Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Tin Tức Ngành

Nuôi tôm siêu thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long

Bài 2: Cần lộ trình vững bền

Nuôi tôm siêu thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long

Chế biến tôm xuất khẩu tại nhà máy của Tập đoàn Minh Phú ở Khu công nghiệp Nam Sông Hậu (tỉnh Hậu Giang). Ảnh: VŨ SINH (TTXVN)

(Tiếp theo và hết) *

Hình thức nuôi tôm siêu thâm canh đã tạo được những đột phá và thu được thành công bước đầu ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Tuy nhiên, mở rộng mô hình như thế nào lại là câu chuyện cần tính toán kỹ, có lộ trình bền vững, nhất là trong điều kiện còn nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng, năng lực chế biến, nguồn vốn, khoa học kỹ thuật của khu vực hiện nay.

Không dễ nhân rộng mô hình

Mô hình nuôi tôm siêu thâm canh thật sự mang lại hiệu quả cao, nhưng việc áp dụng trong thực tế lại không hề dễ dàng do những đòi hỏi khắt khe về khoa học kỹ thuật, vốn đầu tư, xử lý chất thải… Riêng về vốn, để thực hiện mô hình này, người dân phải đầu tư khoảng 700 triệu đồng/ha nên không phải ai cũng có điều kiện làm. Hiện nay, trong các chính sách phát triển nông nghiệp có những quy định ưu tiên cho vay vốn nhưng riêng với nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh, các ngân hàng thường rất ngại cho vay. Ông Lê Hoàng Kiếm, xã Tân Bằng, huyện Thới Bình (Cà Mau) hiện đang nuôi tôm quảng canh cho biết: Dù rất muốn chuyển sang mô hình nuôi thâm canh và siêu thâm canh nhưng nguồn vốn vay từ ngân hàng cũng không thể đủ để người nuôi tôm đầu tư bài bản. Trong khi đó, sản xuất tôm phụ thuộc nhiều vào thời tiết, biến đổi khí hậu; tình hình dịch bệnh luôn tiềm ẩn, diễn biến phức tạp, chưa có giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả. Nếu cứ làm theo phong trào mà không tìm hiểu kỹ sẽ rất nguy hiểm.

Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre Nguyễn Văn Buội, mặc dù nuôi tôm siêu thâm canh đạt hiệu quả kinh tế vượt trội so với các hình thức nuôi khác, nhưng nhiều người nuôi tôm chưa có ý thức coi trọng việc bảo vệ môi trường. Qua kiểm tra, khảo sát thực tế tại nhiều vùng nuôi cho thấy, các hộ nuôi chưa tuân thủ tốt những quy định về bảo vệ môi trường, trong đó, việc bố trí hệ thống xử lý, chất thải, nước thải chưa đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định.

Đáng chú ý, một khâu hết sức quan trọng trong chuỗi hình thành giá trị tôm là chế biến lại đang mất cân đối, khập khiễng. Tại khu vực ĐBSCL, ngoài Cà Mau có 30 doanh nghiệp với 32 nhà máy chế biến xuất khẩu tôm, công suất 250 nghìn tấn tôm nguyên liệu/năm và Bạc Liêu có khoảng 10 nhà máy chế biến tôm thì ở các địa phương khác khâu chế biến tôm đều chưa phát triển. Thí dụ như Bến Tre có 13 nhà máy chế biến thủy sản phục vụ xuất khẩu với công suất thiết kế 150 nghìn tấn/năm nhưng chủ yếu chế biến các sản phẩm từ cá tra, nghêu mà chưa có nhà máy chế biến tôm. Gần như toàn bộ sản lượng tôm thu hoạch phải chở sang Sóc Trăng, Trà Vinh hay Bạc Liêu để chế biến. Do chưa có nhà máy chế biến tôm cho nên người nuôi chủ yếu bán cho thương lái vận chuyển đến các nhà máy trong khu vực để tiêu thụ hoặc bán ở các chợ. Vì thế, giá tôm nguyên liệu thấp hơn một số vùng trong khu vực, không đủ bù đắp chi phí cao cho hình thức nuôi công nghệ cao…

Theo thống kê của các địa phương, việc chuyển đổi từ các mô hình nuôi trồng cũ sang nuôi tôm siêu thâm canh hiện mới chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Tại Cà Mau có 280 nghìn ha nuôi tôm thì mới có khoảng 9.500 ha nuôi siêu thâm canh, Bạc Liêu có gần 130 nghìn ha thì mới có khoảng 8.000 ha và Bến Tre có 35 nghìn ha thì mới có 11.500 ha nuôi tôm thâm canh và siêu thâm canh.

Cần những giải pháp trước mắt và lâu dài

Để mở rộng mô hình nuôi tôm thâm canh và siêu thâm canh cần có những giải pháp trước mắt và lâu dài. Giám đốc Sở Công thương Cà Mau Nguyễn Văn Đô cho rằng: Ngoài các tác động khách quan, ngành nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu tôm khu vực ĐBSCL muốn đi nhanh và vững chắc đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn trong nội tại. Thí dụ như tại Cà Mau, quy hoạch phát triển ngành tôm chưa được phê duyệt, phát triển còn mang tính tự phát, nhiều dự án nuôi tập trung quy mô lớn đã được đưa vào quy hoạch nhưng do thiếu nguồn vốn nên chậm được triển khai; kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho phát triển sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi và xây dựng vùng sản xuất tập trung quy mô lớn. Liên kết hợp tác sản xuất chậm phát triển và chưa bền vững, chủ yếu do thiếu cơ chế phù hợp, chưa hợp lý trong phân chia lợi ích và nhìn chung nông hộ chưa quan tâm, doanh nghiệp chưa chủ động xây dựng và thúc đẩy các hình thức liên kết phát triển.

Theo Phó Chi cục trưởng Thủy sản Cà Mau Nguyễn Văn Trung, trước hết phải rà soát và quy hoạch lại ngành tôm để thích ứng biến đổi khí hậu, thí điểm áp dụng việc tích tụ ruộng đất để phát triển sản xuất tập trung; chú trọng phát triển những mô hình nuôi có ưu thế hiện nay. Tại Cà Mau, trong số các mô hình tôm – lúa (tôm hữu cơ); mô hình tôm – rừng (tôm sinh thái); mô hình ứng dụng công nghệ cao (siêu thâm canh); mô hình nuôi quảng canh cải tiến và quảng canh kết hợp (tôm và các giống khác như cua, cá, sò huyết…), tỉnh xác định để phát triển bền vững sẽ lấy loại hình tôm – rừng, tôm – lúa sinh thái làm bàn đạp nhưng để tăng sản lượng tôm, chính hình thức nuôi siêu thâm canh giữ vai trò quyết định, bởi mô hình nuôi này chỉ chiếm khoảng 3,5% diện tích, với khoảng 9.500 ha nhưng lại dẫn đầu về sản lượng so với các loại hình nuôi khác.

Trước mắt, để phát triển nghề nuôi tôm một cách bền vững, cần đẩy mạnh thực hiện liên kết chuỗi nhằm phát triển sản xuất quy mô lớn mà một số địa phương như Bến Tre đã bước đầu thực hiện bằng cách liên kết, hỗ trợ nhau trong việc tiếp cận nguồn vốn, khoa học kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm. Tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong nuôi tôm, chú trọng đến nuôi tôm hữu cơ, nuôi sinh thái, nuôi tôm có trách nhiệm, bảo đảm an toàn thực phẩm gắn với truy xuất nguồn gốc để vượt qua các rào cản của những thị trường đòi hỏi chất lượng cao. Tổ chức lại các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, phân tán theo hình thức hợp tác các tổ hợp tác, hợp tác xã để tạo ra các vùng sản xuất nguyên liệu lớn, tập trung và liên kết với các doanh nghiệp cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị. Đáng chú ý, ĐBSCL là khu vực đi đầu trong cả nước về nuôi trồng và chế biến tôm, do vậy phải xây dựng được những thương hiệu tôm mang tầm vóc khu vực và quốc gia trong thời gian tới. Việc xây dựng thương hiệu tôm Việt Nam được xác định là một trong những hoạt động nhằm cụ thể hóa các giải pháp thực hiện kế hoạch hành động quốc gia phát triển ngành tôm được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, từng bước định vị, khẳng định vị thế về chất lượng, uy tín của sản phẩm tôm Việt Nam trên thị trường quốc tế.

(*) Xem Báo Nhân Dân từ số ra ngày 2-4-2020.

Theo Tổng cục trưởng Thủy sản Trần Đình Luân, trong điều kiện thực tế của ĐBSCL hiện nay, cần tính toán, cân nhắc kỹ trong việc nhân rộng mô hình nuôi tôm siêu thâm canh, bởi mô hình này hiệu quả cao, nhưng đòi hỏi những điều kiện khắt khe về kỹ thuật, vốn đầu tư lớn và lượng chất thải cũng lớn, nếu không xử lý tốt sẽ gây ô nhiễm nghiêm trọng. Chính vì vậy, trước mắt chỉ nên phát triển mô hình này ở những nơi có đủ điều kiện và gắn với những cơ sở nuôi có đầy đủ điều kiện về khoa học kỹ thuật, nguồn vốn, đồng thời phải gắn với cơ sở chế biến, xuất khẩu…

TÂM TÙNG VÀ TRUNG TUẤN

Giá tôm làm khó người nuôi và doanh nghiệp

Những ngày gần đây, giá tôm nguyên liệu, nhất là tôm sú biến động rất mạnh, làm hàng trăm ngàn hộ dân nuôi tôm vùng ĐBSCL gặp nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp xuất khẩu tôm cũng “thấm đòn” khi hàng xuất khẩu không được, hàng tồn kho ngày càng nhiều.

Giá tôm giảm làm người nuôi không có lợi nhuận

Giảm mạnh

Vừa thu hoạch đợt tôm sú vào con nước cuối tháng 2 (âm lịch) vừa qua, bà Phạm Thị Loan (xã An Trạch A, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu) nhẩm tính bị “mất” gần 800.000 đồng so với đợt bắt tôm vào con nước giữa tháng. Bà Loan nói: “Con nước vừa rồi, tôi xổ vuông hơn 30kg tôm sú, loại từ 30-40 con/kg, bán được gần 3,8 triệu đồng. Trong khi đó, con nước trước, tôi xổ chỉ 28kg mà bán hơn 4,5 triệu đồng. Hiện tôm nuôi đang vào chính vụ nhưng với giá tôm giảm như vậy, người nông dân còn đâu nữa mà ăn”.

Theo người nuôi tôm ven biển các tỉnh như Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng…, chưa bao giờ trong thời gian ngắn mà giá tôm giảm mạnh như hiện nay, mà giảm mạnh nhất là tôm sú. Chỉ hơn một tuần, giá tôm giảm kỷ lục khoảng 70.000 đồng/kg, còn so với cùng kỳ năm trước thì giá tôm sú (tùy loại) giảm từ 100.000 – 140.000 đồng.

Theo thống kê, giá tôm trong tuần thứ 3 (trong tháng 3-2020), tôm sú loại 20 con/kg giá 170.000 – 200.000 đồng/kg (giảm 60.000 đồng/kg so với tuần trước); tôm sú loại 30 con/kg giá 130.000 – 170.000 đồng/kg (giảm khoảng 70.000 đồng/kg); tôm sú loại 40 con/kg có giá khoảng 90.000 – 130.000 đồng/kg (giảm 40.000 đồng/kg). Riêng loại tôm thẻ chân trắng giảm nhẹ hơn, đối với loại 100 con/kg tôm thẻ chân trắng nuôi ao phủ bạt giá từ 72.000 – 78.000 đồng (giảm 20.000 đồng/kg), nuôi ao đất giá hiện còn 65.000 – 75.000 đồng/kg (giảm 16.000 đồng/kg).

Theo người dân, với giá như hiện nay, nhất là tôm thẻ chân trắng, người nuôi đối diện rủi ro rất cao. Ông Trần Văn Việt (xã Tân Dân, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau) cho biết: “Tùy theo kinh nghiệm và am hiểu kỹ thuật mà nuôi trúng nhiều hay ít. Nhưng với cách nuôi ao đất hiện nay thì giá tôm từ 80.000 đồng/kg (loại 100 con) trở lên mới có lời. Với giá tôm như hiện nay, dân nuôi tôm treo ao đầy”.

Theo Sở NN-PTNT tỉnh Cà Mau, do dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động thu mua, chế biến, xuất khẩu tôm của các doanh nghiệp và tình hình nuôi tôm trên địa bàn. Một số doanh nghiệp, thương lái ngừng mua hoặc mua hạn chế với giá thấp, làm cho giá tôm giảm bất thường. Người nuôi tôm hoang mang, lo không bán được tôm trong thời gian tới, không xác định được giá tôm trên thị trường, nên một số đã bán tôm khi chưa đến lứa thu hoạch với giá rất thấp.

Hàng tồn kho tăng

Theo các doanh nghiệp xuất khẩu tôm tại ĐBSCL, dù các cửa khẩu giao thương với Trung Quốc thông quan trở lại, nhưng lượng hàng chỉ nhỏ giọt, khi hàng vào nội địa cũng bị hạn chế việc di chuyển, mặt hàng tôm tiêu thụ được rất ít. Còn thị trường EU, do diễn biến dịch Covid-19 rất phức tạp, hiện các đơn hàng nhập khẩu tôm đã ký hầu hết đều bị tạm hoãn ít nhất đến hết tháng 4-2020 và không ký đơn hàng mới. Thị trường Mỹ hiện chưa biến động nhiều, vẫn còn duy trì nhập tôm Việt Nam nhưng cũng bắt đầu có dấu hiệu chững lại, các thị trường còn lại đều khó do dịch bệnh.

Ông Lê Văn Sử, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, cho biết do dịch Covid-19 nên tất cả các thị trường xuất khẩu tôm đều ảnh hưởng. Về phía tỉnh, hội, ngành thủy sản dù đã phản ứng nhanh và chủ động, nhưng do tình hình khách quan nên các chính sách ban hành chưa đủ, việc cụ thể hóa chính sách hỗ trợ doanh nghiệp còn chậm.

Trước thực tế như vậy, UBND tỉnh yêu cầu Sở Công thương phối hợp với các đơn vị có liên quan thiết kế mẫu để thu thập thông tin từ các doanh nghiệp chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản trên địa bàn tỉnh: về công suất thiết kế, công suất đang chế biến, hàng tồn kho theo hợp đồng, số lượng công nhân, năng lực chế biến, thị trường, số lượng và sản lượng chế biến, khả năng lưu kho đăng ký trữ. Bên cạnh đó, các đơn vị có liên quan nắm tình hình đang thả nuôi, dự báo thu hoạch, giá cả thu mua tôm nguyên liệu tại các đại lý… để có giải pháp phù hợp, đồng thời kiến nghị Trung ương có những chính sách phù hợp đối với các doanh nghiệp chế biến tôm xuất khẩu.

TẤN THÁI
Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Im ắng tôm đầu vụ

Bán tôm
Người nuôi tôm ở Sóc Trăng lo âu trước những khó khăn mới. Ảnh: XT.

Người nuôi tôm ven biển ở Đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu gặp khó. Đầu vụ thả giống, trước diễn biến xấu dịch bệnh Covid-19 các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản dự báo chặng đường đầy cam go.

Về thăm vùng tôm

Sớm đầu hè, nắng sớm ban mai đã phả hơi nóng trên dọc con đường Nam sông Hậu chạy về phía cửa biển Trần Đề. Nối tiếp những ao tôm giăng giăng bên phía ngoài đê sông ở địa phận Long Phú (Sóc Trăng) vòng ra Mỏ Ó (huyện Trần Đề, Sóc Trăng). Đi dọc ven biển Đông thuộc thị xã Vĩnh Châu… cả một vùng nuôi tôm rộng lớn nhưng không khí vào mùa thả giống lại khá im vắng.

Chị Ly, chủ hộ nuôi tôm ở phường Khánh Hòa, thị xã Vĩnh Châu có 40 ao nuôi tôm thẻ chân trắng. Từ đầu vụ tới nay nhà chị mới thả giống chừng vài ba ao. Bên mái hiên nhà, nắng gió hầm hập, chị cho hay, mấy năm trước vào độ này nhà chị và bà con trong xóm đã vào vụ thả nuôi gần một tháng. Nhưng năm nay hạn mặn gay gắt chưa từng thấy, bà con lo sợ rủi ro. Có người thả tôm sớm chừng được hơn 20 ngày, lo lắng ngày đêm mà tôm vẫn hư phải xổ bỏ. Nếu nuôi tôm ráng cầm cự qua hơn một tháng có thể vớt vát 300-400 con/kg còn gỡ được chút vốn. Ra chợ chợ thấy bán tôm thẻ non cỡ 200 kg/con là tôm nuôi được gần 1,5 tháng, sắp bị hư nên người nuôi bán vội. Nhiều hộ nuôi tôm nấn ná chờ giữa tháng 4 mưa sa, hạ bớt độ mặn mới vào vụ.

Theo chị Ly, lúc này một số hộ lân cận đo độ mặn ngoài sông định lấy nước vào ao, mặn lên tới 30‰. Trong khi độ mặn nuôi thả tôm theo khuyến cáo của cán bộ thủy sản địa phương và kinh nghiệm nuôi tôm là từ 10-12 ‰ là thích hợp. Nhưng chậm thả tôm nuôi lúc này còn thêm lý do nữa là giá tôm thấp quá. Tôm cỡ 100 con/kg giá nhà máy thu mua 76.000 đ/kg. Hơn nữa nhà máy chế biến chỉ thu mua cầm chừng, trữ kho, do tình hình xuất khẩu chưa mạnh.

Bà Quách Thị Thanh Bình, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Sóc Trăng cho rằng: Thời tiết nắng nóng, độ mặn tăng cao khiến cho bà con nuôi tôm lo ngại các bệnh dễ gây tổn thất nhất là bệnh đốm trắng, đỏ thân, bệnh gan tụy cấp và ngán nhất là bệnh mới vi bào tử trùng nuôi tôm hoài không lớn. Vùng nuôi tôm ở Sóc Trăng có khung lịch thời vụ năm 2020 bắt đầu từ ngày 20/1 kết thúc ngày 30/9. Hiện đã bước vào vụ nuôi tôm nước lợ, diện tích thả nuôi xấp xỉ tương đương so với cùng kỳ. Phần lớn diện tích còn lại bà con vẫn tập trung cải tạo và lấy nước vào chuẩn bị xử lý. Theo dõi tình hình xâm nhập mặn hiện nay nước mặn đã đi sâu các khu vực nội đồng, nhưng chưa gây thiệt hại đến tôm nước lợ.

Thị trường khó tiên liệu

Ảnh hưởng tình hình dịch bệnh Covid-19 toàn cầu khiến cho kinh tế nhiều ngành nghề khó dự đoán trước. Trong đó xuất khẩu thủy sản qua 2 tháng đầu năm vẫn giữ nhịp xuất khẩu đều, nhưng bước vào tháng 3 tình hình phát tín hiệu báo động.


Các trại nuôi tôm có điều kiện đã sớm vào vụ. Ảnh: XT.

Ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ Phần Thực phẩm Sao Ta nhận định: Đến nay tình huống ngày càng xấu hơn. Các đơn hàng nguyên năm lùi ngày thảo luận, bởi do lo phòng chống Covid-19. Nghe thông tin thì khách hàng từ Trung Quốc và Hàn Quốc có yêu cầu lùi ngày giao hàng. Riêng công ty Sao Ta thì chưa bị. Trong tháng 4, tháng 5 sắp tới tôm vào mùa nhưng diễn biến thị trường tôm hiện thời chưa nói lên điều gì khi Covid-19 chưa có dự báo lúc nào kết thúc. Thực trạng hiện nay là tôm tươi đang giảm giá khá mạnh do hạn chế nhu cầu. Song song tôm nuôi đang gặp dịch bệnh khá nặng, nhất là vùng Sóc Trăng.

Theo ông Lực, hiện nay tình hình thị trường xuất khẩu đang vô cùng khó khăn. EU đóng cửa biên giới, dân ở trong nhà. Nhà hàng không khách, sức tiêu thụ giảm. Tình hình Hoa Kỳ khả năng tương tự. Riêng Nhật Bản còn ổn định.

“Trong tình hình căng thẳng giữa mùa đề phòng dịch bệnh, vấn đề căn bản là làm thế nào giữ ổn định cho doanh nghiệp trụ vững, vượt qua. Hiện Sao Ta đã thành lập Ban chỉ đạo phòng chống Covid-19, kiểm tra hàng ngày. Do diễn biến Covid-19 có xu hướng xấu lên, mọi điều đều có khả năng xảy ra, nên chúng tôi đang triển khai xây dựng kịch bản ứng phó tình huống xấu nhất xảy ra nhằm hạn chế tối đa thiệt hại. Các khách hàng cũng đang lo âu về tình hình tiêu thụ tôm, cho nên chúng tôi chưa có thể dự liệu những gì xa hơn”, ông Lực nói.

Dù tình hình đang đối mặt nhiều khó khăn nhưng rất may vùng nuôi tôm chưa vào vụ và tôm thu hoạch chưa nhiều. Các nhà máy chưa áp lực phải thu mua tôm nguyên liệu nhiều. Tôm chưa chưa ứ đọng, tồn kho. Doanh nghiệp thủy sản chưa kẹt vốn nhiều. Nếu như thị trường Trung Quốc sớm hết dịch sẽ có lợi. Hoạt động xuất nhập khẩu phục hồi, ngành cá tra sẽ hưởng lợi nhiều hơn ngành tôm.

Hữu Đức Nông nghiệp Việt Nam

Ngành tôm đang bị hủy đơn, còn thêm nỗi lo thiếu nguyên liệu khi hết dịch

Tôm
Ngành tôm đang trong thời kỳ nỗi lo chồng chất nỗi lo.

Nhiều công ty xuất khẩu thủy sản nhận hàng loạt yêu cầu hoãn giao hàng hoặc hủy đơn hàng tập trung chủ yếu tại thị trường châu Âu, Hàn Quốc và Trung Quốc. Tuy nhiên, các doanh nghiệp lại còn lo thiếu nguyên liệu khi thị trường phục hồi.

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (Vasep) đã gửi Công văn số 33/2020 tới Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường báo cáo về ảnh hưởng của dịch COVID-19 đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu thủy sản Việt Nam.

Theo số liệu thống kê của Hải quan, hai tháng đầu năm 2020, tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của cả nước đạt trên 991 triệu USD, giảm gần 11% so với cùng kỳ năm ngoái.

Dịch COVID-19 ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất xuất khẩu, ảnh hưởng nhiều nhất đến thị trường Trung Quốc trong hai tháng đầu năm, khiến kim ngạch xuất sang thị trường này giảm mạnh 44%. Xuất khẩu sang EU cũng giảm mạnh 20%, các thị trường khác như ASEAN, Hàn Quốc giảm so với cùng kỳ năm ngoái.

30% đơn hàng bị hủy

Tỉ lệ các đơn hàng vẫn được giao bình thường theo hợp đồng đã ký của doanh nghiệp thủy sản chỉ chiếm 30%-50%. Trong khi đó, tỉ lệ các đơn hàng bị khách yêu cầu tạm hoãn và tỉ lệ các đơn hàng bị khách yêu cầu dừng hoặc hủy khá cao (lần lượt 20%-40% và 20%-30%).

Các thị trường có tỉ lệ khách hàng yêu cầu hoãn giao hàng hoặc hủy đơn hàng tập trung chủ yếu tại thị trường châu Âu, Hàn Quốc và Trung Quốc. Các thị trường khác như Nhật Bản, Mỹ, Nga,… cũng có các đơn hàng bị hoãn và hủy nhưng không nhiều như nhóm thị trường kể trên.

Đặc biệt tại thị trường châu Âu phần lớn các đơn hàng tôm bị yêu cầu hoãn hoặc hủy đơn hàng.

Nguyên nhân chính được khách hàng đưa ra là do Chính phủ các nước đóng cửa biên giới vì dịch COVID-19. Khách hàng không bán được hàng nên không nhập hàng tiếp, các cửa hàng dịch vụ thực phẩm cũng ngừng hoạt động.

Rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ gần như không có các đơn hàng mới trong quý II, quý III-2020, một số doanh nghiệp khác có được đơn hàng mới nhưng không nhiều.

Hầu hết các doanh nghiệp thủy sản ở cả ba nhóm hàng (tôm, cá tra, hải sản khai thác) đều gặp khó khăn trong vấn đề tài chính vì doanh nghiệp thu hồi tiền hàng từ khách hàng chậm và rất chậm. Doanh thu xuất khẩu giảm mạnh. Vì vậy, doanh nghiệp không xoay vòng được vốn, không có tiền trả các khoản vay lãi suất cao của ngân hàng.

Lo thiếu nguyên liệu trầm trọng

Hiện tình hình ngập mặn tại các tỉnh ĐBSCL đang ảnh hưởng đến việc nuôi trồng nguyên liệu thủy sản cho chế biến và xuất khẩu. Kho lạnh của doanh nghiệp đã bị đầy vì chứa hàng tồn kho nên không chứa được nguyên liệu.

Nhiều kho lạnh đã được các doanh nghiệp cá tra thuê để trữ nguyên liệu cá tra, dẫn đến các doanh nghiệp tôm không còn hay thuê được kho lạnh để trữ nguyên liệu tôm buộc các doanh nghiệp tôm tại ĐBSCL đang phải chuyển thuê kho lạnh ở miền Trung để trữ nguyên liệu tôm và hỗ trợ mua tôm nguyên liệu cho người dân.

Nguồn nguyên liệu nhập khẩu cũng bị thiếu hụt. Với các doanh nghiệp hải sản khai thác, nguồn nguyên liệu nhập khẩu bị thiếu khoảng 50%. Với các doanh nghiệp tôm hiện đang ngưng nhập tôm do không còn kho lạnh chứa (cả kho của doanh nghiệp và kho thuê) và các đơn hàng bị giảm.

Trong thời gian tới, khi dịch COVID-19 được kiểm soát, hoạt động sản xuất xuất khẩu được phục hồi thì nguồn nguyên liệu hiện có cũng chỉ có thể đáp ứng được 50%-70% nhu cầu sản xuất.

Ngoài ra, các doanh nghiệp thủy sản đang gặp nhiều khó khăn trong việc vận chuyển các container hàng hóa xuất nhập khẩu vì nhiều chuyến tàu bị trì hoãn nhiều ngày, thậm chí bị hủy chuyến. Các hãng tàu biển cắt giảm các chuyến tàu, thay đổi hành trình và cảng đến làm cho thời gian vận chuyển dài, doanh nghiệp bị phát sinh nhiều chi phí.

Đề xuất giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp

Trước tình hình khó khăn, Vasep kiến nghị Bộ trưởng Bộ NN&PTNT báo cáo hoặc có ý kiến đề nghị với Chính phủ và các bộ xem xét đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động miễn nộp kinh phí công đoàn (2% quỹ lương) trong năm 2020 và tạm dừng việc đóng bảo hiểm xã hội đến cuối năm 2020, không tính lãi nộp chậm.

Vasep kiến nghị xem xét giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2020; xem xét giảm giá điện cho các nhà máy sản xuất, kho lạnh trữ hàng và cho phép gia hạn thời gian thanh toán tiền điện; tạm ngưng thu phí BOT đến hết năm 2020 để giảm chi phí vận chuyển.

Ngoài ra, Vasep mong muốn các bộ, ngành giảm tần suất và số lượng các cuộc thanh tra – kiểm tra thường xuyên và đột xuất nhằm giảm áp lực về thời gian và nhân lực cho các doanh nghiệp thủy sản.

Doanh nghiệp thủy sản đề xuất gói hỗ trợ cho vay lãi suất thấp cho các doanh nghiệp và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận với gói vay lãi suất ưu đãi này; đề nghị các ngân hàng cho gia hạn nợ, không chuyển thành nợ xấu, không phạt nợ quá hạn tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp tục sản xuất.

Bên cạnh đó, Vasep đề xuất Chính phủ ban hành chính sách khuyến khích xuất khẩu cho bối cảnh năm 2020-2021, giảm thiểu các thủ tục hành chính.

Để đảm bảo nguồn nguyên liệu đáp ứng cho sản xuất xuất khẩu của các doanh nghiệp sau khi đại dịch COVID-19 được kiểm soát, kiến nghị Chính phủ và Bộ NN&PTNT có kế hoạch và quy hoạch về vùng nuôi nguyên liệu tôm, cá tra; hỗ trợ cho người nuôi để khuyến khích người nuôi tiếp tục thả giống mới trong thời gian này; sửa đổi và cải cách các quy định kiểm soát nhập khẩu hàng thủy sản cho mục đích xuất khẩu.

Quang Huy Pháp Luật

Tôm Cà Mau lao đao vì dịch bệnh

Giá tôm nguyên liệu ở Cà Mau đang giảm sâu chưa từng thấy trong gần hai năm trở lại đây. Tình cảnh trên khiến người nuôi tôm lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan…

Hoạ vô đơn chí

Mùa này, nông dân các huyện vùng mặn phía Nam của tỉnh Cà Mau bắt đầu thu hoạch vụ tôm đầu tiên trong năm. Trên những cánh đồng tôm mênh mông nước ở huyện Phú Tân, Đầm Dơi, Cái Nước…, những chiếc quạt nước vẫn quay đều để cung cấp ôxy cho những ao tôm đến lứa thu hoạch. Tuy nhiên, thương lái chẳng ngó ngàng thu mua.

Trường hợp của ông Trần Minh Đương, ngụ ấp Tân Long B, xã Tân Dân (huyện Đầm Dơi) là một thí dụ. Ông Đương nuôi năm ao tôm thẻ theo hình thức siêu thâm canh (mỗi ao từ 1.000-1.200 m2) và hiện có hai ao đã qua giai đoạn ba tháng, đến lứa thu hoạch, đạt kích cỡ khoảng 50 con/1kg. Mấy ngày nay, ông Đương điện thoại kêu thương lái vô mua tôm nhưng vẫn bặt vô âm tính. Ông Đương bức xúc: “Mọi khi tôm có giá, thương lái vô nài nỉ, thậm chí đặt trước tiền cọc để mình bán cho họ. Nhưng giờ giá tôm giảm sâu, họ hứa lần hứa lữa chẳng thèm vô mua. Kiểu này hổng biết bán tôm cho ai luôn, còn để lại thì lấy tiền đâu trả nợ cho đại lý thức ăn, thuốc thủy sản”.

Cùng tình cảnh trên, ông Hà Văn Hùm (ngụ ấp Tân Thành A, xã Tạ An Khương Nam, huyện Đầm Dơi), có 1/3 ao nuôi tôm thẻ siêu thâm canh đến kỳ thu hoạch nhưng gặp cảnh giá rẻ như cho. Bấm đốt ngón tay, ông Hùm nhẩm tính, so với cách nay gần một tháng, giá tôm thẻ công nghiệp hiện đã giảm từ 20.000-30.000 đ/kg. “Giá thấp quá nên tôi định tỉa thưa (thu hoạch trước khoảng 50% ao tôm-PV) nhưng hổm rày không có lái nào hỏi mua cả”. Ông Hùm giọng buồn so.

Cũng theo ông Hùm, trong tình thế không bán được tôm, gia đình ông phải kéo dài thời gian nuôi thêm từ 30-45 ngày. Tới thời gian nêu trên, dù giá có thấp cỡ nào thì người nuôi cũng phải thu hoạch chứ không thể nuôi thêm được nữa. Tuy nhiên, tình hình dịch bệnh đang diễn biến phức tạp, bản thân ông Hùm cũng chưa tiên liệu được điều gì. Ông bày tỏ lo lắng: “Giá tôm hiện tại ngang bằng chi phí đầu tư để có được 1kg tôm. Nếu bán được xem như phá huề. Nhưng nuôi tôm vất vả lắm, hơn ba tháng trời ròng rã, huề xem như lỗ vốn”.

Đồng tôm thâm canh Cà Mau đến lứa thu hoạch nhưng khó bán bởi giá giảm sâu.

Đầm Dơi là vùng nuôi tôm trọng điểm ở Cà Mau, với hơn 70.000 ha. Do nhiều nguyên nhân, trong hơn ba năm gần đây, hiếm khi người nuôi tôm có được một vụ tôm suôn sẻ. Ông Kiều Minh Tấn, Phó chủ tịch UBND xã Tân Duyệt (huyện Đầm Dơi), cũng là một trong hai nông hộ đầu tiên ở xã thực hiện mô hình nuôi tôm siêu thâm canh, phân tích: Với tỷ lệ nuôi thành công về sản lượng chiếm từ bằng đến hơn 80%, nếu tôm nguyên liệu có mức giá ổn định, thì mỗi ao tôm (khoảng 1.200m2), hộ nuôi có lời từ 200-300 triệu đồng mỗi vụ nuôi. Tuy nhiên, giá tôm “nhảy múa” liên tục, nhất là vào cao điểm thu hoạch, giá thường xuống thấp”, ông Tấn chia sẻ.

Các vùng chuyên tôm ít bị tác động bởi hạn hán, xâm nhập mặn như vùng ngọt phía bắc của tỉnh Cà Mau. Tuy nhiên, nông hộ nuôi tôm ở Cà Mau đang chịu cái nạn được coi là “từ trên trời rơi xuống”. Tôm không bị dịch bệnh nhưng dịch bệnh trên người đang tác động bất lợi đến giá tôm. Cụ thể, tôm sú loại 20 con/kg hiện chỉ còn từ 160.000 – 180.000 đồng/kg; sú loại 30 con/1kg giá từ 120-130.000đ. Trong khi, tôm thẻ (nuôi công nghiệp) loại 100 con/kg chỉ còn khoảng 70.000 đồng/kg; thẻ loại 50 con/kg còn khoảng 105.000 đồng. So với hai tuần trước đó, giá tôm sú giảm khoảng 100.000đ/kg và hơn 20.000 đồng đối với mặt hàng tôm thẻ.

Trước tình cảnh giá tôm giảm sâu, ông Trần Văn Của (có hơn 1ha đất nuôi tôm sú quảng canh ở ấp Tân An Ninh B, xã Tạ An Khương Nam) cho biết sẽ tạm ngừng việc thu hoạch tôm. Ông nói trong tâm trạng bất an: “Chờ dịch bệnh qua đi xem tình hình có cải thiện không rồi tính tiếp”.

Những hộ nuôi tôm quảng canh như ông Của, tôm có thể chậm thu hoạch trong thời gian dài từ 2-3 tháng là chuyện bình thường. Tuy nhiên, với những hộ nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh ở Cà Mau, việc kéo dài vụ nuôi đồng nghĩa với việc người nuôi sẽ bỏ thêm tiền để cho tôm ăn, tiền điện chạy quạt nước, tiền vi sinh xử lý nước và tất tần tật nhiều thứ khác. Do đó, nếu tình hình dịch bệnh thuyên giảm và giá tôm không cải thiện, thì kịch bản “treo đầm” có thể sẽ diễn ra trên diện rộng ở vùng nuôi tôm trọng điểm quốc gia.

“Giá tôm nguyên liệu hiện giảm chưa từng thấy trong vòng hai năm trở lại đây. Trong điều kiện các loại vật tư đầu vào không giảm, thì với giá hiện tại, người nuôi tôm ở Cà Mau dù đạt về sản lượng nhưng vẫn không có lãi” – Thạc sĩ Mã Huy, Phó giám đốc Trung tâm khuyến nông, khuyến ngư tỉnh Cà Mau.

Xuất khẩu hẹp đầu ra vì Covid-19

Cà Mau được xem là “thủ phủ” nuôi tôm vùng Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước, với tổng diện tích nuôi hơn 280.000 ha, tổng sản lượng tôm đạt khoảng 200 nghìn tấn mỗi năm. Trong đó, có các hình thức nuôi, như: Quảng canh kết hợp (hơn 62.000 ha); quảng canh cải tiến (khoảng 140.000 ha); Tôm-lúa (hơn 38.000 ha), tôm-rừng (hơn 30.700 ha) và hơn 8.700 ha tôm bán thâm canh, thâm canh và siêu thâm canh. Chỉ riêng loại hình nuôi tôm siêu thâm canh, từ vài chục ha ban đầu, đến nay Cà Mau đã phát triển lên hơn 2.500 ha với 2.476 hộ nuôi, năng suất bình quân từ 40-50 tấn/ha.

Tôm Cà Mau giảm giá sâu tác động bất lợi đến người nuôi tôm.

Với vùng nuôi rộng lớn nêu trên và việc phát triển mạnh các hình thức nuôi có sự can thiệp của tiến bộ khoa học, kỹ thuật, thì ước tính, mỗi năm nông hộ Cà Mau tiêu tốn vài nghìn tỷ đồng mua thức ăn cho con tôm. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, Cà Mau vẫn chưa có được nhà máy sản xuất thức ăn mà phải nhập tỉnh, kể cả một số nguyên liệu thiết yếu phục vụ đầu vào trong quá trình nuôi tôm, như: Vôi, bạt lót đáy ao, ống nhựa, nhiều loại vi sinh và thuốc chuyên dùng trong thuỷ sản… Đó cũng là một trong những bất lợi mà người nuôi tôm ở Cà Mau gặp phải trong nhiều năm qua. Kéo theo đó là giá thành đầu vào luôn trong tình trạng “mất kiểm soát”. Trong khi đó, con tôm phần lớn phụ thuộc vào xuất khẩu qua hệ thống các nhà máy chế biến thủy sản.

Ông Phạm Thế Tài, Nguyên Chánh Thanh tra Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cà Mau, khẳng định: “Người nuôi tôm luôn thiệt thòi vì không quyết định được giá đầu ra”. Ông Tài phân tích: Vật tư đầu vào chiếm khoảng 70% chi phí cho một vụ nuôi, đặc biệt là các hình thức nuôi thâm canh, siêu thâm canh. Tuy nhiên, giá của vật tư hiếm khi nào giảm mà luôn trong tình trạng tăng, đặc biệt là các mặt hàng thuốc thuỷ sản và thức ăn cho tôm, bởi doanh nghiệp triết khấu hoa hồng khá cao cho hệ thống phân phối và đại lý. “Trong tình thế đó, năm nào xuất khẩu thuận lợi, giá tôm nhích lên thì nông dân “dễ thở”, bằng ngược lại người nuôi tôm lãnh đủ hoặc nai lưng “làm mọi” cho nhà sản xuất”, ông Tài chia sẻ.

Chế biến tôm đang có dấu hiệu sa sút do thị trường xuất khẩu bị bó hẹp vì ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

Theo đánh giá của đa phần người nuôi tôm, giá nhiều mặt hàng đầu vào hiện không tăng nhưng giá tôm giảm sâu do dịch Covid-19 lan rộng trên toàn cầu, khiến thị trường xuất khẩu bị bó hẹp. Ông Nguyễn Minh Tuấn, Giám đốc Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thủy sản Minh Cường cho biết: Ban đầu là Trung Quốc, sau đó đến châu Âu và bây giờ toàn thế giới đã bị ảnh hưởng dịch Covid-19, khiến thị trường xuất khẩu bị co hẹp dần. “Không bán được hàng, không có vốn xoay vòng, trong khi, mỗi tháng công ty gánh chi phí hoạt động vài tỷ đồng”.

Cùng nhìn nhận trên, ông Trần Văn Trung, Giám đốc Công ty thủy sản Anh Khoa (tỉnh Cà Mau) bổ sung: Một trong những khó khăn nhất hiện nay là ngân hàng nhà nước triển khai thông tư 01 về giảm lãi, giãn lãi,…nhưng chưa đúng nhu cầu thực sự của doanh nghiệp. “Doanh nghiệp đang cần vốn để khôi phục sản xuất, thu mua hàng thủy sản nhưng một số chính sách từ hệ thống ngân hàng triển khai rất chậm”, ông Trung nêu quan điểm.

Tình hình dịch Covid-19 đã và đang tác động bất lợi đến các mặt kinh tế và đời sống xã hội. Tại Cà Mau, con tôm là ngành kinh tế mũi nhọn nhưng nhiều đơn hàng của doanh nghiệp xuất khẩu thỷ sản của tỉnh hiện giảm hơn 50% so với cùng kỳ, gia tăng lượng hàng tồn kho. Đây cũng là nguyên nhân khiến kim ngạch xuất khẩu tôm những tháng đầu năm 2020 của tỉnh Cà Mau giảm 15 – 20% so với cùng kỳ. Chính vì thế, việc tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp không thể chậm trễ, góp phần bình ổn giá tôm. Về lâu dài, để giá tôm bình ổn, Cà Mau nói riêng và người nuôi tôm nước lợ các tỉnh ven biển cả nước nói chung rất cần sự đầu tư của Nhà nước về chuỗi cung ứng vật tư đầu vào tại các vùng nuôi tôm trọng điểm nhằm kiểm soát tốt giá thành đầu vào, giảm thiểu chi phí trong nuôi tôm. Có như thế, con tôm Cà Mau và của Việt Nam mới đủ sức cạnh tranh và rộng đường “xuất ngoại”.

Cả hệ thống chính trị của tỉnh đang tập trung cùng lúc nhiều nhiệm vụ trọng tâm (chỉ đạo đại hội Đảng các cấp, giảm thiểu, khắc phục hạn-mặn, dịch bệnh Covid-19) nên rất cần sự chia sẻ, hợp tác của cộng đồng doanh nghiệp. Đặc biệt là trong việc cung cấp các thông tin cần thiết về sản lượng, hàng tồn kho, số lượng công nhân, giá mua nguyên liệu, sản lượng hợp đồng đã ký, đăng ký tạm trữ, minh bạch giá cả thu mua,… Đó cũng là cơ sở để tới đây tỉnh có đề xuất tới Trung ương nhằm đưa ra các quyết sách phù hợp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp xuất khẩu tôm nói riêng – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Văn Sử.

HỮU TÙNG
Nguồn tin: Nhân Dân

Nhu cầu nhập khẩu tôm giảm do Covid-19

Tính đến hết tháng 2/2020, XK tôm Việt Nam tăng nhẹ 2,6% đạt 383 triệu USD, chủ yếu nhờ thị trường Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc vẫn chưa bị biến động nhiều, NK vẫn tăng trưởng hai con số. Tuy nhiên, XK sang Trung Quốc và EU giảm lần lượt 37% và 15% do tác động của dịch Covid-19.

Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, XK tôm của Việt Nam trong tháng 2/2020 đạt 194,5 triệu USD, tăng 39,5% so với tháng 2/2019. Hai tháng đầu năm nay, XK tôm đạt 383,4 triệu USD, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm 2019. Trong tháng 2/2020, XK tôm Việt Nam sang Trung Quốc giảm gần 60% trong khi XK sang các thị trường chính khác như Nhật Bản, Mỹ, EU, Hàn Quốc đều tăng.

Nhật Bản là thị trường NK tôm lớn nhất của Việt Nam, chiếm 20,6% tổng giá trị XK tôm của Việt Nam. XK tôm sang Nhật Bản trong tháng 2/2020 vẫn khá ổn định, đạt 43,6 triệu USD, tăng 63% so với tháng 2/2019. XK tôm sang thị trường này trong 2 tháng đầu năm đạt 78,8 triệu USD, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm 2019.

XK tôm Việt Nam sang Mỹ trong tháng 2/2020 đạt 36,3 triệu USD, tăng 42%. Lũy kế 2 tháng đầu năm nay đạt 74,2 triệu USD, tăng 22,3%. Trong 2 tháng đầu năm nay, tại thị trường Mỹ, nhu cầu giao dịch tập trung cho phân khúc siêu thị, nhưng hiện nay tôm Ấn Độ và Ecuador cũng đang bán khá mạnh vào Mỹ với giá thấp hơn, do họ không XK được đi Trung Quốc, do vậy DN tôm khó thu mua được tôm nguyên liệu với giá hợp lý để cạnh tranh với Ấn Độ và Ecuador.

XK tôm Việt Nam sang thị trường NK lớn thứ 3, EU đạt 64,9 triệu USD trong 2 tháng đầu năm nay, giảm 15,4%.

Từ tháng 3/2020, Châu Âu bắt đầu trở thành tâm dịch mới của Covid-19, dịch bệnh đã lây lan nhanh ra toàn khu vực với các nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là Italy, Tây Ban Nha, Đức…XK hàng hóa sang thị trường này chịu ảnh hưởng nặng nề, các nhà NK thông báo hoãn, dừng đơn hàng. Một số DN XK tôm sang thị trường này bị hoãn hoặc dừng đơn hàng do nhà NK không bán được hàng và tồn kho cao. Dù nhu cầu NK vẫn có nhưng tình hình bùng phát dịch như hiện nay, DN chưa thể có kế hoạch cụ thể nào ngoài việc phải chờ đợi.

XK tôm Việt Nam sang Hàn Quốc 2 tháng đầu năm nay đạt hơn 46 triệu USD, tăng 12,4%. Thị trường Hàn Quốc chưa bị ảnh hưởng nhiều trong 2 tháng đầu năm nhưng sẽ phải chịu tác động khá dài. Nếu ngành tôm duy trì sản xuất ở mức độ chấp nhận được, dự trữ một phần cầm cự ít nhất đến tháng 6 thì hy vọng XK sang thị trường này sẽ ổn định.

Trong tháng 2 năm nay, XK tôm Việt Nam sang Trung Quốc giảm 51% đạt hơn 10 triệu USD. Hai tháng đầu năm nay, XK tôm sang tôm sang thị trường này giảm 37,5% đạt gần 39 triệu USD. XK tôm Việt Nam sang Trung Quốc trong 2 tháng đầu năm bị tác động mạnh nhất do dịch Covid trầm trọng. DN đang chờ đợi đến tháng 4 XK tôm sang Trung Quốc sẽ dần khôi phục trở lại và sẽ tập trung xuất chính ngạch đường biển để ổn định.

Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến khó lường, phần lớn các DN XK tôm cho biết, tỷ lệ các đơn hàng vẫn được giao bình thường theo hợp đồng đã ký chỉ chiếm 30-50%. Trong khi đó, tỷ lệ các đơn hàng bị khách yêu cầu tạm hoãn và tỷ lệ các đơn hàng bị khách yêu cầu dừng hoặc hủy từ 20-40%, các đơn hàng mới có được rất ít. Các thị trường có tỷ lệ khách hàng yêu cầu hoãn giao hàng hoặc hủy đơn hàng tập trung chủ yếu tại thị trường Châu Âu, Hàn Quốc và Trung Quốc…Nguyên nhân chính được khách hàng đưa ra là do Chính phủ các nước đóng cửa biên giới vì dịch Covid-19. Khách hàng không bán được hàng nên không nhập hàng tiếp, các cửa hàng dịch vụ thực phẩm cũng ngừng hoạt động. Bên cạnh đó, các DN cũng khó khăn không ít trong di chuyển và thực hiện các hoạt động liên quan đến việc XNK hàng hóa.

Trong bối cảnh khó khăn hiện nay, DN thủy sản đang mong chờ các giải pháp tháo gỡ khó khăn về phí công đoàn, thuế thu nhập doanh nghiệp, các chi phí liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh… để vượt qua đại dịch.

Về mặt nguyên liệu tôm, trong khi các thị trường chủ lực đang biến động, nếu người nuôi tôm cùng DN vượt qua giai đoạn cầm cự này bằng cách duy trì nuôi ở mức độ nào đó, để cầm cự đến tháng 6-tháng 7 khi thị trường hồi phục, thì ngành tôm vẫn có nguyên liệu để chế biến và XK, bù đắp sụt giảm những tháng đầu năm. Người nuôi cũng cần được tuyên truyền, hướng dẫn và hỗ trợ để có biện pháp duy trì nuôi như kéo dài thời gian hoặc thả giống mật độ thưa hơn…hoặc một số biện pháp khác để cầm cự và giữ ổn định nguyên liệu.

Đối với vấn đề hạn mặn, ở giai đoạn thả giống, bà con nông dân nên chủ động lấy nước ngọt vào ao chứa để dự trữ, hạn chế thả giống hoặc thả chậm đón mùa mưa. Nếu thả, người nuôi nên lựa chọn nguồn tôm giống khỏe mạnh, có nguồn gốc rõ ràng, được kiểm dịch đầy đủ; thực hiện nuôi 2 – 3 giai đoạn; chỉ thả giống khi nhiệt độ nước dưới 30 độ C, vào sáng sớm hoặc chiều mát; thả nuôi mật độ phù hợp với mô hình nuôi của mình.

Kim Thu
Nguồn tin: Vasep

Ngành tôm nuôi sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất bởi COVID-19

Tôm sẽ là một trong những mặt hàng thủy sản bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất bởi Covid-19. Vẫn còn quá sớm để đưa ra con số dự báo sản lượng tôm toàn cầu 2020, nhưng virus corona bùng phát có nguy cơ làm đảo ngược mọi dự đoán trước đây về tốc độ tăng trưởng cũng như sự sụt giảm của ngành tôm toàn cầu 2020.

Tháng 10/2019, GOAL dự báo sản lượng tôm toàn cầu tiếp tục tăng trong vài năm tới, với 5% vào năm 2020 lên trên 5 triệu tấn. Tại Hội nghị thị trường thủy sản toàn cầu (GSMC) tổ chức vào tháng 1 hàng năm tại Mỹ, các chuyên gia cũng dự báo sản lượng tôm năm 2020 sẽ tăng lên trên 4 triệu tấn. Mức dự báo của GSMC thấp hơn GOAL nhưng cả hai đều cho rằng sản lượng tôm tăng mạnh tại Ecuador và Ấn Độ – 2 nước sản xuất tôm lớn nhất thế giới.

 

Điều kiện thị trường khó khăn

Đặc điểm rõ nét của thị trường tôm toàn cầu ngay từ hồi đầu năm đó là nguồn cung dư thừa và giá thấp. Virus corona xuất hiện đầu tiên tại Trung Quốc, sau đó lan sang châu Âu vào đúng mùa tiêu thụ tôm mạnh nhất trong năm.

Cuối năm 2019 và 2 tháng đầu năm 2020, các hãng xuất khẩu tôm của Ecuador đã nỗ lực đa dạng hóa thị trường tiêu thụ nhằm giảm phụ thuộc vào Trung Quốc vốn tiêu thụ 60% nguồn tôm của nước này.

Tháng 2/2020, trong khi Trung Quốc thực hiện lệnh phong tỏa nhiều nơi để ngăn chặn virus lây lan, lượng tôm Ecuador xuất khẩu sang Mỹ đã tăng 19,4% so cùng kỳ năm ngoái, một phần do giá thấp hơn. Suốt gần 2 tháng kiểm dịch để ngăn chặn corona, tiêu thụ tôm tại Trung Quốc giảm mạnh. Dù vậy, xuất khẩu tôm của Ecuador trong tháng 2, gồm cả xuất khẩu sang Trung Quốc tiếp tục tăng so cùng kỳ năm ngoái. Ngay sau đó, virus corona lan nhanh từ Trung Quốc sang châu Âu, Mỹ và hầu hết các quốc gia Mỹ Latinh.

Italy, quốc gia châu Âu bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất bởi corona, tới nay cũng phải áp dụng nhiều biện pháp trên toàn quốc, tương tự Trung Quốc để kìm hãm sự bùng phát dịch bệnh như phong tỏa nhiều nơi và yêu cầu cư dân ở nhà. Điều này cũng tác động tiêu cực tới lĩnh vực nhập khẩu thủy, hải sản trị giá 4,7 tỷ EUR/năm của Italy, trong đó có 10% là nhập khẩu tôm. Nếu hoạt động nhập khẩu tôm bị tê liệt trên phạm vi toàn cầu, thì nhiều nhà sản xuất sẽ chẳng mấy chốc sụp đổ, theo một doanh nghiệp thu mua và chế biến tôm tại Ecuador.

Virus corona đang lan nhanh tại Mỹ, nơi 50% lượng tôm được tiêu thụ tại các kênh dịch vụ ẩm thực, trong khi tỷ lệ này ở châu Âu là 20n- 30%. Lượng đơn đặt hàng giảm suốt nửa đầu năm sẽ ảnh hưởng đến giá tôm vào nửa cuối năm. Hoạt động nuôi tôm tại Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam và phần còn lại của Đông Nam Á sẽ bị thu hẹp do COVID-19. Trong khi đó các công ty tại Ecuador cũng sẽ bị ảnh hưởng dù họ đang tích cực kêu gọi chính phủ trợ giúp. Những hãng sản xuất lớn hơn tại quốc gia Mỹ Latinh này có thể phải kìm hãm thời gian thu hoạch, giữ tôm trong ao. Thực tế, Ecuador còn không có cơ sở hạ tầng để chứa tôm. Tùy vào vụ thu hoạch, nhà sản xuất tại đây chỉ có khả năng tích trữ tôm tối đa 1 tuần.

Tại Ấn Độ, thu nhập của các hộ nông dân nhỏ lẻ sẽ giảm còn các công ty chế biến tôm cũng ảnh hưởng nặng do giá tôm lao dốc kéo theo tình trạng nông dân giảm thả nuôi 30 – 50%. Rất nhiều nông dân dường như đã không thả nuôi suốt thời gian COVID-19 hoành hành, theo thông tin từ Hội chợ thủy sản quốc tế Ấn Độ 2020 tại Kochi. Điều này có nghĩa giá tôm đã giảm rất mạnh trong thời gian có dịch COVID-19.

Tuần trước, giá tôm thẻ size 40 mua tại ao ở Andhra Pradesh khoảng 330 INR/kg (4,39 USD), giảm 14% so tuần 10; size 60 giá 240 INR/kg, giảm 21%. Tuy nhiên, lệnh phong tỏa 21 ngày tại Ấn Độ cũng đẩy nguồn cung tôm vụ thu hoạch tháng 4 rơi vào tình trạng bất ổn. Dù các trại nuôi đều được xếp vào nhóm ngành nghề thiết yếu, nhiều nhà máy đóng gói và chế biến vẫn đang đóng cửa. Tại bang Kerala và Gujurat, tất cả các bộ phận thuộc chuỗi cung ứng thủy hải sản gồm trại giống, thức ăn, vận chuyển con giống vẫn được phép hoạt động suốt thời gian phong tỏa. Tuy nhiên, do lượng lao động ít ỏi nên họ cũng phải đóng cửa.

 

Giá tôm sẽ vọt lên sau khi cung giảm?

Các hãng tôm tại Ecuador cho rằng tình trạng giá tôm duy trì ở mức thấp suốt thời gian dài không chỉ ảnh hưởng đến nông dân Ecuador mà cả Ấn Độ, Thái Lan và các nước nuôi tôm khác. Nhiều nông dân không thể trụ vững.

Hầu hết các nước châu Âu đã áp dụng lệnh hạn chế đi lại. Mới đây nhất là Anh cũng đã tuyên bố phong tỏa vào ngày 24/3. Mỹ cũng phong tỏa trên diện rộng để ngăn chặn lây lan corona. Trong những ngày này, chính quyền các nước châu Âu, Mỹ và phần còn lại của thế giới đã bắt buộc các quán bar và các nhà hàng đóng cửa khiến các đơn đặt hàng thủy sản bị hủy và giá lại giảm sâu hơn.

Cầu hỏi đặt ra là cororna sẽ ảnh hưởng thế nào đến cung/cầu, ai và ngành nào sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất? Có thể căn cứ vào hiệu quả chi phí và vốn đầu tư để tìm ra câu trả lời. Một số hãng sản xuất tôm vẫn đủ khả năng để trụ vững, tiếp tục sản xuất dù giá thấp, còn các hãng khác thì bất lực.

Kịch bản thường thấy là ngay sau khi nguồn cung giảm mạnh, giá tôm có thể tăng vọt. Một số nước nhập khẩu tôm có thể chớp thời cơ giá rẻ ngay tại thời điểm bây giờ để tích trữ tôm.

Các hãng tôm Ecuador đang kỳ vọng ngành tôm năm 2020 có thể đạt doanh thu xuất khẩu ấn tượng 2 tỷ USD sang Trung Quốc như năm ngoái, bất chấp các tác động của COVID-19. Các đơn đặt hàng từ Trung Quốc đã xuất hiện trở lại cũng mang lại hy vọng cho các hãng tôm Ecuador.

Nhưng khi thị trường tôm Trung Quốc đang phục hồi, thì đơn hàng đi châu Âu và Mỹ lại giảm mạnh do corona khiến giá tôm không thể quay đầu và vẫn duy trì ở mức thấp hơn cả giá tháng 1 đầu năm khoảng 30 – 40%. Ngành tôm nuôi toàn cầu sẽ còn mất mát nhiều, bởi tháng 7 đến tháng 9 thường là mùa tiêu thụ cao điểm trong năm.

Tình trạng giá thấp vẫn kéo dài chưa biết hồi kết. Doanh số bán hàng và thu nhập chắc chắn sẽ giảm. Điều này cũng sẽ ảnh hưởng đến các chiến lược tìm kiếm nguồn hàng và chế biến của các công ty.

Ecuador đặt mọi hy vọng vào thị trường Trung Quốc dù tốc độ phục hồi chậm chạp. Tuy nhiên, khi sức tiêu thụ tại châu Âu và Mỹ đang giảm, thì cả tôm Ấn Độ, Việt Nam và Indonesia cũng đều nhắm đến thị trường Trung Quốc. Do đó, giá tôm sẽ khó có khả năng tăng trong ngắn hạn.

Huy động vốn cho ngành tôm là điều rất nan giải. Giá tôm bán ra hiện không bù nổi chi phí sản xuất. Đây là tình trạng chung tại Ecuador, Ấn Độ hay Thái Lan. Giá càng giảm sâu, sự phục hồi của ngành tôm càng mong manh. Dù hiện tượng này chỉ là tạm thời, song không một ai có thể biết chính xác nó sẽ kéo dài bao lâu.

Gorjan Nikolik – Chuyên gia phân tích tại Rabobank
Nguồn : http://thuysanvietnam.com.vn/