Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Tin Tức Ngành

Sản xuất tôm ở hàng loạt nước gặp khó khăn và cơ hội cho Việt Nam

Ngành tôm Việt Nam đang được cho là đứng trước cơ hội lớn sau dịch COVID-19 được kiểm soát trên thế giới, trong khi nguồn cung tôm ở các nước giảm do chịu tác động của dịch bệnh.

Nguồn cung các nước lớn dự báo giảm mạnh

Trao đổi với người viết TS Hồ Quốc Lực, nguyên Chủ tịch Hiệp Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Sao Ta Việt Nam, hiện nay COVID-19 đang tác động trên thế giới khiến hệ thống nhà hàng cơ sở du lịch còn đóng cửa.

Điều này dẫn đến nhu cầu tôm giá trị cao giảm mạnh nhưng tổng cầu chung giảm nhẹ do các hộ gia đình có xu hướng tiêu thụ tôm cỡ nhỏ nhiều hơn, bù đặp với sụt giảm đối với các loại tôm khác.

Theo đó, nguồn cung của các nước nuôi tôm lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Ecuador do chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 hoặc bệnh trên tôm.

Theo VASEP, dịch COVID-19 đã làm toàn bộ chuỗi sản xuất tôm tại các nước sản xuất lớn như Ấn Độ, Ecuador phải đối mặt với nhiều khó khăn.

Người nuôi tôm Ấn Độ gặp khó khăn do Chính phủ nước này áp lệnh phong tỏa cả nước từ 23/3 đến 3/5.

Tại bang Andhra Pradesh, bang sản xuất tôm lớn nhất Ấn Độ, hoạt động nuôi tôm bị đe dọa bởi dịch COVID-19 do hiện là cao điểm của mùa thu hoạch. Nhiều nhà chế biến đang hoạt động trong tình trạng thiếu nhân công.

Hơn 50% nhân công tại các nhà máy chế biến của Andhra Pradesh là người từ các bang khác nên họ phải về gia đình khi lệnh phong tỏa có hiệu lực và rất khó để quay lại làm việc tại các nhà máy do lệnh hạn chế đi lại của chính quyền địa phương.

Người nuôi không bán được tôm. Mặc dù chính quyền bang đứng về phía người nuôi đe dọa sẽ rút giấy phép hoạt động của các nhà chế biến nếu họ không hoạt động trở lại.

Đến thời điểm giữa tháng 4/2020, phần lớn các lô hàng đã xuất từ đầu tháng 3 trước khi lệnh phong tỏa diễn ta vẫn bị mắc kẹt trên biển hoặc tại cảng đến.

Ngành tôm Ecuador đang phải hoạt động chỉ với 50% công suất trong bối cảnh COVID-19 vì số ca nhiễm và tử vong vẫn tăng ở nước này.

Sản xuất tôm tại nước này bị ảnh hưởng nặng nề do các công ty chế biến chủ yếu nằm ở Guayaquil, thuộc tỉnh Guayas- đây cũng là tâm dịch COVID-19 ở Ecuador. Một số công ty có nguy cơ phải đóng cửa nếu tình hình dịch bệnh không được cải thiện.

Một số nhà máy chế biến không mua thêm nguyên liệu vì không có nhân công làm việc tại các nhà máy do lệnh phong tỏa. Trong khi ngành tôm nước này không nhận được hỗ trợ gì từ phía Chính phủ.

Nguồn cung tại Việt Nam có thể giảm 10%

Người nuôi tôm Việt Nam đối diện với khó khăn là dịch bệnh. Bệnh từ năm ngoái đến giờ ảnh hưởng quá nhiều đến sản lượng. Đây cũng là lí do cuối năm ngoái Việt Nam giảm chỉ tiêu xuất khẩu tôm.

“Theo phản ánh của các doanh nghiệp, dự kiến năm nay sản lượng tôm sẽ giảm khoảng 10% do người dân lo ngại dịch bệnh kèm theo thời tiết không thuận lợi, nên không dám thả nuôi”, ông Lực nói.

Cơ quan chuyên môn khuyến cáo người nuôi tiếp tục thả nuôi, doanh nghiệp, người dân tối ưu hóa chuỗi sản xuất để giảm giá thành sản phẩm; áp dụng quy trình công nghệ nuôi tôm an toàn để có nguồn nguyên liệu chất lượng cao, truy xuất nguồn gốc phục vụ cho chế biến.

Đối với tôm nuôi đến kì thu hoạch cần hỗ trợ người dân kết nối với doanh nghiệp chế biến để tiêu thụ sản phẩm. Đối với các cơ sở đang nuôi với mật độ dày, tôm cỡ nhỏ cần san thưa để chăm sóc tốt, hạn chế rủi ro, giảm thiểu chi phí sản xuất…

Bộ Công Thương cho biết các công ty kinh doanh tôm hàng đầu Việt Nam lo ngại có thể xảy ra tình trạng thiếu tôm nguyên liệu trong nửa cuối năm 2020 do người dân trì hoãn việc thả giống vì lo sợ đại dịch COVID-19 ảnh hưởng tới xuất khẩu.

Tại Sóc Trăng, tỉnh có năng suất nuôi tôm cao nhất Việt Nam, tính đến nay thả giống được 6.000 ha, chỉ chiếm 24% tổng diện tích 25.000 ha.

Giá tôm sẽ dần cải thiện do cung giảm hơn cầu

Ông Lực cho rằng kịch bản giá tôm năm 2020 sẽ vẫn tốt do nguồn cung sụt giảm mạnh hơn nhu cầu.

Sau một thời gian sụt giảm do ảnh hưởng từ dịch COVID-19, từ đầu tháng 4/2020, giá tôm nguyên liệu tại ĐBSCL đang dần tăng trở lại. Việc giá tôm nhích lên mở ra kỳ vọng thuận lợi cho sản xuất vụ tôm mới.

Theo số liệu từ VASEP, cuối tháng 4, giá tôm chân trắng loại 100 con/kg có giá từ 95.000 – 100.000 đồng, so với cách đây 3 tháng, tăng từ 15.000 – 20.000 đồng/kg. Tôm sú cỡ 30 con/kg có giá từ 200.000 – 230.000 đồng, tăng 30.000 – 40.000 đồng/kg.

Giá tôm chân trắng tại Bạc Liêu hiện tăng hơn trước 20.000 đồng/kg (đối với loại nhỏ). Cụ thể, tôm chân trắng loại 100 con/kg có giá 90.000 đồng/kg đối với nuôi ao lót bạt; tôm nuôi ao đất giá từ 80.000 – 85.000 đồng/kg.

Các loại tôm chân trắng cỡ lớn tăng nhẹ so với trước: loại 70 con/kg có giá 110.000 đồng/kg; loại 50 con/kg có giá từ 120.000 – 125.000 đồng/kg.

Theo VASEP, thời gian của vụ tôm nước lợ năm 2020 vẫn còn dài, những dấu hiệu thuận lợi cũng bắt đầu xuất hiện ngày một rõ ràng hơn như nhu cầu tiêu thụ tôm thế giới vẫn có.

Nguyên nhân là tôm là thực phẩm thiết yếu, việc kiểm soát dịch COVID-19 ở Trung Quốc, Hàn Quốc đang có chiều hướng tốt hơn sẽ có thêm hi vọng cho người nuôi và nhà máy chế biến khi đầu ra phần nào được tháo gỡ.

Tăng tốc để tận dụng cơ hội

Nhìn vào khía cạnh tích cực hơn, việc nguồn cung tôm giảm sẽ tác động tốt đối với giá tôm trong thời gian tới, nhất là sau khi dịch COVID-19 được kiểm soát.

Tại hội nghị đối thoại giữa Thủ tướng và doanh nghiệp diễn ra cuối tuần trước, ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư kí VASEP kì vọng xuất khẩu tôm năm nay đạt 3,8 tỉ tăng 15% so với 2019 để bù đắp phần sụt giảm của cá tra chỉ có thể đạt 1,6 tỉ USD

Ông Hòe kiến nghị đẩy mạnh tuyên truyền, triển khai hỗ trợ tối đa cho người nông dân nuôi tôm để thực hiện ngay từ tháng 5 thả lại tôm bắt kịp tháng 7,8 khi thị trường và thị trường thế giới phục hồi, tăng tiêu thụ trong khi một số nước cạnh tranh chưa quay lại sản xuất bình thường.

Trên thực tế, một số thị trường lớn nhập khẩu tôm Việt Nam cho thấy những tín hiệu tích cực theo.

Chẳng hạn như Mỹ – thị trường đứng thứ 2 về nhập khẩu tôm Việt Nam, chiếm tỉ trọng 18,4% tổng giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam. Quí I/2020, xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường Mỹ đạt 115,5 triệu USD, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm 2019.

VASEP cho biết trong khi nguồn cung tôm từ Ấn Độ, Ecuador và Thái Lan đang giảm sút do lệnh phong tỏa quốc gia, khách hàng Mỹ quay sang mua tôm Việt Nam.

Nhằm tận dụng cơ hội thời gian tới, sau khi thế giới đã kiểm soát được dịch bệnh và nguồn cung thế giới bị thiếu hụt, ông Lực cho biết bản thân Sao Ta cũng đang cố gắng tăng diện tích nuôi để cố gắng chủ động nguồn nguyên liệu.

“Doanh số bán hàng các tháng có thể trồi sụt so với năm ngoái nhưng tính chung năm 2020, tôi kì vọng doanh số của Sao Ta ít nhất bằng hoặc cao hơn năm ngoái”, ông Lực nói.

Trong báo cáo thường niên được công bố mới đây, Sao Ta đặt mục tiêu doanh thu tiêu thụ năm 2020 đạt 176 triệu USD, tăng 10% so với thực hiện năm 2019; lợi nhận trước thuế tăng 5%, ước khoảng 240 – 250 tỉ đồng.

Trong quí I, lũy kế ba tháng đầu năm, lãi trước thuế và lãi sau thuế của Sao Ta lần lượt đạt 41 tỉ đồng và 40 tỉ đồng, tương đương so với cùng kì năm trước.

Nguồn: Kinh tế & Tiêu dùng

Tảo tươi hay tảo bột thì tốt hơn cho tôm giống?

tảo cho tôm giống
Tảo tươi hay tảo bột?

Ấu trùng tôm sú tiêu thụ vi tảo tươi hay tảo bột nhiều thì sẽ “lớn nhanh như thổi” và đẩy lùi được dịch bệnh?

Tôm sú là một trong những loài nuôi chính ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, cũng như những loài thủy sản khác, tôm sú cũng phải gồng mình chống lại những bất lợi do dịch bệnh, thời tiết và nguồn cung giống khó khăn mang lại. Tôm giống là mắc xích đầu tiên cũng như quan trọng nhất trong hệ thống nuôi tôm sú, con giống rất nhạy cảm với những thay đổi dù là nhỏ nhất trong môi trường nước. Từ lâu các trại giống đã biết sử dụng bột tảo hay tảo tươi với chi phí thấp để góp phần thúc đẩy tăng trưởng và khả năng kháng bệnh của ấu trùng tôm. Mặc dù hiệu quả của tảo là không thể chối cãi nhưng chúng cũng có thể gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng môi trường nước.

Tảo cùng với sinh vật phù du là nguồn thức ăn ban đầu quý giá cho ấu trùng tôm. Trong đó, vi tảo tươi là một nguồn thức ăn bền vững, cung cấp rất nhiều dinh dưỡng. Ấu trùng tôm có sử dụng tảo cho thấy rõ sự tăng trưởng vượt trội, cải thiện cường độ tiêu hóa, các cơ chế miễn dịch bảo vệ cơ thể cũng được tăng cường ngay cả khi tôm ở những giai đoạn nhỏ nhất.

Một số loài tảo tươi được tôm ưa chuộng hiện nay là Chaetoceros với kích thước nhỏ, vừa cỡ miệng ấu trùng, thúc đẩy tăng trưởng cao, cải thiện tỷ lệ sống sót một cách vượt trội, thành phần dinh dưỡng cao, và dễ nuôi cấy. Thalassiosira, một loài tảo khác chứa hàm lượng dinh dưỡng cao hơn. Ở dạng bột, tảo Spirulina có hàm lượng protein dồi dào đang được sử dụng nhiều nhất trong các trại giống. Nhưng tảo bột không thể thay thế hoàn toàn cho tảo tươi, do vắng mặt các vi sinh vật có lợi. Vi tảo cho tôm giống chứa một lượng vi khuẩn rất lớn, nhưng chưa có báo cáo nào đánh giá mức độ ảnh hưởng của chúng đến ấu trùng tôm. Do vậy nghiên cứu này phân tích sự phong phú cũng như các mặt lợi và hại của các chủng vi khuẩn đối với ấu trùng tôm sú giống, hơn nửa là với môi trường mà tôm đang sinh sống.

Tôm sú giống có cùng kích thước được thu tại một trại giống ở Trung Quốc. Dùng cho nghiên cứu này là hai loài tảo tươi Chaetoceros muelleri và Thalassiosira weissflogii được nuôi cấy tại phòng thí nghiệm cùng với bột tảo Spirulina. Chia số ấu trùng thành 3 nhóm bằng nhau, mỗi nhóm tương ứng với mỗi loài tảo khác nhau. Kí hiệu lần lượt là A (tảo Chaetoceros muelleri), B (tảo Thalassiosira weissflogii) và C (bột tảo Spirulina). Và đương nhiên để kiểm tra sự khác biệt về tác dụng của tảo với tôm thì các chỉ tiêu chất lượng nước và sự chăm sóc hằng ngày với các nhóm là như nhau. Cho ăn tảo kết hợp thức ăn nhân tạo cho ấu trùng từ giai đoạn Zoea đến giai đoạn Postlarvae rồi bắt đầu đánh giá kết quả. Khi tôm tăng lên một giai đoạn đều lấy mẫu nước để kiểm tra các chỉ tiêu và các chủng vi khuẩn có mặt, lấy mẫu tôm để đánh giá sự tỷ lệ tăng trưởng và biến thái hình dạng qua các giai đoạn của ấu trùng. Xét nghiệm DNA và phân tích thống kê để có được kết quả cuối cùng.

Kết quả phân tích chất lượng nước cho thấy nồng độ NH3 ở nhóm C trong giai đoạn PL là cao nhất . Trong khi đó nồng độ NO2 lại cao nhất ở nhóm C khi tôm ở giai đoạn Mysis. Và mật độ Vibrio ở nhóm A trong giai đoạn PL là phong phú nhất theo đánh giá. Tỷ lệ biến thái hình dạng, tỷ lệ sống của ấu trùng và hoạt động của các enzyme tiêu hóa ở nhóm A và B cao đáng kể hơn nhóm C ở tất cả các giai đoạn. Sự đa dạng của các chủng vi khuẩn giảm dần từ giai đoạn Zoea đến PL, nhóm C lại có mật độ thấp hơn nhiều so với nhóm A và B.

Hệ vi khuẩn đường ruột rất quan trọng đối với sức khỏe, các quá trình trao đổi chất và khả năng kích hoạt hệ thống miễn dịch của tôm. Việc cho ăn sẽ làm cấu trúc của hệ thống này thay đổi, từ đó tác động trực tiếp đến sức khỏe của tôm. Khi cho ăn có bổ sung tảo tươi cho thấy tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của ấu trùng cũng cao hơn hẳn so với khi chỉ cho ăn bột tảo. Do tảo tươi đã làm thay đổi hệ vi sinh vật trong ấu trùng. Còn với bột tảo Spirulina, tỷ lệ sống bắt đầu giảm khi ấu trùng chỉ mới đến giai đoạn Zoea. Hơn nửa là tỷ lệ vi khuẩn trong đường ruột cũng giảm đi rất nhiều, nên khả năng tiêu hóa và chức năng miễn dịch của ấu trùng cũng trở nên suy giảm nghiêm trọng.

Microbacteriaceae, Pseudoalteromonas, Rhodobacteraceae là những loài vi khuẩn phổ biến nhất trên cấu trúc của cả 3 nhóm tảo. Và đã được chứng minh là có lợi cho sự tăng trưởng và phát triển của tôm sú, kích thích hoạt động của các enzyme tiêu hóa trong đường ruột, và cạnh tranh tiêu diệt những vi khuẩn có hại gây bệnh cho tôm.

Vi tảo tươi ngoài tác dụng thúc đẩy tăng trưởng, tăng tỷ lệ sống cho tôm còn được sử dụng như Prebiotic tiềm năng để thúc đẩy sự điều hòa của hệ vi sinh vật đường ruột. Trong khi bột tảo trong quá trình sản xuất đã bị phá hủy thành tế bào nên mất đi tính chất hòa tan trong nước và trở nên nghèo dinh dưỡng hơn rất nhiều so với tảo tươi. Đáng chú ý là do sự thích nghi dần từ chế độ ăn thực vật sang động vật nên hoạt động của các enzyme tiêu hóa ngày càng thấp dần, có thể giải thích là vì không phải tiêu thụ quá nhiều năng lượng để đồng hóa thức ăn nữa. Vi tảo tươi còn được chứng minh là có thể làm sạch nước và ức chế vi khuẩn có hại trong môi trường.

Đối với hầu hết các động vật thủy sản, vi khuẩn bổ sung theo đường tiêu hóa và bên ngoài môi trường đều ảnh hưởng có lợi hoặc có hại đến cấu trúc vi sinh vật trong cơ thể vật chủ. Ở những giai đoạn khác nhau thì ưu thế cũng thuộc về những loài vi khuẩn khác nhau. Tôm sú giai đoạn ấu trùng, Photobacterium chiếm ưu thế, trong khi Vibrio là chủ yếu khi tôm một tháng tuổi trở lên và tỷ lệ Vibrio này này ngày càng tăng theo tuổi của tôm. Ngoài ra ở những môi trường khác nhau thì cấu trúc của cộng đồng vi sinh vật này cũng khác nhau.

Tóm lại nghiên cứu này đã chỉ ra được rằng hai loại tảo T. weissflogii và C. muelleri cải thiện đáng kể tỷ lệ sống và tỷ lệ biến thái hình dạng của ấu trùng. Ngoài ra còn kích thích hoạt động của các enzyme tiêu hóa và sự đa dạng của cộng đồng vi sinh vật trên cơ thể tôm sú. NH3 và NO2 cũng giảm độ độc đáng kể khi cho ấu trùng ăn tảo tươi, do đó có thể kết luận hai loại tảo này rất thích hợp cho hệ thống ương nuôi ấu trùng tôm sú. Việc cho ăn các loại tảo khác nhau có thể ảnh hưởng đến sự thay đổi cộng đồng vi sinh vật ở ấu trùng, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển và tình trạng sức khỏe của ấu trùng tôm sú.

Hà Tử – https://tepbac.com/

Tôm nguyên liệu chỉ đáp ứng tối đa 70% cho nhu cầu chế biến, xuất khẩu

Chế biến tôm
Dự báo nhiều nhà máy chế biến tôm sẽ thiếu hụt nguyên liệu.

Theo ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Vasep, nguồn cung tôm nguyên liệu đang bị sụt giảm trên cả 3 mặt: nuôi trồng, đánh bắt, nhập khẩu.

Nguyên nhân là do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 việc khai thác biển, nhập khẩu bổ sung tôm nguyên liệu rất khó khăn. Bên cạnh đó do xuất khẩu bị hạn chế, giá tôm giảm cộng thêm tình hình hạn, mặn, nắng nóng kéo dài nên người nuôi tôm chậm thả nuôi vụ mới; nguồn tôm giống đạt chất lượng cũng hạn chế khiến năng suất nuôi chưa cao.

Với những khó khăn đó, theo dự báo của Vasep trong nửa cuối năm nguồn cung tôm nguyên liệu sẽ rất hạn chế chỉ đáp ứng được tối đa từ 50-70% nhu cầu chế biến xuất khẩu và tiêu thụ nội địa.

Còn theo báo cáo của Cục Thú y-Bộ NN&PTNT, tình hình dịch bệnh trên tôm cũng đang ở mức đáng lo ngại, trong 4 tháng đầu năm đã có 25.252ha nuôi tôm tại 19 tỉnh, thành bị thiệt hại, tăng 3,86 lần so với cùng kỳ. Trong đó có đến hơn 23.000ha thiệt hại không rỏ nguyên nhân, 1.579ha thiệt hại do bệnh, 638ha bị thiệt hại do biết động thời tiết.

Theo Tổng cục Thủy sản: diện tích thả nuôi tôm đến thời điểm hiện tại đạt hơn 481.000ha bằng 71% kế hoạch năm.

Tuy nhiên, theo ngành chức năng thì việc thả giống chậm lại của người nuôi trong những tháng đầu năm là hợp lý để hạn chế thấp nhất rủi ro, nhưng điều này sẽ gây thiếu hụt nguyên liệu cho các nhà máy trong khoảng 1 – 2 tháng tới.

Qua cân đối cung cầu thị trường tôm nguyên liệu theo nhận định của ông Hồ Quốc Lực-Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta: cho dù dịch bệnh COVID-19 trên thế giới có kéo dài hơn dự kiến thì giá tôm vẫn khá ổn, nếu có giảm cũng sẽ không nhiều, nhưng xu hướng tăng vẫn được đánh giá là nhiều khả năng hơn, bởi vì trong điều kiện khó khăn như hiện nay nguồn cung tôm xuất khẩu sẽ rất hạn chế, giá tăng là hợp lý.

Năm 2020, ngành nông nghiệp đặt mục tiêu thả nuôi 730.000ha tôm, sản lượng dự kiến đạt 830.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 3,5 tỷ USD, tăng 2-3% so với năm 2019.

Ninh Thới Enternews 

Thay vì chọn đực, nuôi tôm càng xanh toàn cái có hiệu quả hơn không?

tôm cành xanh toàn cái
Nuôi tôm toàn cái là một lựa chọn để có một vụ tôm thành công và đồng nhất.

Israel phát triển kỹ thuật nuôi tôm càng xanh toàn cái, thích hợp nuôi mật độ cao hơn nuôi toàn đực.

Tôm càng xanh toàn đực là kỹ thuật đang được áp dụng rộng rãi nhằm cải thiện tốc độ sinh trưởng và kích cỡ thu hoạch. Tuy nhiên nuôi tôm càng xanh toàn đực chỉ phù hợp với diện tích rộng, hình thức nuôi xen canh, quảng canh. Để phát triển nuôi tôm càng xanh có hiệu quả cao hơn, các nhà khoa học Israel đã nghĩ đến hướng phát triển ngược lại: là nuôi tôm càng xanh toàn cái.

Nghiên cứu cho thấy rằng đối với tôm càng xanh, việc nuôi tôm toàn cái là một phương pháp bền vững để sản xuất một vụ tôm thành công và đồng nhất. Quần thể tôm càng xanh toàn cái có kích thước đồng đều và ít hung dữ, phù hợp để phát triển mô hình nuôi quy mô công nghiệp với diện tích nhỏ và mật độ cao.

Quần thể tôm càng toàn cái được tạo ra bằng kỹ thuật di truyền, tác động ngược dòng quá trình sinh sản tạo ra sự thay đổi ở tôm cái sinh sản khiến chúng sinh ra tôm chỉ có giới tính cái. Nhiễm sắc thể xác định giới tính của tôm càng xanh hoạt động theo cách tương tự ở người: có tín hiệu nhiễm sắc thể (nghĩ là nhiễm sắc thể X/Y) được quyết định bởi một cơ quan tạo ra hormone kiểm soát sự phát triển của giới tính đực và cái. Nhưng không giống như ở con người, tôm càng xanh cái cũng có thể ảnh hưởng đến sự phát triển giới tính của thế hệ tiếp theo.

Sử dụng đặc điểm di truyền giới tính của tôm càng xanh, các nhà khoa học tiến hành lấy một số tế bào từ cơ quan sản xuất hormone ở tôm đực, sau đó tiêm vào tôm cái non, hormone sẽ khiến chúng phát triển thành con đực nhưng về mặt di truyền vẫn là con cái. Giống như tôm đực tự nhiên, chúng có thể giao phối bình thường với những con cái khác, con của các cặp tôm này sẽ phát triển thành tôm cái bất kể chúng mang nhiễm sắc thể nào, quần thể tôm toàn cái có đặc điểm tăng trưởng nhanh, kích thước lớn vượt trội và đồng đều. Kỹ thuật này liên quan đến một số thao tác đáng kể về sinh học, vì vậy sản phẩm có thể không được xem là thuần tự nhiên. Tuy nhiên, không giống như những thực phẩm biến đổi gen, quá trình sản xuất tôm càng xanh giống sinh ra đàn con đơn tính không làm cho vật liệu di truyền tự nhiên của tôm bị ảnh hưởng, vì vậy an toàn khi dùng làm thực phẩm.

Các nhà khoa học cũng sử dụng kỹ thuật tương tự để phát triển công nghệ song song tạo ra tôm giống có khả năng sinh ra tôm toàn đực. Dù là nuôi tôm càng xanh toàn đực hay toàn cái thì quần thể tôm càng xanh đơn tính giúp loại bỏ sự cạnh tranh giữa những con đực, khắc phục các vấn đề tôm hao hụt và tốc độ tăng trưởng chậm. Loại bỏ các tác nhân kích thích các hành vi hung hăng cũng làm giảm căng thẳng, giúp tôm tập trung sử dụng dinh dưỡng cho quá tăng trưởng. Điều này có thể cải thiện sản lượng tới 45%, nghĩa là có thể tăng 50 – 60% thu nhập cho người nuôi.

Lựa chọn nuôi tôm càng xanh toàn đực hay toàn cái còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: hình thức nuôi, trình độ phát triển kỹ thuật hỗ trợ, vốn đầu tư ban đầu… Đánh giá sơ bộ, mô hình nuôi tôm càng xanh toàn đực thích hợp nuôi mật độ thấp, ít đầu tư với hình thức xen canh, quảng canh. Trong khi đó, nuôi tôm càng xanh toàn cái phù hợp mô hình thâm canh, mật độ dày với vốn đầu tư cao hơn.

Hoài An – https://tepbac.com/

Ảnh hưởng của mật độ tảo trong ao nuôi tôm nước lợ

Hỏi: Mật độ tảo có ảnh hưởng như thế nào trong ao nuôi tôm nước lợ, hướng dẫn cách điều chỉnh mật độ tảo phù hợp?

(Nguyễn Văn Hùng, xã Ngọc Chánh, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau)

Trả lời:

Mật độ tảo phù hợp tạo thuận lợi cho tôm sinh trưởng tốt. Mật độ quá cao kết hợp độ kiềm thấp dưới 80 mg/l sẽ làm pH biến động lớn trong ngày và ôxy ban đêm < 3 mg/l. Mật độ tảo quá cao dẫn tới hiện tượng nở hoa và gây ô nhiễm môi trường. Mật độ tảo thấp cũng không thuận lợi cho tôm phát triển. Cần duy trì mật độ tảo vừa phải, tương ứng với độ trong từ 30 – 45 cm.

Nếu mật độ tảo cao, thay 20 – 30% nước ao nuôi bằng nước sạch hoặc dùng chế phẩm sinh học diệt tảo (liều lượng theo hướng dẫn ghi trên bao bì sản phẩm), sau đó đánh men vi sinh để phân hủy xác tảo, xi phông đáy và bổ sung nước mới sạch giúp ổn định môi trường.

Nếu mật độ tảo thấp, sử dụng đạm (0,2 – 0,4 kg/1.000 m3) kết hợp lân P2O5 (0,3 – 0,6 kg/1.000 m3) hòa tan tạt đều khắp ao, những ao khó lên màu bón thêm bột zeolite hoặc dolomite liều lượng 7 – 10 kg/1.000 m3.

Hỏi: TTCT nuôi trong ao được 2 tháng, có hiện tượng phát sáng vào ban đêm. Xin hỏi cách phòng trị?

(Hoàng Duy Bình, P. An Bình, Q. Ninh Kiều, TP Cần Thơ)

Trả lời:

Nguyên nhân gây hiện tượng phát sáng là ao bị ô nhiễm, do Vi khuẩn Vibrio harveyi; hoặc tảo 2 roi Dinoflagellate; hàm lượng photpho trong nước, đất tăng cao.

Do vi khuẩn: Xử lý nguồn nước bằng hóa chất diệt khuẩn là iotdine 30%, liều lượng: 2 lít/1.000 m3; bổ sung vitamin và chế phẩm sinh học trộn vào thức ăn cho tôm ăn, nhằm nâng cao sức đề kháng và khả năng tiêu hóa của tôm; Bổ sung nước ngọt làm giảm độ mặn trong nước ao nuôi xuống dưới 15‰ để hạn chế sự phát triển của vi khuẩn.

Do tảo và photpho cao: Ban đêm quan sát ao thấy có hiện tượng chớp tắt như sao đêm; tôm di chuyển cũng thấy những vệt sáng màu xanh. Sử dụng nước vôi trong, vì Ion Ca2+ có khả năng kết hợp với PO43- tạo thành Ca3(PO4)2 và kết tủa lân xuống đáy ao, làm giảm sự phát triển của tảo trong ao. Liều lượng: 30 kg CaO/1.000 m3 nước ao nuôi. Cách làm: Hòa tan CaO trong nước, để trong thời gian 10 – 12h, lấy nước trong, té xuống ao nuôi vào thời điểm 2 – 3h sáng.

Hỏi: Xin hỏi ngưỡng nhiệt độ thích hợp của các loài tôm nuôi?

(Lê Thành Nam, xã Vĩnh Thuận, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang)

Trả lời:

Mỗi loài tôm có ngưỡng nhiệt độ khác nhau, như tôm càng xanh sẽ chết nếu nhiệt độ nước xuống 13 – 140C kéo dài, tôm sú sống tốt ở nhiệt độ 350C nhưng tỷ lệ sống chỉ còn 60% nếu nhiệt độ tăng lên 37,50C và giảm tiếp xuống 40% nếu nhiệt độ tăng lên 400C. Nhiệt độ thích hợp nhất là 28 – 320C đối với tôm sú nuôi thương phẩm. Với tôm lớt (Penaeus merguiensis) ở 340C tỷ lệ sống 100%; ở 360C chỉ còn 50% tôm hoạt động bình thường, 5% tôm chết; ở 380C 50% tôm chết, ở 400C 75% tôm chết. Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei), nhiệt độ nước thích hợp nhất là 25 – 320C,  không vượt quá 33,50C, không thấp dưới 180C.

Tin tức Thủy sản nhiều người đọc nhất

Đồng bằng sông Cửu Long nhiễm mặn, nuôi con gì hiệu quả?

Khái niệm “Nông nghiệp thuận thiên” đang được hiện thực hóa tại ĐBSCL, khi hàng loạt mô hình nuôi trồng thủy sản thích ứng với điều kiện hạn hán, xâm nhập mặn ra đời.

Nuôi tôm trở thành lợi thế tại vùng đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh xâm nhập mặn ngày càng lấn sâu vào đất liền. Ảnh: Trọng Linh.

Nuôi tôm trở thành lợi thế tại vùng đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh xâm nhập mặn ngày càng lấn sâu vào đất liền. Ảnh: Trọng Linh.

Nuôi tôm thích ứng mặn

Chỉ chưa đầy 5 năm, các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long đã chứng kiến hai đợt thiên tai (hạn hán và xâm nhập mặn) vô cùng khốc liệt, khiến gần 500.000 ha bị thiệt hại. Gần 400.000 hộ dân bị thiếu nước sinh hoạt.

Các chuyên gia khẳng định, đồng bằng sông Cửu Long là một trong 5 vùng chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu, do nước biển dâng, xâm nhập mặn, hạn hán. Trước đây, hạ tầng thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp của “vùng đất chín rồng” thường chú trọng vào cây lúa.

Nhiều nông dân ĐBSCL trở thành tỷ phú nhờ nuôi tôm. Ảnh: Trọng Linh.

Nhiều nông dân ĐBSCL trở thành tỷ phú nhờ nuôi tôm. Ảnh: Trọng Linh.

Tuy nhiên, GS.TS Nguyễn Quốc Dũng – Phó Chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam cho rằng, chúng ta phải chấp nhận 3 vùng sinh thái tồn tại khách quan tại đồng bằng sông Cửu Long đó là vùng nước mặn, vùng nước lợ và vùng nước ngọt.

Chính phủ, Bộ NN-PTNT và các địa phương đã nhận thức rõ, thứ tự ưu tiên trong sản xuất nông nghiệp của các tỉnh miền Tây Nam bộ giáp biển là thủy sản – trái cây rồi mới đến lúa.

Chúng ta đặt mục tiêu xuất khẩu tôm đạt 10 tỷ USD vào năm 2025. Đây là bài toán khó, bởi hoạt động nuôi trồng thủy sản, nhất là tôm cần khối lượng nước ngọt khổng lồ. Trong khi đó, các quốc gia thượng nguồn sông Mê Kông như Lào và Trung Quốc đã và đang xây dựng 19 bậc thủy điện.

Campuchia cũng đang xây dựng hồ chứa thủy lợi khổng lồ với dung tích 80 tỷ m3 nước, lấy nguồn từ sông Mê Kông. Trong tương lai, nguồn nước ngọt tại đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngày càng khan hiếm.

Ước tính, để nuôi 1ha tôm cần khoảng 10.000 m3 nước và 1ha trồng lúa tiêu tốn khoảng 5.000m3 nước. Để khắc phục vấn đề này, một số doanh nghiệp đã tiếp cận được các loại giống tôm chịu độ mặn từ 25‰ đến 30‰. Những công nghệ nuôi tôm tuần hoàn nước đến 95%, do đó gần như không cần sử dụng nước ngọt để pha vào nước mặn nuôi tôm.

Nhờ ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất, đồng bằng sông Cửu Long đang manh nha những điểm sáng để hình thành ngành công nghiệp nuôi tôm, thay thế cho các ao nuôi truyền thống sử dụng nước lợ và nước ngọt.

Nuôi tôm năng suất 100 tấn/ha không khó

Trước đây, đạt được năng suất 15 tấn /ha ao chìm là thành công mỹ mãn với người nuôi tôm. Nhưng hiện nay nhiều hộ đã xây dựng ao tròn nổi để nuôi tôm, đem lại năng suất lên tới 100 tấn/ha. Đây là những tiến bộ kỹ thuật phát triển vượt bậc, có thể tiết kiệm được công vệ sinh đáy ao.

Bên cạnh đó, nhiều vùng nuôi tôm bị nhiễm bệnh là do khan hiếm nguồn nước sạch, chủ ao buộc phải tận dụng nguồn nước sẵn có tại kênh, rạch trong hệ thống thủy lợi không đảm bảo vệ sinh môi trường.

Để giải quyết vấn đề này, trong tương lai, chúng ta cần lấy trực tiếp nước biển để nuôi tôm chứ không lấy nước trong kênh rạch. Ví dụ như ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đang xây dựng trạm bơm lấy nước biển ở vùng Lộc An, sau đó dẫn nước mặn sâu vào đất liền 10km.

Và ở huyện Kiên Lương (tỉnh Kiên Giang), Chính phủ đang cho quy hoạch 10.000 ha công viên thủy sản, có hệ thống lấy nước biển và dẫn vào sâu đất liền 7km, để hình thành ngành công nghiệp cấp nước nuôi trồng thủy sản (giống như cấp nước sinh hoạt) bán cho các hộ nuôi tôm.

Toàn bộ hệ thống kênh tiêu thủy lợi hiện nay sẽ là kênh thải. Như vậy chúng ta sẽ tạo ra vùng sinh thái nuôi tôm rất thuận lợi. Đó là mô hình nuôi tôm bền vững, có thể nhân rộng trong tương lai để đem lại giá trị gia tăng cao cho người nông dân.

Nhiều diện tích tôm nuôi ở Hải Phòng bị nhiễm bệnh


Từ đầu tháng 4 đến nay, trên địa bàn thành phố Hải Phòng xuất hiện dịch bệnh trên tôm trên diện rộng, hiện chưa có chiều hướng giảm, gây thiệt hại kinh tế cho người dân.

Lây lan rộng nhất là bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp tính, với tổng diện tích tôm nuôi nhiễm bệnh trên địa bàn thành phố 250,43 ha, diện tích nuôi tôm có nguy cơ nhiễm bệnh trên 503 ha.

Khởi điểm dịch bệnh bắt đầu từ xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng. Theo báo cáo từ các hộ nuôi tôm, từ đầu tháng 4/2020 tại một số đầm nuôi, tôm có dấu hiệu đỏ thân, bơi dạt bờ, kém ăn, chết…Chi cục Chăn nuôi và Thú y phối hợp Ban chỉ đạo phòng chống dịch huyện Tiên Lãng, xã Vinh Quang kiểm tra, lấy 17 mẫu tôm tại 9 hộ nuôi gửi Trung tâm Chẩn đoán Thú y Trung ương xét nghiệm xác định nguyên nhân. Kết quả xét nghiệm phát hiện cả 17 mẫu đều nhiễm bệnh đốm trắng, 3/17 mẫu nhiễm vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính, 3/17 mẫu nhiễm vi khuẩn vibrio paraheamolyticus.

Tính đến ngày 21/4, tổng diện tích tôm mắc bệnh là 15 ha tại 11 hộ nuôi tôm trên địa bàn xã Vinh Quang; ước tính thiệt hại khoảng 7,5 tỷ đồng.

Cùng với xã Vinh Quang, phường Tân Thành, quận Dương Kinh tính đến ngày 27/4, tổng diện tích tôm bị bệnh trên địa bàn quận 235,43 ha.

Trước tình hình dịch bệnh trên tôm có diễn biến phức tạp, ông Phạm Văn Thép, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng cho biết, Sở đã chỉ đạo Chi cục Chăn nuôi và Thú y phối hợp Ban chỉ đạo phòng chống dịch bệnh động vật huyện Tiên Lãng, quận Dương Kinh và các huyện, quận có diện tích nuôi tôm trên địa bàn thành phố tập trung triển khai thực hiện các biện pháp phòng chống dịch bệnh tôm nuôi.

Theo đó, đối với các cơ sở nhiễm bệnh giám sát chặt chẽ, hướng dẫn biện pháp khử trùng tiêu độc, tổ chức tiêu hủy ao tôm nhiễm bệnh, thu gom xác tôm chết chôn hủy theo quy định, không vận chuyển tôm nhiễm bệnh ra khỏi cơ sở.

Cùng với việc không xả thải nước từ cơ sở nhiễm bệnh chưa qua xử lý ra ngoài môi trường làm lây lan dịch bệnh, các địa phương tiêu độc, khử trùng toàn bộ nước trong ao nuôi, dụng cụ liên quan bằng hóa chất có trong danh mục được phép.

Chi cục Chăn nuôi và Thú y cũng tổng hợp, báo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xuất cấp 8.800 kg chlorine 65% min từ nguồn dự trữ Quốc gia hỗ trợ Hải Phòng phòng, chống dịch bệnh động vật và trình UBND thành phố quyết định cho sử dụng nguồn hóa chất dự phòng chống dịch thủy sản, xuất cấp cho huyện Tiên Lãng, quận Dương Kinh kịp thời tổ chức chống dịch theo quy định.

Đối với các cơ sở nuôi ở khu vực xung quanh chưa có bệnh cần tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thủy sản giống trên địa bàn. Yêu cầu các cơ sở khi nhập thủy sản giống về phải có giấy chứng nhận kiểm dịch và báo cáo chính quyền địa phương kế hoạch nhập thủy sản giống. Tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình dịch bệnh đối với những hộ nuôi thủy sản trên địa bàn….

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng cũng kiến nghị thành phố kịp thời tăng cường nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi thủy sản đáp ứng yêu cầu nuôi thâm canh, công nghiệp thân thiện, bền vững với môi trường tại các vùng nuôi trọng điểm và vùng sản xuất giống thủy sản; ưu tiên các hạng mục đầu tư xây dựng trạm điện, nạo vét kênh mương cấp thoát nước cho vùng nuôi tôm tập trung.

Hoàng Ngọc (TTXVN)