Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Thị Trường Tôm

Thị trường thắt chặt, thủy sản Việt gặp khó

(Thủy sản Việt Nam) – Năm 2019, trong khi xuất khẩu hải sản có bước tăng trưởng đáng kể thì hai sản phẩm chủ lực của thủy sản Việt Nam là tôm và cá tra đều giảm, khiến kế hoạch cả năm không hoàn thành. Nguyên nhân được cho là do biến động từ một số thị trường trọng điểm.

Thị trường biến động

Tổng cục Thủy sản cho biết, kim ngạch xuất khẩu thủy sản 10 tháng đầu năm 2019 ước đạt 7,084 tỷ USD, giảm 2% so cùng kỳ năm 2018. Trong đó tôm đạt 2,78 tỷ USD giảm 6,4% và cá tra đạt 1,64 tỷ USD giảm 10%. Còn hải sản trên 2,66 tỷ USD tăng 10% với các sản phẩm tăng cao là cá ngừ 609,6 triệu USD tăng 12,7%; cua, nghẹ, giáp xác khác 117,7 triệu USD tăng 11,5%; các loại cá khác 1,376 tỷ USD tăng 17%.

Xuất khẩu tôm giảm do một số nước trong khu vực như Ấn Độ, Ecuador … tiếp tục được mùa tôm, giá thành sản xuất thấp, nguồn cung dồi dào. Thị trường nhập khẩu tăng rào cản kỹ thuật: Trung Quốc siết chặt quản lý nhập khẩu biên mậu; tăng kiểm soát chất lượng, ATTP và truy xuất nguồn gốc trong khi nhiều doanh nghiệp nước ta chủ quan, chưa đáp ứng yêu cầu.

Đối với cá tra, kim ngạch xuất khẩu đi một số thị trường lớn như Mỹ, Trung Quốc bắt đầu giảm từ tháng 3/2019 do dự trữ hàng hóa khá nhiều từ cuối năm 2018. Trong nước, giá cá tra nguyên liệu duy trì ở mức cao liên tục 2 năm 2017 – 2018 đã khuyến khích sản xuất làm tăng nguồn cung, tạo xu hướng giảm giá do dư cung. Một số quốc gia như Indonesia, Trung Quốc, Bangladesh đã đầu tư phát triển cá tra, đặc biệt Indonesia bắt đầu xây dựng, quảng bá dòng cá tra sạch và chiếm lĩnh thị trường Trung Đông. Còn thị trường Ả rập – Saudi vẫn đóng cửa đối với thủy sản Việt Nam, trong đó có cá tra.

Xuất khẩu sản phẩm từ khai thác hải sản tăng mạnh so với năm 2018 do các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu có giải pháp duy trì các thị trường truyền thống (Nhật, Hàn Quốc); tìm kiếm, mở rộng thị trường mới. Có những thị trường tăng trưởng vượt bậc như cá ngừ vào thị trường Trung Quốc tăng 135%, Mỹ 58%, riêng thị trường Mỹ đã chiếm gần 44% kim ngạch xuất khẩu của ngành hàng này.

Xuất khẩu cá tra không đạt kỳ vọng – Ảnh: ST

Thận trọng

VASEP dự báo cả năm 2019, xuất khẩu tôm 3,4 tỷ USD, giảm 5% so với năm 2018; xuất khẩu cá tra 2,06 tỷ USD, giảm 9%. Còn hải sản tiếp tục tăng trưởng để có thể cạnh tranh vị trí hàng đầu với tôm.

Phân tích của VASEP, tôm xuất khẩu giảm các tháng đầu năm, từ quý III/2019 đã phục hồi nhẹ gần 1% so cùng kỳ năm ngoái, sang tháng 10 tiếp tục tăng. Tính trong 9 tháng đầu năm, các thị trường điển hình tăng là Trung Quốc 7,2%, Mỹ 1%, Australia 7,3%, Đài Loan 13,9%. Đặc biệt ở thị trường Trung Quốc, tôm chân trắng tăng từ tháng 6 theo chính ngạch qua đường biển gấp khoảng 1,5 lần so với tháng trước, xu hướng này tiếp tục những tháng cuối năm; còn tôm sú hiện nay Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm 32% tổng giá trị xuất khẩu tôm sú nước ta.

Cá tra cũng phục hồi mạnh ở thị trường Trung Quốc, quý III/2019 đạt 198,3 triệu USD tăng 56,6% so với cùng kỳ. Đến nay, thị trường cá tra đứng đầu là Trung Quốc đã bỏ xa Mỹ và EU, với 450,7 triệu USD trong 9 tháng đầu năm, tăng 19,6% so với cùng kỳ. Trước đây, Việt Nam chỉ xuất khẩu cá tra nguyên con tới một số tỉnh biên giới phía Nam Trung Quốc, nay sản phẩm cá tra fillet đã có mặt tại những thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải và Đại Liên. Nhu cầu tiêu thụ của Trung Quốc sẽ còn cao hơn nữa.

Qua biến động, VASEP cho rằng, xuất khẩu tôm sang thị trường Mỹ cần thống nhất duy trì tốc độ tăng trưởng không quá lớn so với tốc độ phát triển của ngành. Nếu không, rủi ro về bị áp thuế có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, từ Chính phủ Mỹ hoặc từ nguyên đơn. Đòi hỏi sự chia sẻ vì quyền lợi chung, không vì lợi ích ngắn hạn làm ảnh hưởng toàn ngành.

Còn cá tra, cũng theo VASEP, cần có chiến lược quốc gia xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc, khi thị trường đã chiếm 32% giá trị xuất khẩu cá tra Việt Nam và dự báo có thể tăng lên 35 %. Lệnh cấm tôm từ Ecuador vào Trung Quốc khiến ngành tôm nước này chấn động khi 50% sản lượng tôm Ecuador xuất khẩu sang Trung Quốc có thể xem là lời cảnh báo cho ngành cá tra nếu không có chiến lược lâu dài.

Cần tính toán kỹ lưỡng

Để thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu trong tháng còn lại của năm, Bộ Công thương cho rằng, cần tận dụng mọi cơ hội cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, kiểm soát nhập khẩu vào Việt Nam và xử lý các vấn đề về lẩn tránh thuế, gian lận xuất xứ hàng hóa trong hoạt động xuất, nhập khẩu với thị trường Mỹ, Trung Quốc và cả các quốc gia khác. Bộ cũng khuyến cáo các doanh nghiệp cần tính toán kỹ lưỡng trong các giải pháp thúc đẩy đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất, xuất khẩu, tránh việc phát triển “quá đà”, dễ rơi vào tình trạng bị động, dư thừa sản lượng khi Mỹ và Trung Quốc đạt được thỏa thuận xuất khẩu trở lại.

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến cũng đề nghị các cơ quan, đơn vị, địa phương, doanh nghiệp và người sản xuất thủy sản tập trung triển khai một số nội dung trọng tâm. Cụ thể là đánh giá diễn biến thị trường, đề xuất giải pháp, kịp thời thông tin, tuyên truyền để người dân biết, có kế hoạch sản xuất phù hợp. Tăng cường kiểm soát dịch bệnh trên thủy sản nuôi và công tác kiểm dịch trong xuất nhập khẩu tôm nguyên liệu, tăng cường xây dựng, phát triển vùng nuôi tôm an toàn dịch bệnh. Kiểm soát tốt chất lượng, ATTP thủy sản nguyên liệu; kiểm soát tạp chất, tồn dư hóa chất, kháng sinh trong sản phẩm tôm, góp phần đảm bảo uy tín của ngành tôm Việt Nam. Khuyến khích phát triển sản xuất thủy sản theo hướng liên kết chuỗi và áp dụng các hình thức nuôi có chứng nhận: VietGAP, GlobalGAP, ASC…

>> Theo Tổng Thư ký VASEP Trương Đình Hòeối với ngành hàng tôm, yêu cầu trước mắt lẫn dài hạn là phải tạo ra nguồn tôm sạch có chứng nhận với giá cạnh tranh. Cần sắp xếp lại vùng nuôi, tạo nên các trang trại, hợp tác xã nuôi quy mô lớn theo chuẩn nuôi quốc tế có chứng nhận. Yêu cầu dài hạn phải xây dựng cho được thương hiệu tôm Việt.

Thanh Hải

Nguồn :Thủy sản Việt Nam

Vượt lên chính mình để nắm bắt cơ hội

Vụ tôm nước lợ năm 2019 được đánh giá là có nhiều biến động nhất, khiến cho những dự báo của doanh nghiệp về sản lượng, thị trường gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên, vượt lên trên tất cả, ngành tôm cả nước nói chung và Sóc Trăng nói riêng cũng kịp về đích và hiện tất cả đang nỗ lực cho vụ tôm mới với những kỳ vọng cao hơn.

Nhiều doanh nghiệp chế biến tôm Việt Nam đều thuộc top đầu thế giới là thuận lợi lớn cho con tôm Việt Nam trên thị trường.

Ngay khi còn trong giai đoạn cải tạo ao, nhiều dự báo đã cho thấy vụ tôm năm 2019 sẽ trúng mùa khi các yếu tố về thời tiết, môi trường đều khá thuận lợi. Và thực tế đã chứng minh những dự báo trên là hoàn toàn chính xác khi hầu hết các vùng nuôi tôm ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đều trúng mùa. Tại Sóc Trăng, theo báo cáo từ Chi cục Thủy sản tỉnh, sản lượng tôm năm nay đạt trên 150.000 tấn, dù diện tích thả nuôi chỉ vào khoảng 57.000ha. Một số tỉnh có diện tích nuôi tôm lớn ở ĐBSCL như: Bạc Liêu, Kiên Giang, Cà Mau… đều ghi nhận có sản lượng tôm nuôi tăng so với năm 2018. Đánh giá về tình hình vụ nuôi, ông Trần Công Khôi – Phó Vụ trưởng Vụ Nuôi trồng thủy sản cho biết: “Sản lượng tôm năm nay đúng ra sẽ tăng rất cao nếu như giá tôm những tháng đầu năm không xuống thấp và bệnh EHP không xuất hiện ở giai đoạn gần cuối vụ nuôi chính. Tuy nhiên, vụ tôm năm nay vẫn được đánh giá là thành công với sản lượng ước khoảng 860.000 – 870.000 tấn”.

Không chỉ có sản lượng tăng, mà chất lượng tôm nuôi cũng được nâng lên đáng kể, như nhận xét của ông Hà Hữu Tri – Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thủy sản Sóc Trăng (Stapimex): “Năm nay tình hình nuôi tôm khá thuận lợi và chất lượng tôm nuôi cũng tốt hơn, nên hầu như không có doanh nghiệp xuất khẩu tôm nào bị trả hàng như những năm trước. Điều này cùng với việc thế giới thiếu hụt nguồn cung đã làm cho giá tôm tăng mạnh trở lại, nhất là từ tháng 9 đến nay, trong đó, tôm ở size từ 40 con/kg trở về lớn có giá tăng mạnh nhất, do được tiêu thụ tốt tại các thị trường”.

Năm 2019, phần lớn người nuôi tôm trúng mùa nên sản lượng tôm cả nước vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng dù chỉ 1 con số.

Tuy nhiên, niềm vui của người nuôi tôm và doanh nghiệp xuất khẩu không được trọn vẹn do giá tôm thế giới và trong nước cứ liên tục giảm mạnh trong hơn 7 tháng đầu năm và dịch bệnh xuất hiện làm cho việc thả nuôi có phần chững lại và gây thiếu hụt nguyên liệu lúc cuối vụ, nên dù sản lượng tôm vẫn tăng, nhưng giá trị xuất khẩu tôm cả nước ước tính chỉ đạt 3,6 tỉ USD, tức giảm khoảng 600 triệu USD so với kế hoạch. Tuy không đạt kế hoạch xuất khẩu, nhưng về tổng thể, hoạt động của các doanh nghiệp tương đối ổn định và có lãi; người nuôi cũng không quá bấp bênh như những năm trước.

Theo đánh giá, lực lượng nuôi tôm hiện nay cũng khá chuyên nghiệp, điều đó được thể hiện qua việc họ chỉ thả nuôi khi điều kiện nuôi và thị trường thuận lợi, bởi chu kỳ của vụ nuôi tôm thẻ là khá ngắn. Chỉ có điều họ đang thiếu vốn và thiếu sự liên kết lẫn nhau, kể cả với doanh nghiệp, nên tính hiệu quả và bền vững chưa cao. Vì vậy, làm sao đẩy mạnh công tác chất lượng trong xuất khẩu tôm, tổ chức lại sản xuất quy mô trang trại, HTX để có điều kiện đầu tư hoàn thiện cơ sở vật chất, ứng dụng khoa học công nghệ, giúp giảm thiểu rủi ro, nâng cao an toàn sinh học và tỷ lệ thành công.

Cũng theo các doanh nghiệp, nhu cầu thị trường tôm thế giới hàng năm tăng chưa đến 5%, nên trên cơ sở đó, mục tiêu xuất khẩu thủy sản năm 2020 vẫn là 10 tỉ USD, trong đó con tôm vào khoảng 4 – 4,2 tỉ USD cũng đã là một nỗ lực. Còn theo ông Hồ Quốc Lực – Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta, các doanh nghiệp tôm của Việt Nam hiện ở top của thế giới, nên nếu tôm của chúng ta tốt thì vấn đề tiêu thụ không phải là quá lớn, dư địa để tăng trưởng là hoàn toàn có thể thực hiện được ở mức độ cho phép. Ngoài ra, sức tiêu thụ tôm năm 2020 cũng có khả năng tăng cao hơn nhờ vào 2 sự kiện thể thao quốc tế lớn là: Thế vận hội mùa hè Tokyo 2020 và vòng chung kết Giải vô địch bóng đá các quốc gia châu Âu (UEFA Euro 2020).

Nhận định về thị trường xuất khẩu tôm năm 2020, các doanh nghiệp đều nghiêng về yếu tố thuận lợi nhiều hơn. Thuận lợi trước tiên được các doanh nghiệp nhắc đến chính là thuế suất chống bán phá giá tại thị trường Hoa Kỳ đã về 0%. Thứ hai là Hiệp định EVFTA khả năng có hiệu lực từ tháng 6-2020, sẽ giúp tăng trưởng xuất khẩu tôm vào thị trường châu Âu nhờ lợi thế về thuế suất. Thứ ba là thị trường Trung Quốc hiện từ 75 – 80% hàng hóa thủy sản chúng ta đã xuất khẩu chính ngạch là yếu tố quan trọng giúp cho việc hồi phục và tăng trưởng xuất khẩu tôm vào thị trường này trong thời gian tới. Liên quan đến việc liệu có diễn ra sự cạnh tranh nội bộ hay không ở thị trường châu Âu khi EVFTA có hiệu lực, ông Lực cho biết: “Cạnh tranh vốn dĩ là bản chất của thương trường mà ở đó, các doanh nghiệp luôn đối đầu cạnh tranh nội bộ lẫn từ các cường quốc tôm. Do đó, muốn có năng lực cạnh tranh tốt, doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh bài bản, lấy phát triển bền vững làm mục tiêu hàng đầu; đồng thời coi trọng chọn lựa tôm nguyên liệu sạch, có thể truy xuất nguồn gốc và chú trọng xây dựng thương hiệu…”.

Tích Chu

Nguồn : Báo Sóc Trăng

Ngành tôm và những kỳ vọng mới

(Thủy sản Việt Nam) – Ngành tôm trải qua một năm 2019 nhiều thăng trầm, với những khó khăn nội tại và thách thức. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu không đạt như kỳ vọng, nhưng đây vẫn là mặt hàng được nhận định có nhiều điểm sáng trong năm 2020.

Bài toán khó từ con giống

Là quốc gia có ngành tôm phát triển trên thế giới, nhưng Việt Nam hiện vẫn chưa hoàn toàn làm chủ công nghệ chọn tạo, gia hóa, chưa thể chủ động cung ứng giống. Mỗi năm, vẫn phải nhập khẩu khoảng 90% tôm chân trắng bố mẹ, còn tôm sú bố mẹ một phần vẫn phải thu gom từ tự nhiên. Đại diện Tổng cục Thủy sản cho biết, cả nước có 2.457 cơ sở sản xuất giống tôm nước lợ, trong đó 1.855 cơ sở sản xuất giống tôm sú và 602 cơ sở sản xuất giống TTCT; số lượng giống sản xuất 100,3 tỷ con (tôm sú 23,5 tỷ con; TTCT 76,8 tỷ con). Tính đến 31/11/2019, Việt Nam đã nhập 180.170 con tôm bố mẹ, tương đương với cùng kỳ năm 2018; tôm bố mẹ được nhập khẩu chủ yếu từ Mỹ và Thái Lan. Ngoài ra, Việt Nam mới chỉ có giống tôm sạch bệnh phục vụ nuôi công nghiệp, chưa có con giống kháng bệnh phục vụ cho nuôi quảng canh. Một phần tôm giống từ các tỉnh Nam Trung bộ không có nguồn gốc rõ ràng, chưa qua kiểm dịch. Khu vực nuôi tôm quảng canh rộng lớn đang cần có những đột phá về con giống (cần con giống có khả năng kháng bệnh, tăng trưởng nhanh) và về giải pháp kỹ thuật, khoa học công nghệ.

Cùng với đó, hiện cả nước có rất nhiều doanh nghiệp cung cấp sản phẩm thức ăn, thuốc dùng trong nuôi tôm; nhưng chất lượng chưa đồng đều và thực tế sản xuất cho thấy, người nuôi chưa được tiếp cận nhiều các sản phẩm có chất lượng cao, sản phẩm trôi nổi thì lại được đưa tới các trang trại ao tôm thường xuyên. Ông Tạ Minh Phú, Chủ tịch Hội Thủy sản Bạc Liêu, chia sẻ nhiều doanh nghiệp nhỏ, chưa có thương hiệu, nhưng lại có hệ thống nhân viên thị trường tiếp cận, giới thiệu tới các hộ nuôi những sản phẩm có giá thành rẻ hơn rất nhiều, nhưng chất lượng thì chưa được kiểm chứng. Theo đó, nhiều hộ nuôi ham rẻ sử dụng cho ao nuôi của mình, kết quả là “tiền mất tật mang”.

 

Hóa giải những bất cập

Dịch bệnh vẫn là nỗi lo thường trực trong sản xuất của các hộ nuôi tôm, đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả nuôi trồng. Theo ghi nhận, dịch bệnh đang có nguy cơ bùng phát khi điều kiện thời tiết không phù hợp, đặc biệt là bệnh EMS và vi bào tử trùng (EHP). Cuối năm 2019, công tác quan trắc môi trường phục vụ NTTS và phòng trừ dịch bệnh trên tôm nuôi tiến hành giám sát 16 ao nuôi TTCT và tôm sú nuôi thâm canh thuộc huyện Hồng Dân (Bạc Liêu) và huyện Cái Nước (Cà Mau) đã phát hiện thấy tôm nuôi có nhiễm bệnh vi bào tử trùng (EHP) với tỷ lệ tương ứng là 7,9% và 20,3%; tỷ nhiễm bệnh EHP khá cao vì xuất hiện trên 11% số mẫu phân tích.

Một thực tế khác đó là, nuôi tôm của Việt Nam vẫn còn mang tính manh mún và nhỏ lẻ, chưa tạo thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung; người nuôi chưa chú trọng trong công tác ghi chép sổ nhật ký; quản lý hệ thống ao nuôi chưa tốt, một số hộ còn lén lút xả chất thải ra môi trường gây ô nhiễm. Bên cạnh đó, tình trạng lạm dụng thuốc, hóa chất, bơm chích tạp chất vào tôm nguyên liệu vẫn xảy ra ở các cơ sở thu mua và chế biến nhỏ lẻ đang làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của sản phẩm tôm Việt Nam. Mặc dù, thời gian qua đã hình thành nhiều chuỗi liên kết trong sản xuất cũng như nhiều doanh nghiệp đầu tư quy hoạch nuôi nhưng số lượng này chiếm tỷ lệ nhỏ. Yếu tố này đã khiến cho chất lượng sản phẩm không đồng đều, khó đạt được các tiêu chuẩn quốc tế…; từ đó, giảm sức cạnh tranh của sản phẩm tại các thị trường nhập khẩu. Như chia sẻ của ông Nguyễn Hữu Trường, Chi cục Thủy sản Quảng Nam, do chi phối bởi tập quán sản xuất nhỏ lẻ, manh mún nên người dân không mặn mà đầu tư nuôi tôm theo hướng VietGAP vì có nhiều ràng buộc phải thực hiện. Mặc dù, tỉnh đã có cơ chế hỗ trợ kinh phí với mức hơn 600 triệu đồng cho 1 dự án nuôi tôm VietGAP nhưng vẫn chưa thu hút được đầu tư.

Chia sẻ tại Diễn đàn kinh tế tư nhân, ông Trần Đình Luân, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho biết, ngành tôm Việt Nam có nhiều lợi thế nhưng đang gặp thách thức lớn về biến đổi khí hậu, muốn tăng diện tích nuôi tôm đòi hỏi đầu tư về khoa học kỹ thuật, trang thiết bị để đáp ứng yêu cầu. Ngoài ra, sản xuất nhỏ lẻ còn chiếm 70 – 80% diện tích ngành sản xuất tôm, thực trạng này dẫn đến khó khăn trong hội nhập và đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc. Với bối cảnh sản xuất nhỏ lẻ, liên kết kém, khó khăn về nguồn tôm bố mẹ và cơ sở hạ tầng nên giá thành sản xuất cao, sức cạnh tranh hạn chế.

Không chỉ vướng ở những yếu tố nội tại, ngành tôm Việt cũng đang phải chịu sự canh tranh gay gắt cũng như hàng rào kỹ thuật từ các thị trường nhập khẩu trên thế giới, năm 2019 thể hiện rõ nét nhất. Từ tháng 3 – 8/2019 giá tôm giảm mạnh đã làm ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu toàn ngành; nguyên nhân do các nước như Ấn Độ, Ecuador trúng mùa tôm, giá thành sản xuất thấp, nguồn cung dồi dào. Cũng do giá thành sản xuất tôm ở ĐBSCL cao nên không ít doanh nghiệp nhập tôm nguyên liệu từ Ấn Độ về với giá rẻ hơn, làm cho tôm trong nước bị cạnh tranh và dư nguồn cung.

Ngành tôm đang phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các thị trường nhập khẩu trên thế giới – Ảnh: ST

 

Triển vọng sáng

Năm 2020, ngành tôm được kỳ vọng có nhiều tăng trưởng thông qua những dấu hiệu tích cực từ sản xuất và thị trường. Tại Mỹ, cuối năm 2019, Bộ Thương mại nước này đã công bố kết quả cuối cùng của đợt rà soát hành chính lần thứ 13 (POR13) đối với biện pháp chống bán phá giá với tôm Việt. Theo đó, 31 doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế chống bán phá giá là 0%, trong danh sách có nhiều doanh nghiệp lớn như Minh Phú, Sao Ta, C.P. Việt Nam, Camimex… Bên cạnh đó, việc các hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia đi vào thực thi mà điển hình là CPTPP, EVFTA, sẽ tạo thêm rất nhiều cơ hội cho ngành thủy sản nói chung trong đó có mặt hàng chiến lược là con tôm có thêm sung lực mới. Tác động của hiệp định tự do thương mại tự do cũng sẽ tạo nền tảng để các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh.

Theo xu hướng chung của thế giới, lĩnh vực nuôi trồng thủy sản vẫn có rất nhiều tiềm năng và lợi thế phát triển; trong đó có con tôm. Chính vì vậy, thời quan qua, đã có rất nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn tiên phong nghiên cứu áp dụng các mô hình nuôi tôm công nghệ cao, tạo sản lượng lớn, chất lượng ổn định. Điển hình như mô hình nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kín, nuôi mô hình CPF-Combine, công nghệ 2-3-4, ương tôm mật độ cao Raceway, nuôi tôm siêu thâm canh trong ao tròn nổi theo công nghệ biofloc, công nghệ BioSipec… Đây là hướng đi bền vững và là xu thế phát triển tại Việt Nam, mở ra triển vọng bền vững cho ngành tôm.

Bên cạnh đó, việc sản xuất tôm sạch, theo tiêu chuẩn, liên kết đã được chú trọng để đảm bảo truy xuất được nguồn gốc, minh bạch và gia tăng khả năng cạnh tranh. Theo kế hoạch, năm 2020, ngành thủy sản sẽ tập trung cấp mã số cho các cơ sở nuôi tôm nước lợ. Chỉ tiêu kế hoạch đến năm 2025: tổng diện tích nuôi tôm 750.000 ha (tôm sú 600.000 ha, TTCT 150.000 ha), tổng sản lượng 1.100.000 tấn (tôm sú 400.000 tấn, TTCT 700.000 tấn), xuất khẩu tôm nuôi nước lợ trên 8,4 tỷ USD. Trọng tâm trong sản xuất là chủ động gia hóa, chọn tạo và sản xuất trên 90% số tôm sú bố mẹ; trên 70% số TTCT bố mẹ.

>> Để khắc phục những khó khăn từ nội tại cũng như tận dụng những cơ hội phía trước, nâng cao giá trị và khả năng cạnh tranh của con tôm thì cần nhanh chóng giảm chi phí giá thành nuôi nhằm tăng khả năng cạnh tranh với các nước; sắp xếp lại vùng nuôi tôm để hình thành các trang trại hay HTX có quy mô lớn theo chuẩn nuôi của quốc tế có chứng nhận. Đồng thời, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng cho các vùng nuôi, đảm bảo hệ thống thủy lợi tránh nguy cơ dịch bệnh lây lan và lâu dài cần tiến tới xây dựng cho được thương hiệu tôm Việt. 
Vân Anh
Nguồn : http://thuysanvietnam.com.vn/

Bỏ 1 thu lãi 1, lại lo nông dân đổ xô nuôi tôm thẻ chân trắng

(Dân Việt) 3 năm qua, do giá tôm thẻ chân trắng liên tục ở mức thấp, nông dân không có lãi nên nhiều người bỏ tôm thẻ chuyển sang nuôi tôm sú, dẫn tới sản lượng tôm thẻ giảm mạnh. Nhưng gần đây, các doanh nghiệp chế biến đang cần nguồn tôm nguyên liệu để xuất sang Trung Quốc nên dẫn đến cầu vượt cung, đẩy giá loại tôm này tăng mạnh.

Với mức tăng từ 15.000 –45.000 đồng/kg như hiện nay, người nuôi tôm đang thu lãi đậm, chính vì thế không ít ý kiến lo lắng bà con lại đổ xô nuôi tôm thẻ chân trắng như trước đây.

Giá tôm tăng nhanh, nuôi 1 lãi 1

Theo thông tin từ Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NNPTNT), giá tôm nguyên liệu trong tháng 12/2019 có xu hướng tăng đối với cả 2 loại tôm sú và tôm thẻ chân trắng do nguồn cung thấp, nhu cầu cao.

Do nguồn cung thiếu hụt, doanh nghiệp đẩy mạnh thu mua để xuất khẩu nên giá tôm thẻ chân trắng tại ĐBSCL đang tăng cao (ảnh chụp tại Cà Mau). Ảnh: Lê Huy Hải

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, xuất khẩu tôm của Việt Nam năm 2019 đạt 3,38 tỷ USD, giảm gần 5% so với năm 2018.

Trong đó, tôm chân trắng giảm 3,2%, đạt 2,36 tỷ USD, chiếm 70%; tôm sú cũng giảm mạnh 15%, đạt 693 triệu USD, chiếm 20,5%. Các sản phẩm tôm biển và tôm khác chiếm gần 10%.

Kim ngạch xuất khẩu tôm giảm chủ yếu do kết quả xuất khẩu nửa đầu năm kém, nửa cuối năm mới dần phục hồi. Đáng chú ý, xuất khẩu sang các thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN đều giảm.

Tại Bạc Liêu, giá tôm sú ướp đá cỡ 20 con/kg trong tháng 12/2019 đã tăng 20.000 đồng/kg, lên 230.000 đồng/kg; cỡ 30 con/kg tăng 10.000 đồng/kg, lên 180.000 đồng/kg; cỡ 40 con/kg 142.000 đồng/kg.

Đặc biệt, giá tôm thẻ ướp đá cỡ 60 con/kg đang tăng mạnh, với mức tăng 35.000 đồng/kg, lên mức 145.000 đồng/kg; cỡ 70 con/kg tăng 35.000 đồng/kg, lên mức 135.000 đồng/kg; cỡ 100 con/kg tăng 10.000-15.000 đồng/kg, lên 95.000 – 100.000 đồng/kg.

Tương tự, tại Cà Mau giá tôm thẻ chân trắng cũng đang tăng cao. Theo Sở Công Thương Cà Mau, giá tôm thẻ chân trắng loại 100 con/kg đang ở mức 95.000 đồng/kg, loại 70 con/kg có giá khoảng 110.000 đồng/kg và loại 50 con/kg có giá khoảng 125.000 đồng/kg. Mức giá này đã tăng khoảng 30% so với thời điểm 3 tháng trước.

Ông Nguyễn Minh Luân – hộ dân nuôi tôm thâm canh ở xã Nguyễn Việt Khái (huyện Phú Tân, Cà Mau) cho biết, giá tôm tăng cao, sau khi trừ chi phí hầu như hộ nào cũng có lãi. Nếu quản lý tốt và trúng mùa, thậm chí có hộ lãi tới 50%, tức đầu tư 1 thu lãi 1.

Hiện nay, tỉnh Cà Mau có diện tích nuôi tôm 230.000ha, trong đó có hơn 10.000ha nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh cho năng suất cao.

Trong khi đó, ông Nguyễn Văn Sen – một nông dân ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, vui vẻ cho biết, đã khá lâu rồi người nuôi tôm mới hưởng trọn niềm vui trúng mùa, được giá như bây giờ. Sau hơn 3 tháng thả nuôi 350.000 con giống tôm thẻ chân trắng, tôm đạt cỡ 40 con/kg, gia đình ông Sen thu hoạch được 10 tấn, thương lái đến mua hết ngay tại ao với giá trung bình 146.000 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí, gia đình ông lãi khoảng 700 triệu đồng.

Trước đó, thời điểm giữa năm nay trở về 1-2 năm trước, giá tôm thẻ nguyên liệu có lúc sụt giảm thê thảm, loại 100 con/kg chỉ còn khoảng 60.000– 70.000 đồng/kg, gần bằng với giá thành sản xuất nên người nuôi tôm lỗ vốn hoặc không có lời. Nhiều người chán nản chuyển sang nuôi tôm sú, không ít hộ treo ao nên dẫn tới nguồn cung tôm thẻ giảm mạnh so với trước.

Doanh nghiệp khan hàng

Các nhà chế biến, xuất khẩu tôm cho biết, nhu cầu nhập khẩu mặt hàng tôm của các nước đang tăng mạnh để phục vụ nguồn hàng phục vụ dịp cuối năm và dịp tết của một số thị trường quan trọng, trong đó có Trung Quốc.

Theo nhận định của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NNPTNT), trong năm 2019, nhìn chung thị trường tương đối ổn định đối với tôm sú nhưng đối với tôm thẻ chân trắng có sự biến động khá nhiều. Lúc giữa năm giảm mạnh, có loại chỉ còn 60.000 đồng/kg, nhưng những tháng cuối năm lại tăng mạnh và dự báo có thể tiếp tục tăng trong những ngày cuối năm. Hiện nhiều công ty chế biến thủy sản đang gặp khó khăn trong việc thu mua tôm nguyên liệu, trong khi vẫn phải đẩy mạnh mua vào để thực hiện những hợp đồng đã ký trước đó nên đẩy giá tôm leo thang.

Trước tình hình này, các chuyên gia nông nghiệp cũng khuyến cáo bà con nông dân nên cân nhắc chuyện tăng diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng vụ mới để tránh nguy cơ tăng nguồn cung đột biến, rơi vào vòng luẩn quẩn cung vượt cầu, nhất là khi thị trường xuất khẩu tôm hiện nay vẫn phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc.

Giám đốc Sở NNPTNT tỉnh Sóc Trăng – ông Lương Minh Quyết cũng nhận định, tôm được giá, nông dân ai cũng vui mừng, nhưng không vì vậy mà ồ ạt thả giống. Chỉ khi nào đủ điều kiện mới nên thả nuôi nhằm tránh rủi ro, bị dội hàng và rớt giá. Bên cạnh đó, việc có nhiều thương lái cạnh tranh thu mua tôm cũng sẽ tạo sân chơi bình đẳng, có lợi cho người nuôi.

Nguồn : http://danviet.vn/

Fimex – Vững vàng trước sóng gió của ngành tôm

Dựa trên nền tảng phát triển bền vững, Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta (Fimex) đã xây dựng được chuỗi giá trị trải dài từ công tác chuẩn bị ao nuôi, tôm giống, thức ăn… để có nguồn nguyên liệu đạt chuẩn cho khâu chế biến thủy sản xuất khẩu. Qua đó giúp kết quả kinh doanh duy trì tăng trưởng ổn định, ngay cả khi các DN khác cùng ngành rơi vào cảnh trồi sụt do những bất lợi về giá và thị trường.

Fimex định hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm giá trị gia tăng như tôm bao bột, tôm chiên

Chủ động trước biến động

Trong năm 2019, ngành tôm toàn cầu có những biến động lớn như giá cả đầu vụ giảm mạnh khiến người nuôi tôm không mạnh tay thả nuôi, đặc biệt là tình hình dịch bệnh tấn công ở tất cả vùng nuôi lớn như Trung Mỹ, Nam Á, Đông Nam Á… khiến sản lượng chung không như ý, lượng tôm cỡ lớn sụt giảm mạnh. Tình hình này làm người nuôi tôm Việt Nam e ngại nuôi vụ hai vì rủi ro cao từ dịch bệnh. Tất cả dẫn đến giá tôm tươi ở đồng bằng đã tăng từ giữa tháng 8 tới nay, nhất là tôm cỡ lớn hơn 40 con. Đến nay giá vẫn trong đang xu thế tăng vì nguồn cung giảm.

Dự báo sản lượng tôm tiêu thụ năm 2019 của Fimex sẽ tăng khoảng 6% so với năm 2018 và dù giá tôm thấp, doanh số tiêu thụ dự báo vẫn ở mức tương đương năm trước. Nhưng nhờ các mảng hoạt động của Sao Ta gồm nuôi tôm, chế biến tôm, chế biến nông sản xuất khẩu đều hiệu quả nên lợi nhuận chung vẫn tăng và vượt kế hoạch khoảng 25-30%.

Trong khi đó, tình hình tồn kho cao tại các thị trường tiêu thụ chính và sự cạnh tranh về giá tôm với các đối thủ lớn như Ấn Độ, Ecuador, Indonesia… đã tạo sức ép giảm giá đối với các DN Việt Nam. Cụ thể, giá nhập khẩu tôm vào EU đã giảm 1 USD/kg so với năm 2018, song giá tôm của Việt Nam vẫn cao hơn 15-20% (tương đương 1-2 USD/kg) so với giá tôm nhập khẩu từ các nước khác như Ấn Độ, Trung Quốc. Tại thị trường Mỹ, giá tôm của Việt Nam cũng ở mức cao nhất dù đã giảm từ 12 USD/kg xuống 11 USD/kg. Giá xuất khẩu tôm sang Nhật cũng giảm 1 USD/kg, từ 12 USD xuống 11 USD/kg.

11 tháng năm 2019, xuất khẩu tôm của Việt Nam đã giảm 8,2% so với cùng kỳ năm 2018, chỉ đạt 3,4 tỷ USD. Dự báo xuất khẩu tôm cả năm nay sẽ chỉ đạt 3,4 tỷ USD, giảm 4% so với năm 2018.

Bên cạnh áp lực cạnh tranh về giá, các DN xuất khẩu tôm còn đối mặt với tình trạng thiếu hụt nguyên liệu.

Trước khó khăn đó, Fimex nổi lên như một ngôi sao sáng khi lợi nhuận trước thuế 9 tháng năm 2019 đạt 173 tỷ đồng, tăng trưởng trên 35% so với cùng kỳ năm 2018 và hoàn thành 96% chỉ tiêu kế hoạch cả năm. Tháng 11 vừa qua, ban lãnh đạo công ty cũng công bố đã hoàn thành 100% chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế đề ra hồi đầu năm là 180 tỷ đồng.

Ông Phạm Hoàng Việt, Tổng giám đốc Fimex cho biết, từ đầu năm, Fimex đã nhận định tình hình cung cầu tôm thế giới, diễn biến dịch bệnh trên tôm nuôi để đề ra chương trình hoạt động cho mình. Trong đó, Fimex chú trọng nuôi tôm, nâng cao tối đa an toàn sinh học vùng nuôi tôm của mình, chăm sóc ao tôm hết sức kỹ lưỡng. Nguồn tôm nuôi khá lớn là sự thuyết phục tốt nhất khách hàng về nguyên liệu sạch, có kiểm soát cũng như khả năng truy xuất nguồn gốc.

Chương trình của Fimex cũng tập trung vào thị trường lợi thế là Nhật Bản, EU đồng thời giảm thiểu ở thị trường Hoa Kỳ, bởi phải cạnh tranh nguồn tôm giá rẻ từ Ấn Độ. Tình hình trong năm đã diễn ra đúng như những gì Fimex đã dự đoán. Tôm nuôi đầu vụ không nhiều vì giá tôm thấp khiến người nuôi không an tâm thả giống. Sau đó tôm nuôi bị dịch bệnh tấn công, dẫn đến nguồn tôm cung trong nước không như dự kiến và giá tôm tươi tăng từ giữa tháng 8 đến nay. Tình huống này khiến các DN không có nhận định tốt, ký nhiều hợp đồng với khách hàng từ Hoa Kỳ bị thiệt hại nặng.

Trụ đỡ phát triển bền vững

Nhìn lại giai đoạn 2014-2018, diễn biến giá tôm xuất khẩu tại các thị trường biến động thất thường đã khiến doanh thu xuất khẩu của một số doanh nghiệp lớn trong mảng tôm Việt Nam như Minh Phú, Stapimex, Thuận Phước Corp tăng giảm không ổn định. Tuy nhiên, với chiến lược chuyển hướng sản phẩm và thị trường xuất khẩu hợp lý, Fimex vẫn duy trì mức tăng trưởng doanh thu ổn định khoảng 7,2%/năm, ngày càng thu hẹp khoảng cách với doanh nghiệp xuất khẩu tôm lớn thứ 2 cả nước là Stapimex.

Đặc biệt, với định hướng phát triển bền vững, Fimex đã xây dựng được vùng nuôi tôm riêng rộng 190 ha, đạt các chứng nhận quốc tế về an toàn thực phẩm như BAP (chứng nhận về các thực hành tốt nhất trong nuôi trồng thủy sản toàn cầu), ASC (Hội đồng quản lý nuôi trồng thủy sản). Nhờ đó đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về vệ sinh và truy xuất nguồn gốc theo yêu cầu của thị trường xuất khẩu và tạo được sự an tâm về nguyên liệu tôm sạch đối với các khách hàng. Đối với lượng tôm thu mua từ bên ngoài, theo chia sẻ của ban lãnh đạo, quy trình kiểm duyệt nguồn tôm đầu vào cũng rất khắt khe, trước tiên công ty cử chuyên gia đến tiến hành kiểm tra tổng quan ao tôm, sau đó liên tục tiến hành kiểm tra nhiều lượt mẫu trong quá trình thu hoạch và chế biến để đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về chất lượng tôm xuất khẩu.

Hiện công ty cũng đang có kế hoạch mở rộng vùng nuôi với dự án có tổng diện tích khoảng 90 ha, nằm sát trại tôm hiện hữu của công ty. Sau khi hoàn thành, dự án này sẽ giúp Fimex chủ động thêm 10% nguyên liệu nhờ cung cấp 2.000 tấn tôm mỗi năm. Kéo theo đó, công ty cũng kỳ vọng sẽ giảm được 1,15%/năm đối với chi phí tôm nguyên liệu trên mỗi đơn vị sản phẩm nhờ tăng tỷ lệ tự chủ tôm đầu vào từ 20% lên 30%.

Đến nay, Fimex đã xây dựng được chuỗi giá trị trải dài từ công tác chuẩn bị ao nuôi, tôm giống, thức ăn,… để nuôi tôm cho đến khâu chế biến tại nhà máy và đem phân phối tại các thị trường xuất khẩu. Trong đó, hòa cùng xu thế chung của toàn ngành cũng như đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng, cơ cấu sản phẩm của Fimex cũng có sự thay đổi theo hướng đẩy mạnh các sản phẩm giá trị gia tăng mang lại tiện ích cao, bao gồm tôm luộc, tôm bao bột, tôm chiên và các loại rau củ quả phối chế vào các hệ thống phân phối cao cấp. Trong thời gian tới, sự chuyển hướng sản phẩm này sẽ tiếp tục giúp Fimex cải thiện biên lợi nhuận gộp.

Với nền tảng vững chắc đó, Fimex đặt mục tiêu doanh số đến năm 2020 vượt 200 triệu USD và tăng gấp đôi diện tích nuôi tôm vào năm 2025 để tranh thủ mọi cơ hội từ các hiệp định tự do thương mại nhằm mở rộng quy mô kinh doanh và vươn lên thành nhà chế biến tôm lớn thứ 2 Việt Nam.

Khải Kỳ

Nguồn : Báo Hải Quan

Mỹ ngăn chặn nhập khẩu tôm từ nhiều doanh nghiệp Malaysia do sử dụng kháng sinh

TTH.VN – Tin từ The Star cho biết, trong năm 2019, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (USFDA) đã đưa nhiều nhà xuất khẩu tôm của Malaysia vào “danh sách đỏ”, sau khi mẫu của 18 lô hàng từ 11 nhà xuất khẩu nước này được phát hiện có chứa chất kháng sinh chloramphenicol.

Nhiều lô hàng tôm xuất khẩu của Malaysia được phát hiện chứa chất kháng sinh. Ảnh minh hoạ: Congluan

Trước đó, trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến 2018, USFDA cũng đã đưa 28 nhà xuất khẩu tôm Malaysia vào danh sách đỏ vì mẫu thử ở 56 lô hàng có chứa nitrofurans.

Theo The Star, trong khi các lô hàng tôm xuất khẩu này bị hạn chế do kháng sinh, thì tôm nuôi bán tại địa phương ít được kiểm tra kỹ càng như vậy. Do vây, người dân Malaysia vô tình tiêu thụ tôm bị nhiễm độc có chứa kháng sinh – nitrofurans và chloramphenicol – có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Và một số loại tôm này có thể tìm thấy được bày bán khá phổ biến tại hầu hết các khu chợ ở Malaysia.

Suốt nhiều năm qua, nhiều người dân đã được cảnh báo về hậu quả của việc tiêu hóa các loại chất kháng sinh có trong hải sản, nhưng vấn đề này vẫn tiếp tục tồn tại cho đến bây giờ.

Các chuyên gia tin rằng, dư lượng từ hai loại kháng sinh nói trên là chất có thể gây ung thư. Thậm chí, chloramphenicol còn dẫn đến một tác dụng phụ hiếm gặp nhưng nghiêm trọng khi gây suy tủy xương, dẫn đến việc sản sinh các tế bào hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu bị thiếu hụt.

Được biết, trong số 28 nhà xuất khẩu của Malaysia bị USFDA đưa vào danh sách đỏ vì xuất khẩu tôm có chứa nitrofurans, 19 doanh nghiệp có trụ sở tại Penang. Tuy nhiên, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Malaysia Sim Tze Tzin cho rằng nước này bị liệt vào danh sách đỏ là do các nhà sản xuất tôm nhiễm kháng sinh từ các quốc gia khác đã sử dụng Malaysia làm trung tâm trung chuyển. Theo ông, các nhà xuất khẩu Malaysia này có thể đã tham gia vào hoạt động vận chuyển hàng.

“Dựa trên các trường hợp trước đây, chúng tôi tin rằng họ đã nhập khẩu tôm đông lạnh từ các quốc gia khác và tái xuất khẩu chúng sang Mỹ. Do đó, chúng tôi đã thắt chặt kiểm soát”, ông nói.

TỐ QUYÊN (Lược dịch từ The Star)

Nguồn : https://baothuathienhue.vn/

Ồ ạt gom tôm thẻ chân trắng xuất sang Trung Quốc, giá tăng mạnh

(Dân Việt) Trước đây, do giá tôm thẻ liên tục ở mức thấp, nông dân không có lãi nên nhiều người bỏ tôm thẻ chuyển sang nuôi tôm sú, dẫn tới sản lượng tôm thẻ giảm mạnh. Trong khi đó, gần đây các doanh nghiệp chế biến đang cần nguồn tôm nguyên liệu để xuất sang Trung Quốc nên dẫn đến cầu vượt cung, giá tôm thẻ từ đó tăng mạnh.

Theo thông tin từ Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT), giá tôm nguyên liệu trong tháng 12/2019 có xu hướng tăng đối với cả 2 loại tôm sú và tôm thẻ chân trắng do nguồn cung thấp, nhu cầu cao.

Tại Bạc Liêu, giá tôm sú ướp đá cỡ 20 con/kg trong tháng 12/2019 đã tăng 20.000 đồng/kg lên 230.000 đồng/kg, cỡ 30 con/kg tăng 10.000 đồng/kg lên 180.000 đồng/kg, cỡ 40 con/kg 142.000 đồng/kg.

Do nguồn cung thiếu hụt, doanh nghiệp đẩy mạnh thu mua để xuất khẩu nên giá tôm thẻ chân trắng tại ĐBSCL đang tăng cao. Ảnh: Chúc Ly

Đặc biệt, giá tôm thẻ ướp đá cỡ 60 con/kg đang tăng mạnh, với mức tăng 35.000 đồng/kg lên mức 145.000 đồng/kg, cỡ 70 con/kg tăng 35.000 đồng/kg, lên mức 135.000 đồng/kg, cỡ 100 con/kg tăng 10.000-15.000 đồng/kg, lên 95.000 – 100.000 đồng/kg.

Hiện nay, cầu vượt cung đối với tôm thẻ vì thời gian trước giá thấp, người nuôi tôm chuyển qua nuôi tôm sú nên lượng tôm thẻ ít so với nhu cầu; trong khi đó, các doanh nghiệp đang cần nguồn nguyên liệu để xuất sang Trung Quốc theo đường chính ngạch nên dẫn đến cầu vượt cung, giá tôm thẻ từ đó tăng mạnh.

Theo nhận định của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, trong năm 2019, nhìn chung thị trường tương đối ổn định đối với tôm sú nhưng đối với tôm thẻ chân trắng có sự biến động khá nhiều. Thời điểm giữa năm, giá tôm thẻ nguyên liệu sụt giảm mạnh, loại 100 con/kg chỉ còn khoảng 60.000 – 70.000 đồng/kg, khiến người nuôi tôm lỗ vốn hoặc không có lời.

Đáng chú ý, tình trạng treo ao xuất hiện dẫn đến sản lượng giảm nên giá tôm nguyên liệu những tháng cuối năm tăng mạnh. Hiện nay, tín hiệu phục hồi giá tôm nguyên liệu đã tạo tâm lý cho người nuôi yên tâm, phấn khởi và huy động công sức, vốn liếng để đầu tư nuôi tôm.

Các công ty chế biến thủy sản đang gặp khó khăn trong việc thu mua tôm nguyên liệu do nguồn cung khan hiếm, giá tăng trung bình 15 – 20%. Ảnh minh hoạ

Theo các chuyên gia ngành thuỷ sản, sản lượng tôm năm nay giảm nên giá tôm nguyên liệu những tháng cuối năm tăng mạnh và dự báo có thể tiếp tục tăng trong những ngày cuối năm. Hiện nhiều công ty chế biến thủy sản đang gặp khó khăn trong việc thu mua tôm nguyên liệu do nguồn cung khan hiếm, giá tăng trung bình 15 – 20%.

Cũng do thiếu nguyên liệu chế biến, các nhà máy đẩy mạnh mua vào để thực hiện những hợp đồng đã ký trước đó nên đẩy giá tôm thời gian gần đây leo thang.

Cuối tháng 12/2019, tại ĐBSCL giá tôm thẻ chân trắng cỡ 40 con/kg mua tại ao là 146.000 đồng/kg. Tôm cỡ 30 con/kg trên 175.000 đồng/kg, tăng hơn 40.000 đồng/kg so với cách đây vài tháng. Với giá tôm cao như hiện nay, nếu quản lí ao nuôi tốt thì sau khi trừ chi phí, người nuôi có thể thu lãi khoảng 70.000 đồng/kg, tức đầu tư một thu lời một.

Tuy nhiên, 3 năm qua người nuôi tôm thẻ đã trải qua nhiều phen lao đao vì tôm liên tục rớt giá. Có thời điểm, thị trường tôm thẻ ở ĐBSCL chỉ còn từ 80.000 – 95.000 đồng/kg. Với mức giá này, người nuôi tôm sẽ không có lãi, nhất là đối với những hộ nuôi tôm đất vì chi phí cao, tỉ lệ hao hụt lớn hơn so với nuôi tôm trải bạt. Chính vì thế, các chuyên gia nông nghiệp cũng khuyến cáo bà con nông dân nên cân nhắc chuyện tăng diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng để tránh nguy cơ tăng nguồn cung đột biến, nhất là khi thị trường xuất khẩu tôm hiện nay vẫn phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc.

Cũng theo báo cáo mới nhất của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 12/2019 ước đạt 806 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu thủy sản năm 2019 ước đạt 9,63 tỉ USD, tăng 2,7% so với năm 2018.

Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hàn Quốc là 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam trong 11 tháng qua, chiếm 57,8% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản.

Trong 11 tháng đầu năm 2019, các thị trường có giá trị xuất khẩu thủy sản tăng mạnh là Trung Quốc, tăng 19,7% và Đài Loan tăng 9,7%; Hoa Kỳ đạt kim ngạch 1,35 tỉ USD, giảm 8,8%; Nhật Bản: 1,35 tỉ USD, tăng 6,8%; EU (28 nước) với 1,19 tỉ USD, giảm 11,8% so với cùng kỳ 2018.

Về chủng loại xuất khẩu: Cá tra đạt kim ngạch 1,8 tỉ USD giảm 11%; tôm đạt 3,08 tỉ USDgiảm 5,7%%; cá ngừ đạt 668,946 triệu USD tăng 12%; các loại cá khác đạt 1.519,252 triệu USD tăng 15,9%; Cua, ghẹ và giáp xác khác đạt 138,037 triệu USD tăng 16,5%; mực và bạch tuộc đạt 531,153 triệu USD giảm 12,5% so với cùng kỳ năm 2018.

Nguồn : Báo Dân Việt