9.337 tấn. Vì vậy, nguồn tôm nguyên liệu phục vụ cho các nhà máy chế biến khá dồi dào, không lo thiếu hụt. Giá tôm nguyên liệu ổn định ở mức cao, tôm sú loại 30 con/kg giá 180-190 ngàn đồng/kg, tôm thẻ chân trắng loại 100 con/kg, giá 90-95 ngàn đồng/kg.

Sản lượng thu hoạch tôm nuôi của Kiên Giang tăng mạnh, đã phần nào bù đắt sản thủy sản đang bị sụt giảm

Với giá này, người nuôi đạt lợi nhuận khá nên rất phấn khởi. Ông Nguyễn Hoàng Vương, một hộ nuôi tôm công nghiệp tại huyện Kiên Lương cho biết, năm nay thời tiết tương đối thuận lợi cho nghề nuôi tôm. Hơn nữa, với việc đầu tư công nghệ, nuôi tôm trong ao lót bạt hoặc nuôi trong hồ nổi, có mái che nên cũng ít bị ảnh hưởng các yếu tố môi trường. Từ đầu năm đến nay, gia đình tôi đã thả nuôi được 1 đợt đạt hiệu quả. Nhờ giá tôm ổn định nên lợi nhuận đợt nào cũng đạt khá. Tôi đang tiếp tục vèo tôm giống, chuẩn bị thả ra nuôi diện rộng.

Theo nhận định, nguồn lợi thủy sản tự nhiên tiếp tục suy giảm, gây ảnh hưởng lớn đến ngành khai thác đánh bắt, sản lượng thủy sản sẽ giảm theo. Từ thực tế đó, Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang Phạm Vũ Hồng đã chỉ đạo ngành nông nghiệp “tăng cường sản xuất tập trung lĩnh vực nuôi trồng, đặc biệt là nuôi tôm nước lợ, nhất là nuôi tôm công nghiệp, nuôi tôm hộ gia đình, đẩy mạnh nuôi biển… để tăng sản lượng thủy sản, phục vụ chế biến xuất khẩu.

Đ.T.CHÁNH
Nguồn :http://nguoinuoitom.vn/

Chủ động san thưa mật độ tôm hùm nuôi

Theo Tổng cục Thủy sản, kết quả quan trắc môi trường vùng nuôi tôm hùm tại một số tỉnh trọng điểm khu vực Nam Trung bộ thời gian qua cho thấy, chất lượng môi trường vùng nuôi bắt đầu xu hướng giảm, dự báo sẽ ảnh hưởng đến tôm hùm nuôi lồng.

Dự báo từ nay đến tháng 6, một số yếu tố môi trường sẽ biến động mạnh, như: hàm lượng DO giảm cục bộ, N-NH3 tăng mạnh vượt ngưỡng từ 1,1 – 1,5 giá trị cho phép, mật độ vi khuẩn Vibrio và tảo độc có xu hướng tăng cao.

Ngư dân chăm sóc tôm hùm ở các lồng bè   Ảnh: Quang Đức

Ảnh minh họa

Để tránh ảnh hưởng không tốt đến sinh trưởng và phát triển của tôm hùm nuôi, Tổng cục Thủy sản đề nghị Sở NN&PTNT các tỉnh/thành phố ven biển Nam Trung bộ chỉ đạo các đơn vị chức năng liên quan bám sát thực tế, hướng dẫn, chỉ đạo người nuôi thả tôm hùm theo đúng quy định, thực hiện đăng ký lồng bè. Tổ chức rà soát, bố trí vị trí nuôi lồng bè đảm bảo mật độ lồng nuôi phù hợp, đúng quy hoạch của địa phương, theo các khuyến cáo tại các bản tin thông báo kết quả quan trắc môi trường của Viện Nghiên cứu NTTS III; Duy trì mật độ lồng nuôi phù hợp 30 – 60 lồng/ha; khoảng cách giữa các cụm lồng nuôi của các hộ cách nhau tối thiểu là 50 m; chủ động san thưa mật độ tôm trong lồng, đặc biệt là tôm cỡ trên 200 g/con.

Cùng đó, đối với tôm hùm đã đến kỳ thu hoạch nhưng chưa xuất bán được, khuyến cáo người nuôi cần chủ động các biện pháp để kéo dài thời gian nuôi dưỡng, lựa chọn thức ăn, khẩu phần ăn phù hợp để giảm chi phí và duy trì chất lượng tôm; đồng thời theo dõi sát thị trường để thu hoạch vào thời điểm thích hợp. Tổ chức xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tôm hùm chất lượng, an toàn truy xuất được nguồn gốc…

Bảo Hân

Nguồn : Thủy sản Việt Nam