Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Thị Trường Tôm

“Bắt mạch” cơ hội thị trường cho xuất khẩu tôm Việt

ENTERNEWS.VN Trong số các mặt hàng thủy sản nhập khẩu từ Việt Nam thì tôm là mặt hàng được tiêu thụ nhiều nhất tại Australia với lượng tiêu thụ hàng năm lên tới 50-60 nghìn tấn.

xcz

Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mở ra cơ hội với xuất khẩu tôm ở nhiều thị trường.

Xuất khẩu tôm sang Australia tăng mạnh

Theo Hiệp hội Chế biến và Phát triển Thị trường Nông sản, năm 2018, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Australia đạt 114,7 triệu USD, giảm 4,4% so với năm 2017.

Bước sang năm 2019, sau khi giảm trong 3 tháng đầu năm, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Australia phục hồi, tăng trưởng liên tục từ tháng 4 đến hết năm.

Tính tới ngày 15/12/2019, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Australia đạt gần 121 triệu USD, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm 2018. Trong bối cảnh xuất khẩu tôm sang các thị trường chính sụt giảm, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Australia đạt mức tăng trưởng 2 con số.

Kể từ tháng 4/2019 đến hết năm, xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường này liên tục tăng trưởng trong đó tăng mạnh nhất 56% trong tháng 7 và tăng 45% trong tháng 11/2019. Australia là thị trường ghi nhận mức tăng trưởng cao nhất trong top 10 thị trường nhập khẩu tôm chính của Việt Nam.

Trong nhiều năm qua, Việt Nam vẫn duy trì là nguồn cung tôm lớn nhất của Australia, chiếm 42% tổng giá trị nhập; tiếp đó là Trung Quốc đứng thứ hai với 23%, Thái Lan đứng thứ ba chiếm 22%.

Australia là một trong những quốc gia có các yêu cầu về tuân thủ an toàn sinh học và an toàn vệ sinh thực phẩm rất cao, kiểm dịch khắt khe hơn so với những thị trường khác bởi người tiêu dùng Australia đặt ra tiêu chuẩn rất cao và các tiêu chuẩn này được hỗ trợ bởi một loạt các qui định bảo vệ người tiêu dùng ở tất cả các bang trên đất nước.

VASEP cho rằng đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xây dựng chuỗi liên kết từ đầu vào đến đầu ra cho sản phẩm tôm, cung cấp các sản phẩm đổi mới có giá trị gia tăng cao, chất lượng, nguồn gốc xuất xứ đảm bảo, nhãn mác rõ ràng là những yếu tố doanh nghiệp cần lưu tâm khi xuất khẩu vào thị trường này.

Gia tăng vào thị trường các nước CPTPP

Đầu năm 2019, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã chính thức có hiệu lực với Việt Nam. Hiệp định CPTPP bao gồm 11 thành viên là Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam.

Australia là một nước thành viên trong CPTPP. Theo cam kết trong CPTPP, tất cả các sản phẩm tôm xuất khẩu sang Australia đều ở 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực. Trong số các mặt hàng thủy sản nhập khẩu từ Việt Nam thì tôm là mặt hàng được tiêu thụ nhiều nhất tại Australia với lượng tiêu thụ hàng năm lên tới 50-60 nghìn tấn.

Canada là một trong những nước có mức cam kết mở cửa thị trường cao nhất với hàng nghìn dòng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu trở về 0%, với mức cắt giảm thuế lên tới 95% số dòng thuế, bao trùm 78% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Canada. Bên cạnh đó, Canada là 1 trong 3 nước thành viên mà Việt Nam chưa có thỏa thuận thương mại song phương.

Theo cam kết CPTPP, thuế nhập khẩu các mặt hàng thuỷ sản, trong đó có sản phẩm tôm đông lạnh, tôm chế biến… từ Việt Nam vào Canada đều giảm về 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực.

CPTPP cũng là cơ hội cho tôm Việt Nam trên thị trường Canada vì các đối thủ cạnh tranh như Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia đều không tham gia hiệp định.

Những năm gần đây, Canada tiêu thụ nhiều hơn tôm nước ấm của các nước Đông Nam Á trong bối cảnh nguồn cung tôm nước lạnh sụt giảm. Xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Canada đứng đầu trong số các nguồn cung tôm vào Canada và chiếm gần 1/3 thị phần nhập khẩu, với lợi thế này, CPTPP sẽ là lực đẩy giúp Việt Nam cạnh tranh tốt hơn so với các đối thủ trên thị trường Canada.

Bên cạnh đó, thị trường Chile cũng được lưu tâm trong thời gian tới. Đây là thị trường nhỏ nhưng là cơ hội mở cho tôm Việt Nam. Theo cam kết của Chile trong CPTPP, các sản phẩm thủy sản trong đó có tôm nhập khẩu vào Chile đều được giảm từ 6% về 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực.

CPTPP có hiệu lực đặt ra cho các doanh nghiệp các điều kiện về hàng rào kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng, quy tắc xuất xứ. Doanh nghiệp cần nâng cao sức cạnh tranh, nắm bắt thông tin và rào cản thị trường để kịp thời đáp ứng.

Như vậy, sau khi CPTPP có hiệu lực, lợi ích của nó đối với xuất khẩu tôm Việt Nam tuy chưa nhiều nhưng được đánh giá là yếu tố hỗ trợ cần thiết, giúp hoàn thiện những điểm mà các Hiệp định song phương, đa phương trước đó chưa có.

Theo số liệu của Trung tâm Thương mại Thế giới, 10 tháng đầu năm 2019, nhập khẩu tôm của Australia đạt 237,4 triệu USD, giảm 16,6% so với cùng kỳ năm 2018.

Trong nhiều năm qua, Việt Nam vẫn duy trì là nguồn cung tôm lớn nhất của Australia, chiếm 42% tổng giá trị nhập khẩu tôm của Australia, tiếp đó Trung Quốc đứng thứ hai với 23%, Thái Lan đứng thứ ba chiếm 22%.

Trong top 6 nguồn cung lớn nhất cho Australia, duy nhất nhập khẩu tôm từ Việt Nam tăng 4,6%, nhập khẩu từ các nguồn cung còn lại đều giảm 2 con số.

Trên thị trường Australia, tôm Việt Nam phải cạnh tranh về giá với Thái Lan. 10 tháng đầu năm 2019, giá trung bình nhập khẩu tôm từ Việt Nam đạt 10,1 USD/kg trong khi giá trung bình nhập khẩu từ Thái Lan đạt 9,3 USD/kg.

Nguồn : https://enternews.vn/

Tết Nguyên đán cận kề, giá tôm Trung Quốc giảm mạnh, dân buôn khốn đốn

Bán tôm
Tôm sống tại chợ Trung Quốc

Thời điểm trước Tết một tháng, lượng tôm nhập khẩu vào Trung Quốc tăng gấp đôi so với bình thường. Tuy nhiên, một nhà nhập khẩu tại Thượng Hải cho biết giá tôm trên thị trường đang ở mức đáy.

Giá tôm đông lạnh xuống thấp do nhập khẩu quá nhiều từ Ecuador và Ấn Độ

Theo Undercurrent News, giá tôm ở thị trường Trung Quốc đang thấp trong bối cảnh dịp lễ Tết đang đến gần do lượng nhập khẩu từ Ecuador và Ấn Độ lớn và sản lượng trong nước cũng cao.

Thời điểm trước Tết một tháng, lượng tôm nhập khẩu vào Trung Quốc tăng gấp đôi so với bình thường. Tuy nhiên, một nhà nhập khẩu tại Thượng Hải cho biết giá tôm trên thị trường đang ở mức đáy.

“Hiện tại tôi rất khó tiêu thụ hàng do thị trường đang xấu. Giá bán buôn đối với tôm đông lạnh nguyên vỏ và đầu là 79,8 USD/thùng”, vị này cho biết.

Trong tháng 1/2019, Trung Quốc nhập khẩu 100.000 tấn tôm. Trong đó, 74.000 tấn được nhập khẩu trực tiếp và 30.000 tấn nhập qua đường tiểu ngạch.

Một nhà nhập khẩu khác cũng cho biết họ bị thua lỗ do nhập hàng với giá cao nhưng đến gần Tết giá bán lại giảm.

“Tôi không nghĩ rằng giá sẽ cải thiện trước dịp Tết Nguyên đán, chỉ còn khoảng hơn 10 ngày nữa đến Tết và sau đó hoạt động buôn bán sẽ tạm nghỉ. Do đó, không đủ thời gian để giá tôm phục hồi trở lại. Nguồn cung từ Ecuador quá lớn. Tổng nguồn cung hiện đang vượt so với nhu cầu”, vị thương nhân này cho biết.

Cơn bão giá tôm đông lạnh ảnh hưởng đến tôm sống


Diễn biến giá tôm thẻ chân trắng tại tỉnh Quảng Đông (loại 60 con/kg) giai đoạn 2016 – 2019. Nguồn: Undercurrent News

Giá tôm đông lạnh thấp có vẻ đã ảnh hưởng tới cả những nông trại sản xuất tôm của Trung Quốc. Hôm 11/1, tờ Aquaculture Hotspot, cho biết người dân ở một số vùng tỉnh Quảng Đông thậm chí còn tính đến chuyện đổ tôm xuống sông do không có ai mua.

“Những người nông dân nuôi tôm đông chờ đợi giá phục hồi trợ lại vào dịp sát Tết Nguyên đán, đặc biệt là khi bệnh dịch tả heo châu Phi khiến giá thịt heo liên tục tăng”, theo tờ Aquaculture Hotspot.

Tại tỉnh Quảng Đông, giá tôm nguyên đầu, nguyên vỏ sống, (loại 60 con/kg) có giá 7,64 USD/kg vào tháng 12., theo Undercurrent News. Mức giá này thấp hơn 4% so với cùng kì năm ngoái.

Đại diện của một công ty chế biến tôm tại thành phố Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông, cho rằng người dân nuôi tôm hiện đang không có lợi nhuận.

“Giá tôm tại bờ thấp hơn 20% so với năm ngoái. Tuy nhiên, cũng phải nói thêm năm ngoái giá tôm cũng đã rất cao. Mặc dù giá thấp nhưng hoạt động thu hoạch vẫn diễn ra ổn định”, vị này cho hay.

Ông cũng cho rằng lượng tiêu thụ không hề giảm: “Tất cả nhà hàng, khách sản đã được đặt hết chỗ và nền kinh tế vẫn đang rất tốt”. Tuần trước, Phòng nuôi trồng Thủy sản Quốc gia Ecuador, đã công bố số liệu chính thức về xuất khẩu tôm. Theo đó, năm 2019, nước này xuất khẩu được 635.000 tấn tôm, tăng 25% so với năm 2018.

Con số này cao hơn so với ước tính được đưa ra trước đó (590.000 tấn) và lượng tôm xuất khẩu năm 2018 (506.000 tấn). Kim ngạch xuất khẩu tôm của Ecuador trong năm 2019 ước đạt 3,5 tỉ USD.

Trong tháng 11/2019, Ecuador xuất khẩu 46.000 tấn tôm sang Trung Quốc, chiếm 75% tổng lượng tôm nước này xuất khẩu trong tháng. Cũng giai đoạn, lượng tôm của Ấn Độ xuất khẩu sangTrung Quốc chạm ngưỡng kỉ lục, đạt 22.000 tấn.

H.Mĩ Kinh tế & Tiêu dùng

Việt Nam tăng xuất khẩu tôm sang Australia trong năm 2019

Thương Trường | Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam cho biết, Australia là thị trường NK tôm đứng thứ 7 của Việt Nam, chiếm 3,8% tổng giá trị XK tôm Việt Nam đi các thị trường. Sau khi sụt giảm năm 2018, XK tôm Việt Nam sang Australia năm 2019 tăng trưởng tích cực.

Theo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) năm 2018, XK tôm Việt Nam sang Australia đạt 114,7 triệu USD, giảm 4,4% so với năm 2017. Bước sang năm 2019, sau khi giảm trong 3 tháng đầu năm, XK tôm Việt Nam sang Australia phục hồi, tăng trưởng liên tục từ tháng 4 đến hết năm.

Việt Nam tăng xuất khẩu tôm sang Australia trong năm 2019.

Tính tới 15/12/2019, XK tôm Việt Nam sang Australia đạt gần 121 triệu USD, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm 2018. Trong bối cảnh XK tôm sang các thị trường chính sụt giảm, XK tôm Việt Nam sang Australia đạt mức tăng trưởng 2 con số. Kể từ tháng 4/2019 đến hết năm, XK tôm Việt Nam sang thị trường này liên tục tăng trưởng trong đó tăng mạnh nhất 56% trong tháng 7 và tăng 45% trong tháng 11/2019. Australia là thị trường ghi nhận mức tăng trưởng cao nhất trong tốp 10 thị trường NK tôm chính của Việt Nam.

Việt Nam chủ yếu XK sang thị trường Australia các sản phẩm như tôm chân trắng PD tươi đông lạnh, tôm chân trắng thịt bỏ đầu còn đuôi tươi đông lạnh, tôm chân trắng bỏ đầu lột vỏ, tôm chân trắng nguyên con hấp đông lạnh, tôm chân trắng thịt tẩm bột tempura chiên đông lạnh…

Theo số liệu của Trung tâm Thương mại Thế giới, 10 tháng đầu năm 2019, NK tôm của Australia đạt 237,4 triệu USD, giảm 16,6% so với cùng kỳ năm 2018. Trong nhiều năm qua, Việt Nam vẫn duy trì là nguồn cung tôm lớn nhất của Australia, chiếm 42% tổng giá trị NK tôm của Australia, tiếp đó Trung Quốc đứng thứ hai với 23%, Thái Lan đứng thứ ba chiếm 22%. Trong tốp 6 nguồn cung lớn nhất cho Australia, duy nhất NK tôm từ Việt Nam tăng 4,6%, NK từ các nguồn cung còn lại đều giảm 2 con số. Trên thị trường Australia, tôm Việt Nam phải cạnh tranh về giá với Thái Lan. 10 tháng đầu năm 2019, giá trung bình NK tôm từ Việt Nam đạt 10,1 USD/kg trong khi giá trung bình NK từ Thái Lan đạt 9,3 USD/kg.

Xuất khẩu tôm sẽ khả quan hơn trong năm 2020

Xuất khẩu tôm sẽ khả quan hơn trong năm 2020

Năm 2019 xuất khẩu XK tôm của Việt Nam ước đạt 3,38 tỷ USD giảm gần 5 so với năm 2018 Mặc dù không đạt kết quả khả quan như kỳ vọng nhưng XK tôm Việt Nam sang các thị trường nhập khẩu NK chính cũng cho thấy những tín hiệu tích cực trong năm 2020

Đầu năm 2019, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã chính thức có hiệu lực với Việt Nam. Hiệp định CPTPP bao gồm 11 thành viên là Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam.

Australia là một nước thành viên trong CPTPP. Theo cam kết trong CPTPP, tất cả các sản phẩm tôm XK sang Australia đều ở 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực.

Trong số các mặt hàng thủy sản NK từ Việt Nam thì tôm là mặt hàng được tiêu thụ nhiều nhất tại Australia với lượng tiêu thụ hàng năm lên tới 50-60 nghìn tấn. Mặc dù, tôm nuôi tại Australia được ưa chuộng nhưng càng ngày càng có nhiều người tiêu dùng chọn tôm đông lạnh NK từ Thái Lan và Việt Nam. Bên cạnh đó, tôm sú to của Việt Nam cũng được người tiêu dùng Australia ưa chuộng.

Vài năm trở lại đây, xung đột thương mại Mỹ – Trung vẫn chưa đạt được thỏa thuận khiến cho nền kinh tế của 2 cường quốc rơi vào tình trạng suy giảm, để tránh nền kinh tế bị ảnh hưởng xấu từ các đối tác thương mại trên, Chính phủ Australia đang chủ trương ưu tiên mở rộng thị trường sang Ấn Độ, các nước ASEAN, đây cũng là cơ hội cho các DN XK của Việt Nam sang Australia.

Australia là một trong những quốc gia có các yêu cầu về tuân thủ an toàn sinh học và an toàn vệ sinh thực phẩm rất cao, kiểm dịch khắt khe hơn so với những thị trường khác bởi người tiêu dùng Australia đặt ra tiêu chuẩn rất cao và các tiêu chuẩn này được hỗ trợ bởi một loạt các quy định bảo vệ người tiêu dùng ở tất cả các bang trên đất nước. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xây dựng chuỗi liên kết từ đầu vào đến đầu ra cho sản phẩm tôm, cung cấp các sản phẩm đổi mới có giá trị gia tăng cao, chất lượng, nguồn gốc xuất xứ đảm bảo, nhãn mác rõ ràng là những yếu tố DN cần lưu tâm khi XK vào thị trường này.

 Tố Tâm

Nguồn : https://www.thuongtruong.com.vn/

6 quốc gia dẫn đầu nuôi tôm thẻ chân trắng

(Thủy sản Việt Nam) – Theo báo cáo Công ty đầu tư công nghệ nuôi trồng thủy sản Hatch, Indonesia, Ấn Độ, Ecuador, Việt Nam, Thái Lan và Trung Quốc là 6 quốc gia dẫn đầu trong ngành công nghiệp nuôi tôm thẻ chân trắng xét về sản lượng.

Indonesia

Theo Bộ Hàng hải và Thủy sản Indonesia (MMAF), sản lượng tôm nước này  năm 2015 đạt 535.000 tấn. Còn theo FAO (2018), sản lượng tôm của Indonesia đã đạt 637.555 tấn trong năm 2016, đưa Indonesia trở thành nhà sản xuất tôm lớn thứ 2 trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Indonesia đang đặt mục tiêu sản lượng tôm đạt 600.000 tấn vào năm 2020. Ngành công nghiệp tôm của Indonesia bắt đầu vào cuối những năm 1980, khởi đầu ở Đông Java. Tôm thẻ chân trắng đã được giới thiệu ở Indonesia vào năm 2002. Hiện, tôm thẻ chân trắng chiếm hơn 75% tổng sản lượng tôm của nước này và việc nuôi tôm trải dài khắp đất nước, từ Sumbawa đến phía Đông và Nam Sumatra, đến phía Tây Kalimanta, Sulawesi và Maluka đến phía Bắc.

 

Ấn Độ

Số liệu của World’s Top Exports hồi tháng 5/2019 cho biết, Ấn Độ là nước xuất khẩu tôm lớn nhất thế giới, đạt giá trị thương mại 4,4 tỷ USD, chiếm 25,4% thị trường toàn cầu và gần gấp đôi so với quốc gia xếp thứ hai (Ecuador 2,9 tỷ USD). Sự tăng trưởng thần kỳ này bắt nguồn từ việc chuyển dịch sang nuôi tôm thẻ chân trắng, loài có khả năng nuôi ở mật độ cao, nuôi ngắn, sức sống tốt và khả năng kháng bệnh hiệu quả. Từ những năm 2000, sau khi tôm sú bị dịch bệnh hoành hành, tôm thẻ chân trắng và phần nào đó là tôm càng xanh trở thành đối tượng nuôi phổ biến và chiếm vị thế dẫn đầu trong ngành thủy sản Ấn Độ. Dù vậy, việc tăng trưởng quá nóng dẫn đến nhiều mặt trái. Ấn Độ đang đặt mục tiêu đạt 1 triệu tấn tôm vào năm 2020. Tuy nhiên, theo dự báo mới nhất tại GOAL 2019, sản lượng tôm của nước này dự kiến vẫn ổn định ở dưới mức 600.000 tấn.

Tôm thẻ chân trắng đang là đối tượng nuôi chính tại nhiều quốc gia – Ảnh: Net Zero Enterprises

Ecuador

Nuôi tôm bắt đầu ở Ecuador gần 50 năm trước. Các trang trại nuôi tôm đầu tiên được thành lập ở phía Nam và kể từ đó đến nay, diện tích nuôi tôm của nước này đã đạt gần 220.000 ha. Ecuador hiện là nhà sản xuất tôm thẻ chân trắng lớn thứ 3 thế giới và lớn nhất ở Nam Mỹ. Sản lượng tôm của Ecuador cũng tăng trưởng liên tục, từ 115.000 tấn năm 1998 lên 246.000 tấn năm 2017 và 500.000 tấn năm 2018. Sandro Coglitore, Giám đốc điều hành Omarsa – một trong những nhà xuất khẩu tôm lớn của Ecuador cho biết, sản lượng tôm Ecuador dự kiến đạt ít nhất 640.000 tấn trong năm 2019, cao hơn Ấn Độ.

 

Trung Quốc

Trung Quốc là nước xuất khẩu tôm lớn thứ 2 về khối lượng, sau Thái Lan và lớn thứ 3 về giá trị trên toàn cầu. Trung Quốc quyết tâm đáp ứng nhu cầu và chất lượng của cả thị trường quốc tế và trong nước. Sản xuất tôm thẻ chân trắng đã đóng góp vào lượng protein động vật, tạo việc làm, tăng thu nhập cho các hộ gia đình. Nhiều nhà đầu tư và người nuôi trồng thủy sản đang hy vọng về tiềm năng của lĩnh vực tôm nuôi ở Trung Quốc vì thị trường tiêu thụ nội địa rộng lớn. Sản lượng tôm của Trung Quốc ngày càng tăng; đặc biệt là tôm thẻ chân trắng. Sản lượng tôm thẻ chân trắng của nước này đã tăng từ 605.259 tấn năm 2002 lên 1.672.246 tấn năm 2016.

 

Thái Lan

Nuôi tôm bán thâm canh ở Thái Lan bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ trước và đã được thay thế bởi nuôi tôm thâm canh vào năm 1987. Tôm sú là loài ưa chuộng vì sự sẵn có các trại sản xuất giống và khả năng tăng trưởng nhanh của tôm sú trong điều kiện nuôi bán thâm canh. Tuy nhiên, năm 2002, Hội chứng tôm sú tăng trưởng chậm (MSGS) đã tấn công ngành nuôi tôm công nghiệp, khiến sản lượng hàng năm giảm khoảng 36%. Đây là dịch bệnh tôm nghiêm trọng nhất trong lịch sử nuôi tôm Thái Lan, kết thúc việc mở rộng nuôi tôm sú thâm canh và đưa tôm thẻ chân trắng vào nuôi trong những năm 2003 – 2004. Tôm thẻ chân trắng hợp với khí hậu nhiệt đới của Thái Lan và nhanh chóng thích nghi hệ thống nuôi thâm canh khép kín. Vậy nhưng, sự bùng phát của Hội chứng tôm chết sớm (EMS) cuối tháng 8/2011 đã khiến sản lượng tôm Thái Lan sụt giảm mạnh; đến nay gần như chưa thể hồi phục lại sản xuất như trước đây.

 

Việt Nam

Tôm thẻ chân trắng được đưa vào Việt Nam từ năm 2001, nuôi ở mức độ thử nghiệm. Đến năm 2006, Bộ NN&PTNT cho phép nuôi tôm thẻ chân trắng từ Quảng Bình đến Bình Thuận; năm 2008, được nuôi ở các tỉnh phía Nam. Cả diện tích và sản lượng tôm thẻ chân trắng của Việt Nam tăng đều qua các năm. Theo Tổng cục Thủy sản, 10 tháng đầu năm 2019, diện tích nuôi tôm nước lợ của Việt Nam đạt 713.402 ha, tăng 0,1% so cùng kỳ 2018; trong đó diện tích thả nuôi tôm chân trắng là 99.740 ha. Sản lượng thu hoạch tôm nước lợ đạt 600.874 tấn, tăng 4,4% so cùng kỳ 2018, sản lượng là 386.701 tấn, vượt mạnh so với con tôm sú.

>> Báo cáo của Hatch cũng cho biết, tôm thẻ chân trắng đang được nuôi ở 36 quốc gia, đạt giá trị sản xuất cao nhất trong ngành nuôi trồng thủy sản với trị giá 26,7 tỷ USD.

Phương Ngọc

Nguồn : http://thuysanvietnam.com.vn/

Không lo TQ ép giá tôm; áp lực đối với cá tra

Thông tin thị trường thủy sản tuần qua: Không lo TQ ép giá tôm; áp lực đối với cá tra

Vinanet – Năm 2020 không lo thương lái Trung Quốc ép giá tôm; Áp lực đối với cá tra Việt Nam ngày một lớn; 10 sự kiện nổi bật của xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2019…
Năm 2020 không lo thương lái Trung Quốc ép giá tôm?
Vietnambiz.vn đưa tin, theo VASEP, tiến sĩ Hồ Quốc Lực – Nguyên Chủ tịch VASEP, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Thực phẩm Sao Ta nhận định 2019 là một năm có nhiều kì vọng nhưng có cả những điều không như mong muốn.
Chỉ tiêu xuất khẩu thuỷ sản cũng như chỉ tiêu riêng con tôm, con cá đều thấp, làm sao so sánh số kế hoạch đầy tham vọng. Đi tìm nguyên nhân để từ đó có thêm kinh nghiệm, để tìm ra cái chưa lường hết khi xây dựng kế hoạch, để không đạt kỳ vọng nhưng không đến nỗi thất vọng. Con cá tra, nhận định là cũng có xu hướng giảm do cá minh thái tự nhiên khó khai thác. Nhưng hiệu ứng chiến tranh Mỹ – Trung khiến lượng cá thịt trắng rô phi xuất qua Mỹ bị thuế ngăn chặn.
Người tiêu dùng Trung Quốc có nguồn cung tại chỗ. Song song, họ đã âm thầm nuôi cá tra với sản lượng không nhỏ. Trong khi đó, người nuôi cá của Việt Nam âm thầm thả giống, sản lượng không kiểm soát hết.
Theo Tổng Cục Thủy sản, tổng diện tích nuôi cá tra năm 2019 dự kiến đạt 6,6 nghìn ha, tăng 22,2% so với năm 2018. Sản lượng đạt 1,42 triệu tấn, tương đương với năm 2018. Kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 1,9 tỉ USD, giảm khoảng 12% so với cùng kỳ 2018.
Ông Lực cho hay con tôm, dù các cường quốc tôm đều hô hào tăng sản lượng nuôi. Nhưng thực chất không như vậy. Nguyên nhân giữa vụ, tôm nuôi bị dịch bệnh tấn công khá mạnh. Nhất là tôm nuôi Ấn Độ và kế tiếp là Việt Nam. Dịch bệnh khiến cỡ tôm bị nhỏ lại, vì tôm chậm lớn; đồng thời sản lượng cũng không tăng mạnh vì một phần bị thiệt hại do dịch bệnh. Giá tôm cỡ nhỏ tiêu thụ không tăng nhưng cỡ lớn tăng khá mạnh, nhất là lúc cuối vụ. Mặt khác, do nguồn cung trong nước giảm, giá tôm nói chung trong nước đã tăng cao khiến nhiều hợp đồng đã ký kết bị thiệt hại không nhỏ nếu giao đúng hạn.
Bước sang năm 2020, ông Lực khẳng định rằng doanh nghiệp tôm không thể nhập hàng block chế biến lại xuất khẩu vì vi phạm truy xuất nguồn gốc, chỉ trừ trường hợp có sự thoả thuận của bên tiêu thụ hàng. Như vậy, các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ một mình một chợ các vựa tôm Ecuador, Ấn Độ… Từ đó, thương lái Trung Quốc sẽ giảm nhu cầu mua tôm tươi từ Việt Nam, trừ tôm sú cỡ lớn. Đây là một điểm tích cực, không lo thương lái Trung Quốc tranh mua, phá giá… Theo Tổng Cục Thủy sản, cùng với việc nhu cầu thị trường nhích lên, sản lượng tôm và giá tôm trong nước và thế giới được cải thiện, tạo đà cho xuất khẩu tôm những tháng cuối năm 2019 và đầu năm 2020.
Nhìn tới năm 2020, ông Lực cho rằng các thông tin khai thác, nuôi trồng tương ứng phải được quan tâm tìm hiểu cặn kẽ, làm căn cứ nhận định để tránh những điều không hay đã xảy ra trong năm nay. Đồng thời, không thể không lo về thời tiết, dịch bệnh tiềm ẩn trong nuôi tôm.
Indonesia đẩy mạnh giảm chi phí nuôi cá tra, áp lực đối với cá tra Việt Nam ngày một lớn
Vietnambiz.vn đưa tin, theo trang Antara News, Bộ Thủy Hải sản Indonesia và Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) sẽ hợp tác để phát triển mô hình nuôi cá tra với chi phí thấp sau khi thử nghiệm thành công ở miền nam Sumatra. Theo đó, Bộ Thủy Hải sản Indonesia và FAO sẽ hợp tác để đào tạo người dân chủ động sản xuất thức ăn cho cá tra với giá thành thấp trong khi chất lượng lại cao.
Ông Slamet Soebjakto, giám đốc phụ trách mảng thủy sản của Bộ Thủy Hải sản cho biết kinh phí cho dự án này là 257.000 USD, với mục đích đẩy mạnh sản lượng cá tra của Indonesia.
Bằng việc tăng năng suất, ông Soebjakto kì vọng rằng Indonesia sẽ sớm xuất khẩu cá tra sang các thị trường Trung Đông, châu Á, châu Âu và Mỹ.
Ông Soebjakto chia sẻ thêm người nông dân sẽ sản xuất thức ăn cho cá bằng cách kết hợp các nguyên liệu là cỏ ủ tươi và bã cọ với chất lượng tương đương với các sản phẩm do nhà máy sản xuất. Indonesia hướng mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, áp lực cạnh tranh đối với Việt Nam ngày một lớn
Việt Nam, quốc gia sản xuất cá tra lớn nhất thế giới, đang theo dõi động thái từ Indonesia và các đối thủ khác trên thị trường xuất khẩu.
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, sản lượng cá tra cả nước đạt 1,5 triệu tấn trong 2019. Trong khi đó, một số nước như Ấn Độ cũng đã có sản lượng khoảng 650.000 tấn, Bangladesh 450.000 tấn.
Đối với Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết ngành cá tra vẫn còn một số điểm chưa yên tâm, đó là một số khâu còn yếu, liên kết chuỗi giá trị chưa chặt chẽ, tính cạnh tranh chưa cao.
Mỹ, EU, ASEAN – Ba thị trường chi phối cá ngừ xuất khẩu của Việt Nam 2019
Thông tin từ vietnambiz.vn, theo VASEP, năm 2019, Mỹ, EU và ASEAN là ba thị trường xuất khẩu cá ngừ lớn nhất của Việt Nam. Nếu như năm 2018, Mỹ, EU và ASEAN chỉ chiếm 67% tổng giá trị xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam, năm 2019 con số này đã lên đến 71%. Tuy nhiên VASEP nhận định xuất khẩu cá ngừ sang cả ba thị trường này trong năm qua nhìn chung không ổn định.
Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu cá ngừ lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỉ trọng 46% trong 11 tháng đầu năm 2019, tăng so với mức 35% của cùng kì năm ngoái. VASEP cho rằng với mức tỉ trọng này, những thay đổi của thị trường Mỹ ảnh hưởng lớn đến tình hình xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam.
So với năm ngoái, năm nay xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang Mỹ có xu hướng tăng trưởng mạnh trong nửa đầu năm, và tăng trưởng chậm lại trong nửa cuối năm. Nhờ đó, thị phần của cá ngừ Việt Nam tại thị trường Mỹ năm nay cũng tăng so với năm ngoái.
Đối với thị trường EU, nếu như năm ngoái, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam vẫn tăng trưởng tốt thì năm nay suy giảm.
Năm 2019, do giá cá ngừ trên thị trường thế giới thấp, cộng với những vướng mắc về mặt thủ tục để đáp ứng các khuyến nghị của EU về chống IUU đã khiến xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang thị trường này không thuận lợi.
Năm nay, hầu hết các sản phẩm cá ngừ xuất khẩu của Việt Nam sang EU đều giảm so với cùng kì. Hiện chỉ có cá ngừ sống tươi và đông lạnh là sự tăng trưởng so với cùng kì. Trong đó, các dòng sản phẩm cá ngừ philê đông lạnh vẫn là sản phẩm xuất khẩu chủ lực sang khối thị trường này.
Năm nay xuất khẩu cá ngừ sang ASEAN không ổn định, tăng giảm thất thường. Tính tổng 11 tháng đầu năm, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang ASEAN vẫn tăng so với cùng kì. Nhờ đó, nước này đã vượt qua Israel trở thành nước nhập khẩu cá lớn thứ 3 của Việt Nam.
10 sự kiện nổi bật của xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2019
Theo vasep.com.vn, năm 2019 vừa khép lại – một năm chưa đạt kỳ vọng với nhiều DN XK thủy sản Việt Nam. Thuế chống bán phá giá tôm tại thị trường Mỹ 0% cho 31 DN XK tôm Việt; CPTPP có hiệu lực và nhiều Hiệp định tự do thương mại (FTA) được ký kết hứa hẹn mang về các ưu đãi thuế quan…Tuy nhiên, những thuận lợi này chưa đủ mạnh để nhiều DN thủy sản vượt qua những rào cản lớn lao khác từ thị trường XK.
Nhìn lại năm 2019, Ban biên tập Bản tin Thương mại Thủy sản xin được đưa ra 10 sự kiện nổi bật nhất trong hoạt động SX, XNK thủy sản trong năm qua.
1. Cơ hội và thách thức cho thủy sản từ CPTPP và 16 FTA
Ngay đầu năm 2019, vào ngày 14/1/2019, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã chính thức có hiệu lực với Việt Nam. Ngoài hai hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương thế hệ mới là CPTPP và EVFTA thì các hiệp định FTA khác cũng được dự báo sẽ mang lại nhiều cơ hội thuế quan cho các DN thủy sản.
Tham gia TPP và các FTA cũng là cơ hội tốt cho thủy sản Việt Nam tăng sức cạnh tranh nhờ sử dụng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất giá rẻ hơn, mở rộng thị trường.
Tuy nhiên, đi cùng cơ hội là những thách thức không nhỏ như: Rào cản kỹ thuật và bảo hộ thương mại tại các thị trường XK; thách thức về vấn đề lao động; quy định về thủ tục hành chính; kiểm soát bảo tồn nguồn lợi thủy sản – IUU (EU và Mỹ); nguồn nguyên liệu không ổn định, giá thành sản xuất cao.
2. Kết quả cuối cùng thuế CBPG cho tôm Việt Nam POR13 giảm
Tháng 8/2019, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã công bố kết quả cuối cùng của đợt rà soát hành chính lần thứ 13 (POR 13) thuế chống bán phá giá tôm Việt Nam vào Mỹ với 31 doanh nghiệp được hưởng mức thuế 0%.
Có 2 doanh nghiệp là bị đơn bắt buộc trong POR13 là Công ty Sao Ta (Fimex VN) và Công ty Hải sản Nha Trang (Nha Trang Seaproduct Company) đều hưởng thuế 0%.
Ngoài ra, 29 doanh nghiệp tôm là bị đơn tự nguyện cũng có mức thuế 0%. Đây được cho là động lực tốt cho các DN tôm Việt Nam duy trì XK tôm sang Mỹ trong năm 2019.
3. Thẻ vàng IUU ảnh hưởng đến xuất khẩu hải sản Việt Nam
Năm 2019, tổng giá trị XK hải sản vẫn tăng 8% so với năm 2018 đạt trên 3,2 tỷ USD, nhưng chủ yếu tăng ở cá ngừ (tăng 12% đạt 728 triệu USD) và các loại cá biển khác (tăng 15% đạt 1,65 tỷ USD).
XK hải sản tăng chủ yếu ở các thị trường khác, trong khi XK sang thị trường EU sụt giảm 11,5%. Kết quả này đã phản ánh hệ lụy của thẻ vàng IUU đối với XK hải sản của Việt Nam trong thời gian qua.
Từ ngày 5 – 14/11/2019, Đoàn Thanh tra EC đã sang làm việc tại Việt Nam để kiểm tra tình hình triển khai các khuyến nghị của Ủy ban Châu Âu (EC) về khai thác IUU. Đây là lần kiểm tra lần thứ 2 của EU kể từ khi Việt Nam bị cảnh báo thẻ vàng từ năm 2017.
Đoàn thanh tra EC đánh giá cao và ghi nhận sự cam kết, quyết tâm chính trị và nỗ lực của Việt Nam trong việc chống khai thác bất hợp pháp IUU, triển khai các khuyến nghị của EC; khẳng định Việt Nam đã có nhiều tiến bộ so với đợt kiểm tra lần 1 (tháng 5/2018) và đang đi đúng hướng. Tuy nhiên, kết quả sau lần kiểm tra thứ 2 này, EC vẫn duy trì thẻ vàng hải sản Việt Nam.
4. Sau khi giá cá tra nguyên liệu lên thời “hoàng kim” đã lao dốc
Cách đây 3 năm nào năm 2016, giá cá tra nguyên liệu tại ĐBSCL rớt thê thảm xuống mức thấp lịch sử (trong vòng 5 năm) và có thời điểm loạn giá, thấp dưới mức giá thành từ 18.500 – 20.500 đồng/kg.
Tới năm 2018, nguồn cá khan hiếm khiến cho giá cá tra lại tăng lên mức 36.500 đồng/kg. Nhưng bước sang năm 2019, niềm vui giá cao đã nhanh chóng chuyển sang nỗi lo của người nuôi cá.
Từ 34.000 đồng/kg (tháng 2/2019) đã rơi xuống mức từ 19.000 – 21.000 đồng/kg (tháng 12/2019). Giá cá nguyên liệu giảm cũng là một lý do khiến giá XK giảm và tổng giá trị XK tại các thị trường giảm.
5. Thị trường Trung Quốc – thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 kiểm soát chặt thương mại đường biên mậu
Ngay từ đầu năm 2019, XK thủy sản sang thị trường Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi việc siết chặt thương mại mậu biên và kiểm soát chất lượng.
Thực tế việc thắt chặt kiểm soát này đã diễn ra từ giữa năm 2018, tuy nhiên sang năm 2019, sự việc này mới ảnh hưởng rõ nét tới hoạt động XK.
Nhiều DN nhỏ vốn quen XK qua tiểu ngạch, thiếu thông tin về những quy định XK qua đường chính ngạch bị bất ngờ, thụ động trước tình huống bị cấm XK tiểu ngạch.
Tính đến hết tháng 6 năm 2019, XK thủy sản sang Trung Quốc giảm nhẹ 2,3% đạt 572 triệu USD, trong đó, XK tôm giảm gần 5%, XK cá tra chỉ tăng gần 2%, XK cá ngừ tăng mạnh 183%.
Kể từ quý III/2019, XK thủy sản sang Trung Quốc đã tăng trở lại do các DN đã nắm chắc được quy định của thị trường và có sự điều chỉnh tốt hơn.
6. Chính phủ nâng mức xử phạt hành chính với cá nhân vi phạm lĩnh vực thủy sản lên tới 1 tỷ đồng
Ngày 5/7/2019, Nghị định số 42/2019/NĐ-CP (nghị định thay thế Nghị định số 103/2013/NĐ-CP của Chính phủ) quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản đã chính thức có hiệu lực.
Nghị định này nâng mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân trong lĩnh vực thủy sản lên mức 1 tỷ đồng (so với mức 100 triệu đồng theo quy định cũ của NĐ 103/2013).
Còn với trường hợp tổ chức có cùng hành vi vi phạm như của cá nhân thì mức phạt tiền bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Nghị định này cũng quy định chi tiết hơn về 8 hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả.
Đây là hành động cụ thể của Chính phủ trong việc quyết tâm chống khai thác IUU và coi đây là nhiệm vụ ưu tiên quan trọng và hàng đầu.
7. Cá tra Việt Nam trải qua một năm giảm tại thị trường Mỹ
Sau nhiều tháng chờ đợi, cuối cùng, ngày 5/11/2019, Văn phòng Đăng ký liên bang Mỹ (Federal Register) cũng đã chính thức công bố văn bản Luật từ Cục kiểm tra An toàn Thực phẩm (FSIS) thuộc Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ về việc công nhận Việt Nam là quốc gia đủ điều kiện XK sản phẩm cá và cá Siluriformes sang Hoa Kỳ. Đây là tin vui đối với các DN XK cá tra đang tham gia một cách kiên cường tại thị trường Mỹ cho dù bên cạnh vẫn là nỗi buồn về rào cản thuế chống bán phá giá cao.
Trái ngược hẳn với niềm hi vọng về việc tận dụng cơ hội từ cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung kéo dài sẽ giúp cá tra Việt Nam đẩy mạnh hơn sang thị trường Mỹ.
Cho tới nửa đầu tháng 12/2019, giá trị XK cá tra sang Mỹ đạt 270,5 triệu USD, giảm 48,5% so với cùng kỳ năm trước. Khoảng cách giữa giá trị XK cá tra sang thị trường Mỹ và thị trường XK lớn nhất là Trung Quốc – Hồng Kông đang lớn dần.
Cho tới thời điểm này, giá trị XK cá tra sang Mỹ chỉ bằng một nửa so với sang Trung Quốc – Hồng Kông.
8. Quốc hội thông qua Bộ Luật Lao động sửa đổi 2019
Ngày 20/11/2019, với 90,06% đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Lao động (sửa đổi) với 10 điểm mới đối với người lao động và 6 điểm mới đối với người sử dụng lao động.
Đây là một Bộ Luật “nóng” nhất đối với cộng đồng DN, trong đó có DN ngành thủy sản trong năm 2019. Bởi ngay khi Dự thảo Bộ Luật lao động sửa đổi này đưa ra lấy ý kiến đã nhận được rất nhiều ý kiến trái chiều. Trong đó, 3 vấn đề là: Giờ làm thêm, thời giờ làm việc tiêu chuẩn và tuổi nghỉ hưu gây nhiều tranh cãi nhất.
9. Xuất khẩu thủy sản ước đạt 8,6 tỷ USD
Năm 2019, XK thủy sản của cả nước ước đạt trên 8,6 tỷ USD, giảm 2,3% so với năm 2018. Trong nhóm các sản phẩm chủ lực, chỉ có cá ngừ duy trì tăng trưởng dương gần 12%, các mặt hàng khác đều giảm: tôm giảm gần 5%, cá tra giảm gần 12%, mực, bạch tuộc giảm 13%. Ngoài ra, XK sản phẩm từ các loại cá khác cũng tăng tương đối với mức 15%, góp phần hạn chế sụt giảm kim ngạch do tôm, cá tra và mực, bạch tuộc.
10. Nhật Bản nhích lên vị trí thị trường xuất khẩu lớn nhất năm 2019
Tính đến nửa tháng 12/2019, tổng giá trị XK thủy sản sang thị trường Nhật Bản đạt 1,4 tỷ USD, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Với giá trị như hiện tại, Nhật Bản đang tạm là thị trường XK lớn nhất của DN thủy sản Việt Nam (so với vị trí thứ 3 vào năm 2018). Năm nay cũng là năm đầu tiên Nhật Bản bước vào top 10 thị trường XK thị trường lớn nhất của cá tra Việt Nam.
Sản lượng cá tra năm 2020 dự kiến không đổi
Theo vietnambiz.vn, tại Hội nghị Tổng kết năm 2019 và Triển khai kế hoạch năm 2020, Tổng Cục Thủy sản cho biết trong năm 2020, Tổng Cục Thủy sản lạc quan trước nhiều tín hiệu tích cực đối với ngành cá tra. Theo đó, kinh tế thế giới trên đà tăng trưởng trở lại, lợi thế từ việc tận dụng các ưu đãi của Hiệp định CPTTP và EVFTA, mức thuế chống bán phá giá vào thị trường Mỹ giảm.Ngoài ra, Tổng Cục Thủy sản nhận định kết quả công nhận tương đương về hệ thống quản lí, kiểm soát an toàn thực phẩm trên cá tra và các sản phẩm cá da trơn do Bộ Nông nghiệp Mỹ công bố là cơ sở thuận lợi giúp cho sản phẩm thủy sản của Việt Nam cạnh tranh hơn, trong đó có việc mở lại thị trường Arab Saudi, đưa cá tra đến với thế giới Arab.
Tổng Cục Thủy sản dự kiến diện tích nuôi trồng cá tra khoảng 6,6 nghìn ha. Sản lượng cá tra đạt .420 nghìn tấn, bằng 100% so với ước thực hiện năm 2019
Theo Tổng Cục Thủy sản, năm 2019, ngành hàng cá tra đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như diện tích ương giống, nuôi thương phẩm ở một số địa phương tăng dẫn đến dư cung. Kim ngạch xuất khẩu đi một số thị trường lớn như Mỹ, Trung Quốc bắt đầu giảm từ tháng 3. Arab Saudi vẫn đóng cửa đối với sản phẩm thủy sản Việt Nam, một số quốc gia lân cận đã phát triển nuôi cá tra… đã dẫn đến việc giá cá tra nguyên liệu đã giảm từ cuối tháng 3 đến nay, sau 2 năm tăng trưởng liên tục.
Kim ngạch xuất khẩu cá tra trong năm 2019 cũng không đạt được như kì vọng. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP), tháng 11, xuất khẩu cá tra giảm 20% so với cùng kì năm 2018. Hầu hết thị trường xuất khẩu chính đều có giá trị giảm và Trung Quốc – Hong Kong là thị trường duy nhất trong top “cứu” không cho giá trị bị sụt giảm sâu thêm. VASEP cũng cho biết tính tới hết tháng 11, tổng giá trị xuất khẩu cá tra đạt 1,81 tỉ USD, giảm 11% so với cùng kì năm trước. VASEP nhận định kết thúc 11 tháng xuất khẩu năm 2019, cá tra Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi tăng trưởng âm so với cùng kì năm trước. Năm nay, giá cá tra nguyên liệu tại ĐBSCL giảm mạnh và ở mức thấp. Điều này cũng tác động không nhỏ tới giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp.

Nguồn: VITIC

Giá tôm tăng những ngày cận tết

Sau thời gian dài giá tôm liên tục đứng ở mức thấp, hiện giá tôm tăng trở lại do nguồn cung khan hiếm. Vì thế, nhiều nông dân phấn khởi với vụ tôm Tết Nguyên đán Canh Tý 2020.

Được giá, dễ bán

Lũy kế đến nay, diện tích thả nuôi tôm trên địa bàn tỉnh Long An là 570,1ha (bao gồm diện tích còn lại năm 2019 chuyển sang 482,2ha), trong đó tôm sú 73,6ha, tôm thẻ chân trắng 496,5ha, bằng 8,6% kế hoạch, bằng 84,6% so cùng kỳ. Trong tuần, diện tích thu hoạch 19,4ha với sản lượng 66,1 tấn. Theo đánh giá của các thương lái và người dân nuôi tôm, tôm nuôi vụ tết thường tiêu thụ mạnh, giá cao, dễ bán. Vì dịp tết thường diễn ra các lễ hội, tiệc cưới, liên hoan, trong đó các món ăn chế biến từ tôm được nhiều người ưa thích. Nguồn sản phẩm được tiêu thụ trên địa bàn tỉnh và các tỉnh lân cận.

Anh Nguyễn Tuấn Khanh, ngụ xã Nhựt Ninh, huyện Tân Trụ, thông tin: “Giá tôm vụ tết năm nay khá cao. Tôm thẻ chân trắng cỡ nhỏ, khoảng 100 con/kg có giá dao động từ 95.000-100.000 đồng/kg; còn loại trung bình, cỡ lớn từ 130.000-150.000 đồng/kg. Mức giá này ổn định lâu dài thì nuôi tôm không lo bị lỗ.Chỉ cần đạt sản lượng 2-3 tấn/ao 2.000m2 là có lãi từ 100 triệu đồng trở lên. Hiện tại, tôi còn 1 ao hơn 1.000m2 chuẩn bị thu hoạch, ước tính khoảng trên 1 tấn tôm. Với giá bán 130.000 đồng/kg, tôi có lãi trên 50 triệu đồng. Năm nay, người dân chúng tôi ăn tết khỏe”. Cũng như anh Khanh, anh Châu Thanh Tâm, ngụ cùng địa phương, chia sẻ: “Trong điều kiện khó khăn vì sự cố môi trường nuôi, nhiều vụ thua lỗ, vụ tôm tết năm nay được mùa là nguồn động viên rất lớn, giúp người dân có điều kiện tái sản xuất, bám nghề. Vụ nuôi dịp tết này, bình quân mỗi hộ lời được vài trăm triệu đồng/ha. Hiện gia đình tôi chuẩn bị thu hoạch 1 ao khoảng 0,5ha và cũng tranh thủ thời tiết thuận lợi tập trung cải tạo ao còn lại, qua tết sẽ thả nuôi vụ tiếp theo”.

 

Tôm được giá, nông dân phấn khởi trong những ngày cận tết

Bên cạnh đó, việc nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao cũng mang lại hiệu quả đáng kể trong những ngày cận tết. Ông Châu Văn Suy (xã Tân Chánh, huyện Cần Đước) cho hay: “Do chi phí đầu tư ứng dụng công nghệ cao vào nuôi tôm rất lớn, khoảng 1,5 tỉ đồng/ha, nên rất ít người dám đầu tư. Thời gian qua, ngoài 1ha ao nuôi đang thực hiện mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao, với năng suất đạt gần 15 tấn/ha/vụ, gia đình tôi còn có 2ha tôm nuôi theo hướng công nghiệp, với năng suất từ 2-2,5 tấn/ha/vụ. Theo tôi, khi nuôi tôm theo hướng công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao, tôm dễ chăm sóc, kiểm soát hơn, rủi ro ít hơn, lợi nhuận tăng, nhất là giá tôm thị trường cận tết đang cao. Hiện giá tôm tăng từ 20-30% so với 2 tháng trước.Hy vọng, giá tôm này sẽ duy trì và kéo dài qua Tết Nguyên đán”.

Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cần Đước – Nguyễn Thị Cẩm Vân thông tin: “Những năm gần đây, việc nuôi tôm của nông dân gặp nhiều khó khăn như: Ô nhiễm nguồn nước, dịch bệnh xảy ra thường xuyên, thời tiết diễn biến thất thường,…Cùng với đó, nông dân cũng chưa vệ sinh, xử lý ao, đầm đúng với yêu cầu kỹ thuật, tình trạng lạm dụng các loại thuốc kháng sinh vẫn còn diễn ra phức tạp, chưa thể kiểm soát được. Trước tình hình trên, các ban, ngành chuyên môn phối hợp chính quyền địa phương tổ chức nhiều lớp tập huấn, hướng dẫn cho người dân về quy trình kỹ thuật, quản lý chất lượng giống, vật tư, thức ăn nuôi tôm, quản lý môi trường,… Đồng thời, khuyến cáo người dân thường xuyên vệ sinh ao, đầm và cẩn trọng trong việc chọn con giống. Bên cạnh đó, tăng cường tuyên truyền, nhắc nhở nhằm nâng cao nhận thức của người dân trong việc phòng, chống dịch bệnh trên tôm, thực hiện phương châm phòng bệnh là chính, hạn chế sử dụng các loại thuốc kháng sinh. Ngoài ra, khuyến khích người dân thực hiện các mô hình luân canh hoặc nuôi kết hợp với vật nuôi khác nhằm hạn chế dịch bệnh, bảo đảm năng suất và chất lượng”.

Để người dân nuôi hiệu quả

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Đinh Thị Phương Khanh cho biết, để bảo đảm duy trì diện tích và sản lượng tôm trong năm 2020, ngành nông nghiệp sẽ xây dựng khung lịch thời vụ và tổ chức các đợt quan trắc môi trường nước phục vụ nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh để thông tin, khuyến cáo kịp thời đến các địa phương; chủ động thực hiện các giải pháp phát triển nuôi tôm nước lợ từ khâu tuyên truyền, chuyển giao khoa học – kỹ thuật, quan trắc môi trường nước, phòng, chống dịch bệnh, thanh, kiểm tra vật tư đầu vào, quản lý chặt chẽ con giống và tổ hợp tác, hợp tác xã,… cho đến việc xây dựng chuỗi liên kết. Mục tiêu đặt ra là phát triển ổn định tôm nước lợ, hạn chế thiệt hại cho tôm nuôi; thường xuyên cập nhật, thử nghiệm và chuyển giao, giới thiệu cho người nuôi những kỹ thuật, mô hình nuôi tiến bộ, hiệu quả; hướng dẫn người nuôi về các giải pháp kỹ thuật, tổ chức sản xuất và theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, khí hậu, dịch bệnh…; tập trung phát triển ngành tôm theo hướng sản xuất sạch, ứng dụng công nghệ cao.

“Mặt khác, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn yêu cầu Chi cục Chăn nuôi – Thú y và Thủy sản phối hợp địa phương phổ biến lịch mùa vụ nuôi tôm; tăng cường thanh tra, kiểm tra cơ sở sản xuất, ươm dưỡng tôm giống, cơ sở sản xuất, kinh doanh thức ăn thủy sản, xử lý môi trường trong nuôi trồng thủy sản và xử lý nghiêm trường hợp vi phạm. Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất, ươm dưỡng giống tôm, giấy xác nhận đăng ký đối tượng thủy sản nuôi chủ lực, giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện nuôi trồng thủy sản theo quy định. Thẩm định, chứng nhận các cơ sở nuôi tôm nước lợ đủ điều kiện an toàn thực phẩm được phân công quản lý; đồng thời phối hợp các địa phương trong công tác phòng, chống dịch bệnh thủy sản nuôi; tổ chức lấy mẫu giám sát, khoanh vùng, xử lý dịch bệnh không để lây lan. Đẩy mạnh tuyên truyền cho các hộ nuôi tôm thực hiện “3 không”: Không giấu dịch bệnh, xả nước thải chưa qua xử lý và xả bỏ tôm chết, tôm bệnh ra môi trường; tổ chức kiểm soát hiệu quả các bệnh trên tôm nuôi; tăng cường kiểm dịch, kiểm soát vận chuyển giống thủy sản; thanh tra, kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc thú y thủy sản và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm…” – bà Khanh nói thêm./.

Trong tuần, giá tôm thương phẩm ổn định so với tuần trước.Cụ thể, tôm thẻ cỡ 60-70 con/kg giá từ 110.000-115.000 đồng/kg; cỡ 100-110 con/kg giá từ 100.000-105.000 đồng/kg. Tôm sú cỡ 40-50 con/kg giá từ 200.000-210.000 đồng/kg; cỡ 70-80 con/kg giá từ 130.000-140.000 đồng/kg.

Huỳnh Phong

Nguồn tin: Báo Long An

Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thủy sản của doanh nghiệp tỉnh Kiên Giang

TÓM TẮT:

Bài báo phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu thủy sản của doanh nghiệp tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2008 – 2018, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục một số khó khăn, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu Kiên Giang với các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước.

Từ khóa: Xuất khẩu, năng lực cạnh tranh, khai thác và nuôi trồng thủy sản, tỉnh Kiên Giang.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang từng bước khẳng định vị trí của mình với quốc tế. Các mặt hàng của Việt Nam đã từng bước tiếp cận thị trường nước trong khu vực và trên thế giới, đem lại kim ngạch xuất khẩu (KNXK) khá lớn cho nước ta. Vì vậy, xuất khẩu (XK) trở thành vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Kiên Giang là một tỉnh lớn nhất khu vực miền Tây Nam Bộ, vùng trọng điểm kinh tế của đồng bằng sông Cửu Long, có vùng biển rộng tới 63.000km2 với trên 140 hòn đảo lớn, nhỏ, là thị trường vô cùng tiềm năng thích hợp cho việc XK thủy sản.

Tuy nhiên, thực trạng XK của Kiên Giang trong những năm qua vẫn gặp không ít khó khăn như XK bị giảm, các mặt hàng bị phá giá, các doanh nghiệp (DN) không kí được hợp đồng XK. Vì vậy, việc phân tích, đánh giá toàn bộ kết quả hoạt động XK của tỉnh Kiên Giang để đưa ra giải pháp nhằm có thể khai thác được hết những tiềm năng XK của DN tỉnh Kiên Giang là việc làm hết sức cần thiết.

2. Cơ sở lí luận về xuất khẩu

Theo Luật Thương mại 2005, hoạt động XK được nêu cụ thể tại Điều 28, khoản 1 như sau: “XK hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật”. Như vậy, XK là hoạt động buôn bán diễn ra trên phạm vi ngoài quốc gia. Việc thanh toán bằng đồng tiền ngoại tệ do bên bán và bên mua thống nhất và hàng hóa được vận chuyển qua biên giới quốc gia, phải tuân theo những tập quán buôn bán quốc tế. Hoạt động XK diễn ra trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế cả với hàng tiêu dùng cũng như với tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, chung quy lại, tất cả những hoạt động này đều nhằm mục đích đem lại lợi ích DN và quốc gia xuất nhập khẩu.

Vai trò của XK bao gồm: (1) Góp phần thúc đẩy nền kinh tế toàn cầu, tạo thêm nhiều chuỗi cung hàng hóa mang tính chất toàn cầu, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của nền kinh tế toàn cầu. Tạo ra được sự sàng lọc thông qua năng lực cạnh của từng DN. (2) Mang lại nguồn ngoại tệ cho quốc gia, với nguồn ngoại tệ này sẽ giúp quốc gia XK có nhiều cơ hội đầu tư máy móc thiết bị, phát triển công nghệ, phát triển kinh tế, đảm bảo cán cân thanh toán, tăng tích lũy và dự trữ ngoại tệ. (3) XK là việc mua bán hàng hóa thể hiện mối quan hệ kinh tế giữa 2 quốc gia, đây cũng cơ sở để các quốc gia mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ khác như giáo dục, nghiên cứu khoa học nhằm hỗ trợ phát triển chung cho 2 quốc gia. (4) Mang lại thị trường quốc tế cho DN, việc XK không những mang lại doanh thu cho DN mà còn có ý nghĩa mang lại cơ hội cho DN tiếp cận thị trường quốc tế làm cơ sở cho DN mở rộng thị trường quốc tế sau này. (5) Hoạt động XK còn có ý nghĩa quảng bá thương hiệu DN, thương hiệu quốc gia. (6) XK tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.

Như vậy, đẩy mạnh hoạt động XK là vấn đề có ý nghĩa chiến lược là mục tiêu để phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

3. Thực trạng hoạt động XK của ngành Thủy sản Việt Nam trong 15 năm qua

3.1. Phân tích KNXK ngành Thủy sản Việt Nam

Thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, ngành Thủy sản Việt Nam đã từng bước đổi mới, phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày 17/4/2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định về định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, đã mở ra hướng phát triển cho ngành Thủy sản nói riêng và các ngành kinh tế khác nói chung. Trải qua 15 năm, hoạt động XK thủy sản Việt Nam đã đạt được một số kết quả thành tựu như hỗ trợ ngư dân mở rộng ngư trường đánh bắt, gia tăng sản lượng khai thác; tuyên truyền, hướng dẫn nông dân đẩy mạnh hoạt động nuôi trồng thủy sản; hoàn thiện hoạt động sản xuất chế biến thủy sản theo công nghệ tiên tiến, từng bước tham gia và phát triển thị trường quốc tế. KNXK của thủy sản Việt Nam có xu thế phát triển trong 15 năm qua và trải qua 3 giai đoạn thăng trầm.

Giai đoạn 1 (Từ năm 2004 – 2008): Là giai đoạn 5 năm ngành Thủy sản Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới về khoa học kỹ thuật, tiếp cận một số thị trường quốc tế tiềm năng mới, đưa ngành Thủy sản đi vào ổn định theo định hướng phát triển. KNXK tăng dần theo từng năm. Nếu như năm 2004, KNXK thủy sản là 2.401 triệu USD, thì năm 2008 là 4.509 triệu USD, đạt tỉ lệ tăng trưởng 187,79%.

Giai đoạn 2 (Từ năm 2009 – 2014): Ngành Thủy sản Việt Nam vẫn tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới về khoa học kỹ thuật, nhưng tập trung vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng khai thác thị trường quốc tế đưa ngành Thủy sản đi theo hướng phát triển mang tính bền vững. KNXK tăng dần theo từng năm. Nếu như năm 2009, KNXK thủy sản đạt 4.251 triệu USD, chỉ đạt tỉ lệ 94,27% so với năm 2008, thì năm 2014, KNXK thủy sản đạt 7.922 triệu USD, đạt tỉ lệ tăng trưởng 186,35% tăng 329,94% so với năm 2004.

Giai đoạn 3 (Từ năm 2015 – 2018): Ngoài việc tiếp đầu tư khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, ngành Thủy sản của Việt Nam đã đẩy mạnh hoạt động nuôi trồng thủy sản, nhằm tạo nguồn nguyên liệu dồi dào, đáp nhu cầu gia tăng của một số thị trường lớn như EU, Mỹ, đưa ngành Thủy sản đi theo hướng phát triển bền vững. KNXK tăng dần theo từng năm. Nếu như năm 2015, KNXK thủy sản so với năm 2014 giảm xuống còn 6.677 triệu USD, thì năm 2018, KNXK thủy sản đạt 8.802 triệu USD, đạt tỉ lệ tăng trưởng131,82% so với năm 2015 và tăng 366,59% so với năm 2004.

Tuy nhiên, trong giai đoạn này, KNXK có những năm giảm so với năm trước, như năm 2015 KNXK 6.677, đạt tỉ lệ 84,28 so với năm 2014; năm 2009 KNXK 4.251, đạt tỉ lệ 94,27 so với năm 2008. Nguyên nhân là do thị trường đòi hỏi các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế cao hơn, khiến cho một số DN chưa chuẩn bị kịp để đáp ứng, bệnh dịch, thiên tai (xâm nhập mặn) làm giảm sản lượng nuôi trồng, năm 2015 sản phẩm của một số doanh nghiệp XK thủy sản kém chất lượng bị trả về làm ảnh hưởng đến thương hiệu, uy tín thủy sản Việt Nam.

Sơ đồ 1: KNXK thủy sản Việt Nam giai đoạn 2004 – 2018

ĐVT: Triệu USD

KNXK thủy sản Việt Nam giai đoạn 2004 - 2018

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Tổng cục Thống kê

3.2. Phân tích KNXK thủy sản của DN tỉnh Kiên Giang

Bảng 1. KNXH thủy sản tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2008 – 2018

Đơn vị: Triệu USD

KNXH thủy sản tỉnh Kiên Giang  giai đoạn 2008 - 2018

KNXK thủy sản tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn trên có nhiều thăng trầm, KNXK dao động từ 115 triệu USD đến 192 triệu USD, nhưng nhìn chung có xu hướng phát triển trong thời gian qua. Đáng chú ý vào các năm 2013, 2017 và 2018, KNXK ngành Thủy sản tỉnh Kiên Giang đạt trên 150 triệu USD, cụ thể:

Năm 2013, ngành XK tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2008 – 2013 rất ổn định khi UBND Kiên Giang kiến nghị Chính phủ tạo điều kiện về cơ chế, chính sách phát triển vùng biển, hải đảo, ven biển Kiên Giang thành khu kinh tế trọng điểm. Đến cuối năm 2013, số lượng tàu đánh cá của tỉnh Kiên Giang lên tới hơn 12.400 chiếc, trong đó 261 tàu dịch vụ hậu cần nghề cá, với tổng công suất gần 1,7 triệu CV. Năm 2013, cũng là năm thành công khi tỉnh Kiên Giang kiên quyết không cho ngư dân đóng mới tàu công suất nhỏ kết hợp giảm dần số lượng, khuyến khích đầu tư phát triển tàu cá công suất lớn, tạo điều thuận lợi cho ngư dân chuyển đổi ngành nghề như: nuôi cá lồng bè, nuôi trồng thủy sản ven biển… Đồng thời, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện những chính sách của Chính phủ về hỗ trợ ngư dân phát triển phương tiện khai thác đánh bắt thủy sản ở vùng biển xa bờ; Tổ chức đánh bắt thủy sản theo từng tổ, đội tàu để hỗ trợ nhau, cung ứng nhiên liệu, vật tư và thu gom sản phẩm trên ngư trường, nhằm giảm chi phí sản xuất cho từng chuyến đánh bắt, khai thác biển của ngư dân, kết hợp đẩy mạnh công tác khuyến ngư trong khai thác xa bờ; xúc tiến và tạo điều kiện thuận lợi cho các DN liên kết với DN nước ngoài đưa tàu đi khai thác vùng biển Malaysia, Indonesia…

Năm 2017, tỉnh Kiên Giang xác định nuôi trồng thủy sản là thế mạnh của tỉnh, đặc biệt là ngành Nuôi tôm. Thời điểm này, diện tích nuôi trồng thủy sản tỉnh Kiên Giang liên tục tăng, từ 159.175 ha năm 2014 lên đến 221.580 ha năm 2016. Bên cạnh việc liên tục tăng diện tích, năng suất và sản lượng thì các loại hình nuôi thủy sản  trong tỉnh cũng ngày càng đa dạng. Trong đó, các mô hình nuôi ghép ngày càng phong phú, kể cả nuôi nước lợ và nuôi nước ngọt. Áp dụng và triển khai rộng rãi mô hình trồng lúa và nuôi tôm trên cùng một diện tích canh tác như mô hình tôm sú – lúa; tôm sú – cua – lúa; tôm sú – sò; tôm sú – sò – rừng; tôm càng xanh – lúa; lúa – cá,… tận dụng khai thác tiềm năng của đất và mặt nước, tạo vùng nguyên liệu cung cấp sản phẩm sạch cho thị trường trong nước và quốc tế. Năm 2017, Tỉnh siết chặt việc quản lý chất lượng tôm giống ngay từ đầu năm, các đoàn kiểm tra do Chi cục Chăn nuôi và Thú y chủ trì thường xuyên thanh tra, kiểm tra lưu động tại các vùng nuôi tôm trọng điểm. Đồng thời, giao Sở Nông nghiệp và PTNT khẩn trương xây dựng các phòng thí nghiệm kiểm dịch giống thủy sản kết hợp với quảng bá sản phẩm và không thu phí kiểm dịch; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở cung cấp giống phải đảm bảo chất lượng.

3.3. Thuận lợi và khó khăn ngành Thủy sản Kiên Giang

3.3.1. Về thuận lợi

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện ở các lĩnh vực kinh tế, giáo dục…, các ngành nghề kinh doanh, bước đầu có những kết quả chuyển biến tốt.

Thứ hai, ngành Thủy sản Việt Nam đã có sự nghiên cứu, đầu tư cải tiến công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại phục vụ sản xuất, sản phẩm đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng quốc tế một số thị trường lớn châu Âu, Mỹ, đồng thời lực lượng lao động trong ngành Thủy sản cũng từng bước được nâng cao trình độ để tiếp cận các công nghệ mới.

Thứ ba, năng lực khai thác thị trường quốc tế của ngành Thủy sản Việt Nam nói chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng ngày càng phát triển, với việc tiếp cận và cung cấp sản phẩm cho hơn 163 thị trường ở 5 châu lục, doanh số XK tập trung chủ yếu ở các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, tiềm năng phát triển thị trường còn lớn.

Thứ tư, Kiên Giang là địa phương có diện tích bờ biển dài hơn 200km, có nguồn nguyên liệu ổn định và đa dạng, có tiềm năng phát triển diện tích nuôi biển, nuôi sinh thái các giống loài thủy hải sản tạo đảm bảo nguồn cung cho XK.

Thứ năm, sản phẩm thủy sản đa dạng, phong phú, có tiềm năng nâng cao giá trị gia tăng cho các sản phẩm như tôm sú, cá tra và có khả năng đa dạng hóa sản phẩm từ các nguồn thủy sản nuôi trồng và đánh bắt khác.

Thứ sáu, tỉnh Kiên Giang đã hình thành và triển khai một số chiến lược phát triển ngành Thủy sản theo hướng bền vững, phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng bảo vệ môi trường sinh thái.

3.3.2. Khó khăn

Ngành Thủy sản Kiên Giang có nhiều thuận lợi, nhưng cũng gặp không ít khó khăn trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu mang lại.

Thứ nhất, do xu thế thế toàn cầu hóa nên áp lực cạnh tranh đè nặng lên hoạt động XK của ngành Thủy sản Việt Nam. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp XK Kiên Giang còn hạn chế so với các DN, công ty nước ngoài. Trong đó, năng lực cạnh tranh bên trong DN còn nhiều hạn chế cần khắc phục thì mới vượt qua được một số thị trường lớn như Mỹ, EU… Đặc biệt với việc EU cảnh báo thẻ vàng đối với mặt hàng thủy sản của Việt Nam XK vào EU từ cuối năm 2017, đã gây khó khăn với ngành Thủy sản Kiên Giang nói riêng và ngành Thủy sản Việt Nam nói chung.

Thứ hai, là vấn đề an toàn thực phẩm được thể hiện qua các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ngày càng đa dạng và khắt khe. Mỗi thị trường đều chọn cho mình một tiêu chuẩn chất lượng quốc tế để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và phù hợp với tập quán tiêu dùng của thị trường đó. Chính vì vậy, không những ngành Thủy sản Kiên Giang, mà cả ngành Thủy sản Việt Nam phải nghiên cứu và nỗ lực hết mình mới đáp ứng được sự đa dạng về tiêu chuẩn chất lượng quốc tế của thị trường thế giới.

Thứ ba, ngoài việc đánh bắt, hoạt động nuôi trồng thủy sản Kiên Giang còn gặp nhiều khó khăn như bệnh dịch, thời tiết khí hậu bất thường, thiên tai, kỹ thuật chăm sóc, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho quá trình nuôi trồng chưa hoàn chỉnh, đồng bộ.

Thứ tư, việc quản lý chất lượng tôm giống còn bất cập, chưa đồng bộ dẫn đến việc tôm giống bị pha trộn, lai tạp là nguyên nhân gây ra bệnh dịch, tôm chết hàng loạt khi bắt đầu trưởng thành, chuẩn bị thu hoạch.

Thứ năm, một số biến động, xung đột về kinh tế, quân sự trên thế giới làm cho XK thủy sản Việt Nam bị ảnh hưởng, có sự sụt giảm về nhu cầu khiến cho sản lượng và KNXK Việt Nam có khuynh hướng giảm. Cụ thể, sự cạnh tranh với Ấn Độ và Ecuador trên thị trường tôm, cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung làm xáo trộn thị trường, ảnh hưởng đến nhu cầu, cùng với đồng nhân dân tệ mất giá cũng là những yếu tố gây ảnh hưởng đến XK thủy sản sang thị trường này.

4. Đề xuất giải pháp phát triển ngành Thủy sản Kiên Giang

Căn cứ vào chương trình hành động của Tỉnh ủy và thực trạng phân tích trên, tác giả xin đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của DN ngành Thủy sản tỉnh Kiên Giang như sau:

Thứ nhất, nghiên cứu nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp XK Kiên Giang. Trong đó, tập trung nâng cao năng lực sản xuất, công nghệ, giúp DN sản xuất những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, giảm dần tỷ trọng hàng XK sơ chế, phát triển sản xuất các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh. Nâng cao năng lực nghiên cứu thị trường, nhằm giúp DN thâm nhập thị trường quốc tế sâu rộng, tạo thị phần ổn định trên thị trường khu vực và thế giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao năng lực tài chính để giúp DN khai thác tốt các nguồn vốn trong và ngoài nước, đảm bảo cho hoạt động XK doanh nghiệp được phát triển bền vững.

Thứ hai, áp dụng công nghệ bảo quản sản phẩm sau thu hoạch để giảm thất thoát và nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm thủy sản. Đồng thời, tăng cường công tác đăng ký, đăng kiểm để bảo đảm an toàn cho người và phương tiện tàu cá hoạt động hiệu quả; bảo vệ nguồn lợi thủy sản có sự tham gia của cộng đồng; Tiếp tục đầu tư, nâng cấp các cảng cá, bến cá và đội tàu dịch vụ hậu cần nghề cá đáp ứng nhu cầu khai thác đánh bắt thủy sản.

Thứ ba, cần xây dựng một chiến lược khắc phục sự biến đổi khí hậu về thời tiết, nắng nóng, xâm nhập mặn do độ dâng của biển nhằm giảm thiểu tối đa sự thiệt hại nguồn thủy sản của tỉnh Kiên Giang. Đồng thời, tiếp tục xây dựng và triển khai các kế hoạch chương trình hành động cụ thể theo hướng nuôi trồng và khai thác thủy hải sản mang tính bền vững, phù hợp với từng nhóm nghề, ngư trường, vùng biển; tập trung đầu tư sản xuất, nhất là nuôi tôm nước lợ, tôm thâm canh – bán thâm canh, tôm quảng canh cải tiến, tôm càng xanh trong ruộng lúa, cua biển và các loài nhuyễn thể ở những nơi có điều kiện theo hướng công nghiệp, hiện đại và bền vững, thích ứng trong điều kiện biến đổi khí hậu để nhằm đạt được hiệu quả cao về kinh tế cũng như lợi nhuận.

Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu, tập trung xây dựng ngành Thủy sản thành ngành XK hàng hóa lớn của tỉnh theo hướng hiện đại, hiệu quả cao,…; tập trung, rà soát lại các cơ sở hạ tầng nông nghiệp, xây dựng kế hoạch sản xuất phù hợp, tránh chồng chéo; tạo sự đồng thuận trong nuôi trồng thủy sản và trồng lúa, đẩy mạnh công tác quản lý vật tư đầu vào phục vụ cho nuôi trồng thủy sản, tuyên truyền cho người nuôi sử dụng các sản phẩm an toàn, kiểm soát chặt chẽ quy trình nuôi không còn dư lượng kháng sinh và các tạp chất khác trong sản phẩm.

Thứ năm, ngành Thủy sản Kiên Giang cần đẩy mạnh mối quan hệ, liên kết đầu tư với các đối tác, phấn đấu xây dựng chuỗi liên kết 5: nhà nông – nhà khoa học – DN – Nhà nước – ngân hàng để gia tăng sản lượng đánh bắt, nuôi trồng và sản xuất, chế biến thủy sản, đáp ứng chuỗi cung toàn cầu cho ngành Thủy sản Kiên Giang. Đồng thời, các ngân hàng tại tỉnh cũng cần tạo điều kiện cho các DN đầu tư nâng cấp công suất nhà máy, dây chuyền sản xuất, mời gọi, thu hút những dự án quy mô lớn, công nghệ tiên tiến hiện đại vào chế biến nông sản hàng hóa xuất khẩu. Tiếp tục thực hiện dự án xây dựng khu công nghệ cao phát triển ngành Tôm.

Thứ sáu, tăng cường kiểm tra việc chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định IUU của Liên minh châu Âu và một số quốc gia khác ngày càng được siết chặt. IUU quy định tất cả lô hàng thủy sản khai thác phải có chứng nhận tên tàu khai thác, vùng biển khai thác. Điều này gây khó khăn cho Thủy sản Việt Nam trong việc đảm bảo uy tín trên thị trường thế giới. Vì vậy, việc tăng cường kiểm tra biển kết hợp với việc bảo vệ biển đảo để bảo vệ chủ quyền biển Việt Nam, đặc biệt là các huyện đảo phải gắn phát triển sản xuất với an ninh quốc phòng là việc làm vô cùng cần thiết.

5. Kết luận

XK thủy sản là một trong những hàng hóa đem lại kim ngạch lớn cho tỉnh Kiên Giang. Vì vậy, Tỉnh cần triển khai đồng bộ các giải pháp trên để sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản được an toàn và hiệu quả, tạo ra nguồn nguyên liệu thủy sản chất lượng cao một cách ổn định, cung cấp đầy đủ cho hoạt động chế biến XK, phát triển kinh tế biển theo hướng bền vững, sinh thái, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phấn đấu XK thủy sản đạt 1 tỷ USD đến năm 2019 – 2020, trở thành tỉnh phát triển mạnh về kinh tế biển trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, góp phần vào việc gia tăng GDP của cả nước.

Nguồn : http://tapchicongthuong.vn/