Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Tin Tức Ngành

Nuôi tôm thẻ nước ngọt: Lợi và hại

tôm thẻ
Mô hình nuôi tôm thẻ nước ngọt vẫn đang gây nhiều tranh cãi.

Những lợi ích và rủi ro của mô hình nuôi tôm thẻ nước ngọt.

Tôm thẻ chân trắng là đối tượng được nuôi ngày càng rộng rãi vì giá trị kinh tế cao cùng với thời gian nuôi tương đối ngắn và khả năng chống chịu với độ mặn trong khoảng rộng (0,5-45 ppt), nhờ vậy các mô hình nuôi tôm thẻ ngày càng được phát triển về chuyên môn và quy mô. Trong những năm gần đây, xuất hiện mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng nước ngọt với độ mặn thấp (<1 ppt), đây đang là một vấn đề gây tranh cãi sôi nổi hiện nay. Vậy tại sao người ta lại đem loài tôm biển này nuôi với điều kiện nước ngọt?

Cơ sở khoa học về việc nuôi tôm thẻ chân trắng trong môi trường nước ngọt

Theo các nghiên cứu, tôm thẻ chân trắng có khả năng chống chịu tốt với môi trường có nồng độ muối thấp hay môi trường nước ngọt. Viện Hải dương học Harbor Branch (Đại học Florida Atlantic, Mỹ) đã nuôi thành công tôm thẻ trong điều kiện nước ngọt với tổng nồng độ chất hòa tan 700-1,000 ppm.

Mới đây, vào năm 2019, PSG. TS Kim Văn Vạn – Trưởng khoa Nuôi Trồng thủy sản – Học viện Nông nghiệp Việt Nam và cộng sự đã công bố bài nghiên cứu “Thử nghiệm thuần và nuôi thương phẩm tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) qua đông trong ao nuôi nước ngọt tại Hưng Yên”. Kết quả nghiên cứu đem lại đầy khả quan cho mô hình nuôi tôm thẻ nước ngọt. Thử nghiệm với tôm thẻ chân trắng giai đoạn PL12 (tôm có cỡ 1,1 – 1,2 cm) được thuần hóa từ độ mặn 15 ppt xuống còn 0 ppt đã cho thấy tỉ lệ sống sót tốt của tôm thẻ khi được thuần hóa vào nước ngọt, với kết quả của 3 đợt thực nghiệm đều đạt trên 94%. Tiếp theo đó, sau 4 tháng nuôi thương phẩm đã cho hiệu quả kinh tế trung bình đặt gần 88 triệu đồng/ha (với kích cỡ 70 kg/con và giá bán 165,000 đồng/kg). Tác giả kết luận rằng điều kiện vào mùa đông ở miền Bắc Việt Nam có thể nuôi tôm thẻ chân trắng trong ao nuôi nước ngọt với tỉ lệ sống sót và tăng trưởng tốt.

Như vậy, đã có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng độ mặn của ao nuôi không ảnh hưởng quá nhiều tới tỉ lệ sống sót của con tôm giống và khả năng sinh trưởng của tôm thẻ chân trắng giúp củng cố tiềm năng phát triển cho mô hình nuôi loài tôm này trong điều kiện nước ngọt.

Những lợi ích tôm thẻ chân trắng nuôi nước ngọt mang lại

Đối với kinh tế, giá trị về kinh tế của mô hình nuôi này mang lại dù có thể nhỏ hơn nuôi nước lợ nhưng vẫn rất cao nên giúp ổn định đời sống người dân và góp phần tăng sản lượng tôm xuất khẩu. 

Vào mùa mưa, do lưu lượng nước sông đổ ra biển rất lớn nên nhiều vùng nuôi có độ mặn xuống rất thấp nhưng vì khả năng chống chọi tốt của con tôm thẻ, người nuôi không qua quan ngại đến độ mặn thấp mà chỉ cần quản lý tốt chất lượng nước và đảm bảo cung cấp đủ các khoáng chất thiết yếu cho đối tượng nuôi tăng trưởng tốt. Như vậy, việc nuôi tôm thẻ chân trắng nước ngọt sẽ giúp giải quyết vấn đề thiếu độ mặn thấp trong ao nuôi tôm vào mùa mưa ở nước ta.

Đặc biệt, bệnh trên tôm thẻ do virus gây như đốm trắng, virus gây hội chứng Taura, virus gây bệnh IHHNV,… Khi nuôi với độ mặn thấp các virus gây bệnh không đủ điều kiện để phát triển nên nuôi tôm thẻ trong điều kiện nước ngọt mang làm hạn chế rất nhiều bệnh trên tôm.

Rủi ro của nuôi tôm thẻ nước ngọt

Vì lợi ích kinh tế mà tôm thẻ chân trắng đem lại rất cao dù nuôi trong điều kiện nước ngọt nên hiện nay rất nhiều người dân ở vùng trồng lúa đã đổi mô hình chuyển sang đào giếng để lấy nước ngầm nuôi tôm thẻ chân trắng. Việc này kéo dài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến mạch nước ngầm, nhất là vào mùa khô các vùng bị xâm nhập mặn sẽ thiếu nguồn nước ngầm dự trữ cho sinh hoạt làm ảnh hưởng nặng nề đến đời sống người dân.

Do quy mô nhỏ lẻ và mang tính tự phát nên việc người dân tự ý nuôi tôm thẻ chân trắng ở vùng nước ngọt đã làm phá hủy nặng nề hệ sinh thái khu vực do chưa có hệ thống xử lí nước thải hợp lí mà hầu hết là thải trực tiếp ra sông ngòi. 

Dù khả năng chống chịu tốt và thời gian nuôi tương đối ngắn nhưng để quản lí tốt ao nuôi tôm cần người nuôi có trình độ chuyên môn. Vì lợi ích trước mắt, nhiều người nông dân đã tự ý nuôi tôm không có kế hoạch cùng như do thiếu kinh nghiệm đã làm tổn thất lớn về kinh tế của hộ gia đình và kèm theo vấn đề môi trường của địa phương. Nhiều báo cáo về vấn đề người dân bổ sung độ mặn cho ao nuôi tôm bằng cách rải thêm muối hột vào ao, điều này làm cho nước ở khu vực nước ngọt này bị nhiễm mặn làm ảnh hưởng đến quá trình canh tác lúa cũng như nuôi thủy sản ở vùng lân cận.

Để đảm bảo pháp triển mô hình nuôi tôm thẻ nước ngọt cần phải giải quyết triệt để vấn đề về môi trường. Đầu tư phát triển các hệ thống ao lắng để xử lí nước thải trước khi xả nước ra môi trường là một “liệu pháp” cho thách thức này. Nhìn chung, mô hình này đòi hỏi quy mô lớn nên sẽ rất khó trong việc đầu tư phát triển mô hình do nhiều vốn mà nhiều rủi ro vẫn chưa có cách khắc phục triệt để.

Duy Hồ – https://tepbac.com/

Xuất khẩu tôm tăng trên 10% trong 9 tháng đầu năm nay

Tháng 9/2020, XK tôm Việt Nam đạt gần 385 triệu USD, tăng trên 25% so với tháng 9/2019, mức tăng trưởng cao nhất kể từ tháng 3 năm nay. Lũy kế 9 tháng đầu năm nay, XK tôm đạt 2,7 tỷ USD, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Trừ tháng 1, XK tôm giữ được đà tăng trưởng dương liên tục từ tháng 2 đến tháng 9 năm nay.

Tháng 9/2020, trừ XK sang Nhật Bản giảm, XK tôm Việt Nam sang các thị trường chính khác đều tăng như Mỹ (+39,6%), Trung Quốc (+22,9%), EU (+35,4%), Hàn Quốc (+3,2%), Anh (+54,3%), Canada (+47%), Australia (+50,7%). Đáng chú ý, XK tôm Việt Nam sang EU trong tháng 9/2020 đạt mức tăng trưởng cao nhất kể từ đầu năm nhờ một phần tác động tích cực từ Hiệp định EVFTA. Các thị trường NK chính của tôm Việt Nam đồng loạt tăng NK để phục vụ các lễ hội cuối năm.

9 tháng đầu năm nay, tôm chân trắng chiếm 72% tổng XK tôm của Việt Nam, tôm sú chiếm 16%, còn lại là tôm biển. Tổng giá trị XK tôm chân trắng tăng 15% trong khi XK tôm sú giảm 15%. XK tôm chân trắng chế biến (mã HS 16) và tôm chân trắng sống/tươi/đông lạnh (mã HS 03) tăng lần lượt 24% và 7%. XK tôm sú chế biến khác (HS16) tăng 38% trong khi XK tôm sú sống/tươi/đông lạnh (HS03) giảm 20%.

Mỹ: Mỹ là thị trường dẫn đầu về NK tôm Việt Nam, chiếm tỷ trọng gần 24%. XK tôm Việt Nam sang Mỹ trong tháng 9/2020 tăng trưởng tốt 39,6% so với tháng 9/2019. Lũy kế 9 tháng đầu năm nay, XK tôm sang thị trường này đạt trên 634,4 triệu USD, tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái. Mặc dù dịch Covid-19, XK tôm Việt Nam sang Mỹ vẫn tăng trưởng dương trong cả tất cả các tháng của 9 tháng đầu năm nay. Mỹ được coi là thị trường có nhu cầu nhập khẩu tôm Việt Nam ổn định nhất trong 9 tháng đầu năm nay. Nhu cầu NK tôm của Mỹ vẫn tốt để phục vụ phân khúc bán lẻ.

Theo số liệu của Cục Quản lý Đại dương và Khí quyển quốc gia Hoa Kỳ (NOAA), 8 tháng đầu năm nay, Mỹ NK 460.070 tấn, trị giá 3,9 tỷ USD, tăng 6% về khối lượng và 8% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Trên thị trường Mỹ, trong 8 tháng đầu năm nay, tôm Việt Nam có lợi thế cạnh tranh hơn so với các nguồn cung đối thủ như Ấn Độ và Ecuador nhờ ổn định lại sản xuất nhanh hơn sau COVID-19. Giá tôm tại đầm tất cả các cỡ tại Ấn Độ tiếp tục tăng do các nhà đóng gói tại Ấn Độ đối mặt với tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng nguồn cung tôm nguyên liệu.

8 tháng đầu năm nay, NK tôm vào Mỹ từ các nguồn cung chính đều tăng trong đó Mỹ tăng mạnh NK từ Ecuador, Indonesia, Argentina, NK từ Ấn Độ tăng khiêm tốn.

EU: EU là thị trường NK tôm lớn 4 của Việt Nam sau Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc, chiếm 13,8% tổng giá trị XK tôm của Việt Nam. Sau khi giảm trong những tháng trước đó, XK tôm Việt Nam sang EU bắt đầu tăng trưởng tốt trong quý III năm nay nhờ tác động tích cực từ Hiệp định EVFTA có hiệu lực từ đầu tháng 8 năm nay. Tháng 9/2020, XK tôm Việt Nam sang EU đạt 57,6 triệu USD, tăng 35,4% so với cùng kỳ năm ngoái. 9 tháng đầu năm nay, XK tôm sang thị trường này đạt trên 371 triệu USD, tăng 2,3%.

Trên thị trường EU, các nhà hàng, dịch vụ thực phẩm đang từng bước mở cửa trở lại. Ngành du lịch cũng bắt đầu khởi động. Trong khi đó, doanh số bán lẻ hoặc online tiếp tục tăng và nhu cầu tiêu thụ tôm cho phân khúc bán lẻ sẽ lớn hơn để chuẩn bị cho các kỳ nghỉ lễ cuối năm. EU là thị trường có tỷ suất lợi nhuận tốt và đây sẽ là thị trường được nhiều DN tập trung XK trong những tháng cuối năm. XK tôm Việt Nam sang EU từ nay đến hết năm dự kiến tiếp tục tăng.

Với những tín hiệu khả quan trong xuất khẩu tôm Việt Nam trong 9 tháng đầu năm nay, XK tôm Việt Nam cả năm 2020 dự kiến đạt 3,7 tỷ USD, tăng 9,8% so với năm 2019.

Kim Thu – http://vasep.com.vn/

Hướng đi mới cho mô hình tôm – lúa

“Lúa thơm – Tôm sạch” là chủ trương mới nhằm “nâng tầm” cho mô hình tôm – lúa và mục tiêu mà ngành thủy sản đang hướng tới nhằm tạo ra sản phẩm đạt chứng nhận quốc tế, như: sinh thái, hữu cơ, ASC… để tiến tới xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm trong mô hình.

Tầm nhìn mới

Là người nhiều năm gắn bó, nghiên cứu mô hình tôm – lúa ở ĐBSCL, TS Võ Nam Sơn, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, nhận xét: “Năng suất của tôm trong mô hình tôm – lúa hiện bình quân chỉ 300 – 500 kg/ha, còn lúa cao nhất cũng chỉ 700 kg/ha. Do đó, vấn đề hiện nay đặt ra đối với chúng ta là nên tập trung vào giải pháp tăng năng suất hay tăng giá trị cho con tôm và cây lúa trong mô hình thông qua việc sản xuất và đạt các chứng nhận quốc tế. Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, dưới tác động của biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn ngày càng sâu và cao nên diện tích tôm – lúa ở Cà Mau cũng đang dần bị đẩy lùi vào nội địa và để lại phía sau nó là mô hình quảng canh cải tiến. Vì vậy, cần có một cái nhìn mới về tính bền vững của mô hình tôm – lúa trong điều kiện này”.

Hướng đi mới cho mô hình tôm - lúa

Cần phát triển mô hình tôm – lúa theo hướng nâng cao giá trị và xây dựng thương hiệu Ảnh: PTC

Ông Huỳnh Quốc Khởi, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Bạc Liêu cho biết, tỉnh Bạc Liêu hiện có 25.800 ha nuôi tôm siêu thâm canh, thâm canh và bán thâm canh, 72.796 ha nuôi quảng canh cải tiến và 39.578 ha tôm – lúa. Khác với Cà Mau, mô hình tôm – lúa của Bạc Liêu không bị đẩy lùi vào nội địa mà lại lan rộng ra, nên theo định hướng chung của tỉnh, đến năm 2030, diện tích tôm – lúa sẽ vào khoảng 45.000 – 50.000 ha. Mô hình tôm – lúa của Bạc Liêu cũng rất đa dạng, nhưng có hiệu quả nhất tập trung vào 3 mô hình: tôm sú – lúa với tôm sú được thả 2 – 3 đợt trong 1 vụ nuôi; mô hình sú, thẻ (2 – 3 đợt/vụ) kết hợp thả xen cua vào mùa khô, sau đó lặp lại vụ lúa vào mùa mưa và cuối cùng là mô hình tôm sú, thẻ mùa khô (2 – 3 đợt/vụ) và cây lúa, tôm càng xanh trong mùa mưa. Đối với cây lúa, nhờ áp dụng sạ hàng nên lượng giống giảm xuống chỉ còn 50 kg/ha, với các giống lúa thơm chất lượng cao, trong đó có giống ST.

Mục tiêu tăng giá trị

Đối với vấn đề phát triển bền vững cho mô hình tôm – lúa, theo kỹ sư Hồ Quang Cua, vùng tôm – lúa rất thuận lợi cho việc sản xuất đạt chứng nhận hữu cơ, nhất là đối với cây lúa. Tuy nhiên, quan trọng là phải làm sao chủ động trong việc rửa mặn để đất không bị mặn hóa và cần có sự kết nối giữa các vùng để không chỉ đảm bảo về số lượng, chất lượng mà còn tạo được tính liên tục giúp doanh nghiệp chủ động được nguồn hàng xuất khẩu, tiến tới xây dựng thương hiệu hay chỉ dẫn địa lý.

Đồng tình với định hướng phát triển mô hình tôm – lúa theo hướng nâng cao giá trị và tiến tới xây dựng thương hiệu, nhưng với kinh nghiệm nhiều năm thực hành nuôi tôm đạt chứng nhận hữu cơ, ông Lâm Thái Xuyên, Giám đốc Công ty CP Xã hội chuỗi tôm rừng Minh Phú, Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, chia sẻ: “Đến thời điểm này chỉ mới có con tôm rừng của Cà Mau là đạt chứng nhận hữu cơ, còn các mô hình nuôi khác thì hầu như chưa có. Điều này cho thấy, việc đạt chứng nhận tôm hữu cơ đối với các mô hình nuôi khác là không hề đơn giản, vì chỉ với 2 tiêu chí đầu vào là con giống và thức ăn phải đạt chứng nhận hữu cơ thôi là chúng ta đã khó lòng đáp ứng được. Do đó, trong định hướng cần cân nhắc, trước mắt chỉ nên lấy cây lúa làm chứng nhận hữu cơ, còn con tôm chỉ nên thực hành đạt các chứng nhận quốc tế, như: ASC, BAP… khi nào điều kiện thuận lợi mới nâng con tôm lên chứng nhận hữu cơ”.

Liên quan đến vấn đề liên kết sản xuất, các doanh nghiệp ngành tôm lẫn lúa gạo, như: Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, Công ty CP Việt – Úc, Công ty TNHH MTV Trịnh Văn Phú, DNTN Hồ Quang… đều khẳng định sẽ đồng hành cùng mô hình trong việc tạo ra sản phẩm sạch, sản phẩm đạt chứng nhận hữu cơ hay các chứng nhận quốc tế khác nhằm nâng cao giá trị và hiệu quả của mô hình tôm – lúa.

Xuân Trường – https://thuysanvietnam.com.vn/

Probiotic nào phù hợp cho tôm sú?

Tôm sú.
Probiotic tăng khả năng miễn dịch cho tôm sú chống lại mầm bệnh.

Sử dụng probiotic nào cho hiệu quả tốt hơn đối với tôm sú?

Nuôi trồng thủy sản đã phát triển một cách chóng mặt trong những năm gần đây, trong đó các nước Châu Á đóng góp hơn 90% sản lượng thủy sản toàn cầu. Nhưng việc mở rộng nhanh chóng và tập trung hơn vào nuôi tôm sú thâm canh đã bị ảnh hưởng bởi nhiều loại bệnh. Phải kể đến virus đầu vàng, đốm trắng, hội chứng gan tụy cấp tính và rất nhiều bệnh do các yếu tố môi trường gây ra. Một loạt các phương pháp phòng trị bệnh đã được áp dụng để ngăn ngừa mầm bệnh và duy trì chất lượng nước ở các trang trại nuôi. Trong đó, việc sử dụng probiotic ngày càng gia tăng nhờ vào việc ức chế hiệu quả sự xâm nhập của mầm bệnh.

Trong hai thập kỷ vừa qua, việc sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm ngày càng tăng do sự tích cực của chúng và lợi ích thay thế cho những phương pháp điều trị hóa học. Tuy nhiên, việc lựa chọn chế phẩm sinh học phù hợp là rất quan trọng vì nếu không có thể làm mất cân bằng đường ruột tôm và ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình điều hòa miễn dịch, hoạt động đối kháng với mầm bệnh, và khả năng tiêu hóa thức ăn của tôm. Đã có nhiều vi khuẩn được báo cáo là tăng cường hoạt động của các enzyme hệ tiêu hóa và sinh sôi mạnh trong đường ruột. Tuy nhiên, việc tìm kiếm các probiotic mới vẫn được triển khai, do sự biến đổi của ruột có thể ảnh hưởng đến những nhóm vi khuẩn khác nhau.

Việc tăng khả năng miễn dịch cho tôm chống lại mầm bệnh cũng có thể nhờ vào các probiotic, nhất là đẩy lùi chủng Vibrio sp, .Một đặc điểm vượt trội khác của probiotic là không tồn dư và cũng không kháng thuốc như kháng sinh, và thay thế được hoàn toàn. Trong khi kháng kháng sinh đang trở thành một chủ đề nóng hiện nay. Các chế phẩm sinh học này đã được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản để cung cấp dinh dưỡng, kiểm soát chất lượng nước, thúc đẩy tiêu hóa và kiểm soát các bệnh khác nhau. Việc lựa chọn các chủng probiotic để sử dụng là vô cùng quan trọng, vì vậy phải kiểm tra và chọn lọc đặc tính cho phù hợp nhất với sự phát triển của tôm sú.

Sau kiểm tra cho thấy Bacillus sp., Micrococcus sp., Corynebacterium, và Staphylococcus là những loài chiếm ưu thế trong ruột của tôm sú. Các enzyme được tạo ra cũng được xem xét, 90% vi khuẩn phân lập được đều có khả năng sản xuất protease trong khi sản xuất cellulase lại rất ít. Probiotic khi được kết hợp với thức ăn nhân tạo sẽ cải thiện hiệu suất tăng trưởng và tăng cường sản xuất enzym tiêu hóa. Do năng suất tăng trưởng của tôm sú chủ yếu là phụ thuộc vào hoạt động của các enzyme tiêu hóa.

Các enzyme do probiotic tiết ra thường nhiều hơn so với lượng enzyme nội sinh trong ruột tôm, vì sự hiện diện của probiotic sẽ tác động nghiêm trọng việc sản xuất các enzyme nội sinh. Hoạt động của các enzyme trong ruột tôm sẽ đo được mức độ tiêu hóa và sự tăng trưởng của tôm. Nhờ các vi nhung mao của ruột có diện tích bề mặt khá lớn, đủ cho sự phát triển của tất cả các vi sinh vật, nhờ đó gia tăng mật độ vi sinh vật có lợi, tăng cường hấp thu chất dinh dưỡng.

Hiện nay các loại chế phẩm sinh học trên thị trường chủ yếu gồm các loài Lactobacillus acidophilus , Bacillus licheniformis , B. thuringiensis , B. subtilis. Trong đó Bacillus sp. là những loài thường xuyên nhất. Những vi khuẩn này đều có tác dụng tạo ra các chất kháng khuẩn và thúc đẩy hệ miễn dịch, ức chế mầm bệnh. Loài Bacillus sp. này có nhiều ưu điểm hơn các loài khác với khả năng tạo bào tử cao, ổn định ở nhiệt độ thường và có thể bảo quản trong thời gian dài.

Tôm sú nuôi thâm canh đã được phát triển từ lâu đời, tuy nhiên khi tôm thẻ “soán ngôi” thì sản lượng tôm sú giảm hẳn. Nhưng không vì vậy mà các ao nuôi tôm sú không được đầu tư. Ngược lại là trang thiết bị và kỹ thuật nuôi tôm ở nhiều khu vực đều rất bài bản. Do vậy tôm sú cũng rất cần được bổ sung Probiotic để đẩy lùi mầm bệnh, giúp tăng cường hấp thu các chất dinh dưỡng và tăng cường sự phát triển. Từ đó, sản lượng tôm sú ngày một tăng cao, góp phần bổ sung phần GDP cho ngành nuôi trồng thủy sản.

Hà Tử – https://tepbac.com/

Người nuôi tôm đối mặt nguy cơ ngập hồ, vỡ đê

Mưa lũ xảy ra nhiều ngày qua và bây giờ vẫn còn tiếp diễn khiến đê bao của nhiều diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng trên địa bàn tỉnh đứng trước nguy cơ bị vỡ. Người nuôi tôm đang thấp thỏm và tăng cường gia cố.

Người dân Phong Hải tập trung gia cố đê bao hồ tôm khi bị xói lở ngày 12/10

Xói lở, ngập nước

Lượng mưa quá lớn khiến dòng nước các con khe tại khu vực nuôi tôm xã Phong Hải (huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế) những ngày qua chảy xiết. Điều đáng lo là các con khe này phần lớn chảy song song, ngay dưới chân đê bao các vuông tôm. Nguy cơ xói lở dẫn đến vỡ đê luôn hiển hiện trước mắt.

Ngày 12/10, người nuôi tôm thôn Hải Phú (xã Phong Hải) một phen hú vía khi mưa lớn, dòng nước ngoại lai xâm nhập đê bao khiến 3ha tôm chân trắng tại đây xói lở. Chính quyền địa phương đã huy động nhiều lực lượng để hỗ trợ người dân. Hàng trăm bao cát được tập kết để gia cố tạm thời, góp phần hạn chế thất thoát, thiệt hại.

Anh Phan Văn Thoại (một người nuôi tôm tại xã Phong Hải) bảo rằng, nuôi tôm mùa lũ, người nuôi hồi hộp theo dõi thời tiết, mưa lớn dài ngày nguy cơ đất cát tạo nên hệ thống đê bao bị sụt lún, nếu người nuôi không kiểm tra kịp thời sẽ chảy theo dòng nước đi về phía biển. “Người dân thường chọn những vị trí gần biển để đầu tư nuôi tôm, song đây cũng là vị trí rất dễ dẫn đến tình trạng sạt lở đê bao, vỡ hồ bởi nước biển rất dễ xâm nhập”, anh Thoại nói.

Khi đợt mưa lớn tạm ngưng vào hôm qua (15/10), nhiều người nuôi tôm tại xã Vinh Thanh (huyện Phú Vang) tiến hành gia cố đê bao, kiểm tra hệ thống quạt sục khí oxy sau một thời gian bị chìm trong nước lũ. Ông Nguyễn Thanh An (xã Vinh Thanh) cho biết, sau đợt lũ vừa rồi, tôm nuôi của gia đình ông bị thất thoát rất nhiều. Nước triều dâng cao cộng với nước từ thượng nguồn đổ về khiến toàn bộ diện tích nuôi tôm của ông An chìm trong biển nước. “Vợ chồng tôi tìm cách cứu tôm nhưng không kịp. Không chỉ tôi mà nhiều hộ dân khác cũng rơi vào tình cảnh tương tự”, ông An cho biết.

Ngoài diện tích nuôi tôm, đợt lũ vừa qua khiến hơn 1.400 ha nuôi trồng thủy sản cao triều, thấp triều tại huyện phú Vang bị ngập, gây thiệt hại lớn.

Hiện nay, khi người nuôi tôm chưa kịp khắc phục hậu quả đợt lũ vừa qua, mưa lớn tiếp tục diễn ra, sẽ tiếp tục đối mặt với đợt nguy cơ ngập hồ nuôi. “Đối với những hộ nuôi tôm ven biển như tôi, nếu mưa lớn nước sẽ chảy từ khu vực nuôi về phía biển. Tuy vậy, nguy cơ nước “xiết” chân đập là rất lớn, đó là nỗi lo lắng lớn nhất”, anh Hồ Hữu Châu (người nuôi tôm xã Điền Hòa, huyện Phong Điền) chia sẻ.

Bộ đội giúp dân gia cố đê, bảo vệ hồ nuôi

Hạn chế thấp nhất thiệt hại

Theo Chủ tịch UBND xã Phong Hải – Hoàng Văn Sửu, vụ tôm này, tại địa phương có gần 25ha đưa vào thả nuôi. Đây là vụ chính trong năm nên người nuôi kỳ vọng sẽ có mùa bội thu, song trải qua cơn bão số 5 và đợt lũ vừa qua, người nuôi đang gặp nhều khó khăn. Ngoài yếu kỹ thuật, chuyên môn, thiên tai khiến cơ sở vật chất bị thiệt hại đáng kể. “Chúng tôi phải điều động lực lượng phối hợp với bộ đội biên phòng ứng cứu, hỗ trợ người dân gia cố đê bao. Những năm trước, tại địa phương đã xảy ra tình trạng vỡ hồ do mưa lớn nên đây là nhiệm vụ quan trọng đối với người nuôi tôm bây giờ”, ông Sửu cho hay.

Khắp các địa phương trải dài trên vùng biển địa bàn tỉnh, tình trạng xâm thực đang diễn ra, kè bị nước biển “nuốt” trôi; nước triều dâng cao khiến đê bao thủy sản dường như không có tác dụng. Lãnh đạo xã Vinh Thanh cho rằng, theo dõi diễn biến thời tiết, thường xuyên kiểm tra cơ cở sở vật chất tại những vùng nuôi là cách hạn chế chế thấp nhất thiệt hại. Những vùng nuôi không bị ngập úng, người nuôi cần có phương án bảo vệ cơ sở vật chất hồ nuôi.

Không phải bây giờ mà nhiều năm qua, biến đổi khí hậu trở thành thách thức đối với không chỉ người nuôi tôm. Từng bước thích nghi và sống chung với thiên tai dường như là phương án khả dĩ nhất. Đối với người nuôi tôm, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản tỉnh Phan Thị Thu Hồng bảo rằng, họ cần phải trở thành người nuôi chuyên nghiệp, nghĩa là trong mọi hoàn cảnh phải biết ứng phó. “Sự cố mất điện, xói lở đê bao đã xuất hiện nhiều năm trước. Người nuôi tôm cần lường trước điều đó. Ngoài yếu tố chuyên môn, đầu tư máy phát điện và hình thành một đê thủy sản vững chắc sẽ hạn chế thấp nhất thiệt hại. Với những vùng nuôi có nguy cơ ngập úng, cần thu hồi vốn trước khi thả nuôi vụ mới ngay trong mùa bão lũ, điều đó sẽ tạo nên sự an toàn cho quá trình tái đầu tư”, bà Hồng nói.

Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế

Nuôi ghép tôm sú và rong đỏ

Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Applied Phycology ngày 23/9 về hiệu quả nuôi ghép tôm sú (Penaeus monodon) và rong đỏ (Gracilaria tenuistipitata) với các mật độ khác nhau để thấy được sự ảnh hưởng đến chất lượng nước, hiệu suất hậu ấu trùng và khả năng chống lại Vibrio parahaemolyticus của chúng.

Việc tích hợp rong biển (các loài khai thác, ít dấu chân) vào các hệ thống NTTS đã được coi là một cách tiếp cận thay thế cho sự phát triển bền vững của ngành tôm, nhằm mở rộng theo hướng thân thiện với môi trường. Hai thí nghiệm liên tiếp được thực hiện để đánh giá ảnh hưởng của việc tích hợp các mật độ khác nhau của tôm sú (Penaeus monodon) post – ấu trùng (PL) và rong đỏ (Gracilaria tenuistipitata) đến chất lượng nước và năng suất tôm trong giai đoạn ương.

Thử nghiệm đầu tiên bao gồm thiết kế mật độ nuôi kết hợp theo tỷ lệ 3×4: với ba mức độ nuôi tôm mật độ (1.000; 2.000 và 3.000 PL/m3) và bốn mức mật độ thả rong biển đỏ (0, 1, 1,5 và 2 kg/m3) được phân bổ ngẫu nhiên trong bể ba lần trong 30 ngày. Tôm PL (với trọng lượng trung bình 0,012 ± 0,002 g và chiều dài 1,12 ± 0,09 cm) và rong biển đỏ được nuôi trong bể 150 L ở độ mặn 15 g/l (15‰). Tác động hiệp đồng đáng kể giữa mật độ tôm và rong biển đã được quan sát đối với hàm lượng nitơ tổng số NO3 (TN) và PO43−, cũng như đối với tỷ lệ sống (p <0,05) và sản lượng của tôm (p <0,01).

Sự kết hợp của tôm và rong biển đỏ làm giảm đáng kể nồng độ nitơ và phốt pho trong bể nuôi và tăng cường tỷ lệ sống và tăng trưởng của tôm. Đặc biệt, mật độ nuôi tăng dẫn đến năng suất tăng trưởng kém hơn nhưng sản lượng được nâng cao. Áp dụng mật độ thả 1.000 và 2.000 PL/m3 thu được kích thước tôm lớn hơn, trong khi mật độ 3.000 PL/m3 đạt sản lượng sản xuất cao nhất trong hệ thống tích hợp.

Trong thử nghiệm thứ hai, sau thử nghiệm tăng trưởng 30 ngày, chất lượng tôm được đánh giá thông qua thử nghiệm ngâm nước bằng cách sử dụng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây bệnh (nồng độ 2×108CFU/ml) trên các nhóm tôm được thả trước đó với mật độ 3.000 PL/m3 và tích hợp với các số lượng rong biển khác nhau. Sau 14 ngày thử thách, tỷ lệ chết tích lũy trong hệ thống nuôi độc canh trung bình là 75,6%, cao hơn đáng kể (p <0,05) so với các nhóm nuôi ghép (17,8 – 31,1%).

Kết luận, việc tích hợp tôm sú và rong đỏ đã cải thiện chất lượng nước bể nuôi cũng như tỷ lệ sống và tăng trưởng của tôm; đồng thời tăng cường hoạt tính kháng khuẩn của tôm chống lại sự nhiễm Vibro parahaemolyticus trong giai đoạn ương.

Ngọc Ngọc

Nguồn Applied Phycology – http://contom.vn/

Men tiêu hóa cho đường ruột tôm khỏe

men vi sinh cho tôm
Bio bactil là men vi sinh chứa nhiều vi sinh vật có lợi, nhằm hỗ trợ hoạt động của đường ruột tôm.

Hệ vi sinh vật đường ruột cũng có thể được coi là một thành phần trong cơ thể tôm, và hơn thế đây là một thành phần vô cùng quan trọng.

Vì sự ổn định của chúng sẽ quyết định hiệu quả của quá trình tiêu hóa, tiến trình hấp thu các chất dinh dưỡng, cộng thêm việc cải thiện hệ miễn dịch của tôm, góp phần hạn chế sự gây hại của mầm bệnh.

Tác động tích cực của Bio bactil

Bio bactil là men vi sinh chứa nhiều vi sinh vật có lợi, nhằm hỗ trợ hoạt động của đường ruột tôm. Trong không gian sống chật hẹp ở đường ruột, ngoài lợi khuẩn, thì còn có sự hiện diện của rất nhiều vi khuẩn có hại, chờ thời cơ để gây bệnh. Nhưng nếu đường ruột được bổ sung một lớn các vi sinh vật có lợi, chúng sẽ cạnh tranh về vị trí bám và dinh dưỡng với các vi sinh vật có hại. Từ đó, ức chế được sự phát triển quá mức của hại khuẩn, phòng trị các bệnh đường ruột tôm, nhất là bệnh phân trắng.

Những vi sinh vật có lợi khi được hấp thu vào đường ruột, sẽ sản xuất một số enzyme như amylase, protease, các vitamin B, K, kích thích nhanh quá trình tiêu hóa, hỗ trợ việc phân giải các hợp chất phức tạp, giúp cho sự hấp thu dinh dưỡng diễn ra một cách dễ dàng hơn, giảm đáng kể hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR). Hoạt động của vi sinh vật có lợi này cũng sẽ giúp thành ruột tôm trở nên vững chắc, là một hàng rào bảo vệ kiên cố cho các thành phần bên trong.

Lợi khuẩn đường ruột sẽ cải thiện hoạt động hệ miễn dịch của tôm. Cơ chế này diễn ra khi các vi sinh vật có lợi vào trong đường ruột, hệ miễn dịch tôm sẽ lầm tưởng chúng là những mầm bệnh thực thụ, sau đó một loạt các phản ứng được hệ miễn dịch đáp ứng lại, nhằm tiêu diệt những mầm bệnh giả này. Điều này cũng làm nhiều thành phần của hệ miễn dịch được huy động cùng một lúc. Đến khi mầm bệnh thật gây hại, thì hệ miễn dịch của tôm đã ở vào tư thế “sẵn sàng chiến đấu”, đối đầu với mầm bệnh với nhiều thành phần cùng nhau hợp sức.

Đặc trưng của Bio bactil

Men Bio bactil chứa chủng vi khuẩn Bacillus sp, làm tăng hoạt tính và khả năng hoạt động của các enzyme tiêu hóa. Những lợi khuẩn này còn có thể trực tiếp tiết các chất diệt khuẩn như bacteriocin của dòng Lacto acidophilus, hay tạo ra môi trường bất lợi cho sự sống của hại khuẩn bằng việc thay đổi pH đường ruột. Thành phần của Bio bactil đều ở dạng tiềm sinh với mật độ cao và khi được vào trong đường ruột, chúng sẽ hoạt động trở lại một cách mạnh mẽ.

Ngoài ra, Bio bactil còn có chứa một số thành phần đặc biệt để hỗ trợ men, giúp hệ vi sinh vật được bổ sung làm việc nghiêm túc hơn, chính những chất này cũng sẽ giúp các enzyme bền hơn, hoạt động mạnh hơn trong đường ruột, nâng cao khả năng kháng khuẩn của các chất được lợi khuẩn tiết ra. Tất cả những thành phần này sẽ bổ trợ lẫn nhau, với mùi men đặc trưng, khi trộn vào thức ăn sẽ thu hút sự bắt mồi của tôm hơn. Tôm ăn mạnh và ổn định tiêu hóa hơn.

Để Bio bactilcho hiệu quả cao hơn

Ngay từ đầu vụ nên cho ăn Bio bactil mỗi ngày 2 cử sáng trưa, liều lượng 2-3gr/kg thức ăn, hòa đều vào nước, như vậy sẽ duy trì được một đường ruột khỏe, phòng được các trường hợp tôm mắc bệnh về đường tiêu hóa. Với những sản phẩm men tiêu hóa khác, vì mật độ vi sinh thấp nên chỉ có hiệu quả phòng từ xa bằng việc cho ăn định kỳ. Còn Bio bactil với mật độ vi sinh vật dày đặc không chỉ phòng bệnh, mà còn có hiệu quả cao ngay khi tôm đã xuất hiện các triệu chứng phân trắng, phân lỏng, phân đứt khúc, tạo nên môi trường thuận lợi cho đường ruột tôm khỏe mạnh. 

Trong 3 ngày đầu khi thấy trong ao xuất hiện phân trắng, trước hết nên giảm lại lượng thức ăn khoảng 20%, kết hợp với các biện pháp cải tạo môi trường. Sau đó tăng liều Bio bactil gấp 2-3 lần mức bình thường (8-10gr/kg thức ăn) ở tất cả các cử ăn. Phân trắng sẽ giảm 99% sau 3 ngày, bắt đầu canh lại thức ăn và giảm liều xuống mức bình thường. Đặc biệt, sau khi tôm lột vỏ cũng cần bổ sung ngay men tiêu hóa đường ruột Bio bactil trong 3-4 cử ăn đầu tiên, để tạo tiền đề cho tôm hồi phục lại sức khỏe, góp phần cho một vụ nuôi thành công.

Phòng kỹ thuật An Bình – https://tepbac.com/