Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Tin Tức Ngành

Muốn có thương hiệu phải có đủ tôm sạch

Muốn có thương hiệu phải có đủ tôm sạch

Nuôi tôm
Vùng nuôi tôm công nghệ cao cung cấp nguyên liệu đạt chuẩn quốc tế.

“Thương hiệu chỉ hình thành trên nền tảng có đủ tôm sạch, dễ truy xuất, có chứng nhận quốc tế và đây được xem là điểm cốt lõi, tạo ra sự khác biệt để xây dựng thương hiệu nhanh nhất”. Và đó cũng là lý do các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu tôm khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong những năm gần đây, ráo riết, chủ động đầu tư xây dựng vùng nuôi tôm cho riêng mình.

Tùy theo điều kiện và năng lực của mình, các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu tôm ở Sóc Trăng chọn cho mình một hình thức đầu tư vùng nguyên liệu khác nhau như: thuê đất, mua đất để nuôi; liên kết với các tổ hợp tác (THT), hợp tác xã (HTX) đầu tư, tiêu thụ tôm nuôi đạt chuẩn quốc tế, tôm sạch không nhiễm kháng sinh hay chất cấm… Tuy cách làm mỗi doanh nghiệp có khác nhau, nhưng đến thời điểm hiện tại, những doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu tôm lớn như: Stapimex, Sao Ta, Vinacleanfood, Tài Kim Anh, Khánh Sủng… đều đã xây dựng cho riêng mình vùng nuôi tôm dễ truy xuất nguồn gốc, đạt chứng nhận quốc tế rộng hàng trăm héc-ta.

Theo các doanh nghiệp trên, chỉ có xây dựng được vùng nuôi tốt, đạt chứng nhận quốc tế, mới chứng minh được với khách hàng về nguồn gốc, chất lượng, an toàn thực phẩm. Khi đó, sản phẩm mới vào được những hệ thống phân phối lớn, có giá tốt và ổn định. Do đó, tất cả những vùng nuôi của các doanh nghiệp Sóc Trăng đều ứng dụng quy trình, công nghệ nuôi tôm sạch, nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao và thực hành nuôi theo các chuẩn quốc tế như: ASC, BAP… Đây được xem là xu thế tất yếu đối với doanh nghiệp, nhằm hạn chế rủi ro thị trường, bán được giá cao, khẳng định uy tín với khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi xây dựng thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường thế giới.

Hiện nay, bên cạnh vùng nuôi tôm công nghiệp 190ha đã hoạt động ổn định và có hiệu quả 7 năm nay, Công ty Sao Ta đang chuẩn bị đưa khu nuôi mới vào hoạt động ở vụ nuôi năm 2020 khoảng 90ha để có thể chủ động khoảng 30% tôm nguyên liệu có các chứng nhận quốc tế, như: ASC, BAP… Còn Công ty Cổ phần Thủy sản sạch Việt Nam (Vinacleanfood) cũng có vùng nuôi tôm riêng trên 100ha đạt chứng nhận ASC và đang tiếp tục mở rộng thêm. Không chỉ tự xây dựng vùng nuôi, Vinacleanfood còn ký kết hợp đồng liên kết chuỗi giá trị tôm đạt chứng nhận ASC, hoặc tôm sạch không dư lượng chất cấm với các HTX trong tỉnh. Tương tự, các doanh nghiệp như: Khánh Sủng, Stapimex, Út Xi cũng tự đầu tư vùng nuôi đạt chuẩn quốc tế và hợp đồng liên kết tiêu thụ sản phẩm đạt chứng nhận ASC với THT, HTX trong tỉnh.

Không chỉ các doanh nghiệp Sóc Trăng, các doanh nghiệp tại những tỉnh có vùng nuôi tôm lớn như: Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang… cũng đều xây dựng vùng nuôi riêng thông qua việc thuê đất, hoặc hợp đồng liên kết với các HTX, THT để đầu tư nuôi tôm đạt chuẩn quốc tế. Tại tỉnh Cà Mau, tận dụng điều kiện tự nhiên đặc thù, các doanh nghiệp đã liên kết với người dân thực hiện các mô hình nuôi tôm sinh thái hay tôm hữu cơ theo hình thức tôm – rừng hay tôm – lúa.

Ông Đặng Ngọc Sơn – Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần chế biến thủy sản và xuất nhập khẩu Cà Mau cho biết: “Ngay từ năm 2000, Camimex đã đầu tư vùng nuôi và đạt chứng nhận tôm sinh thái. Không chỉ được tiêu thụ với giá cao hơn 20%, sản phẩm tôm sinh thái của Camimex còn giúp tạo lập nên thương hiệu riêng cho công ty trên thị trường thế giới. Hiện Camimex đang hợp tác với một doanh nghiệp của Israel triển khai nuôi tôm công nghệ RAS năng suất cao, nhưng rất thân thiện với môi trường”. Nhắc đến con tôm sinh thái hay tôm hữu cơ không thể không nhắc đến Tập đoàn thủy sản Minh Phú, một đơn vị tiên phong trong việc phát triển vùng nuôi tôm – rừng đạt các chứng nhận sinh thái, hữu cơ và đang phát triển rộng ra mô hình tôm hữu cơ với chủ yếu là tôm – lúa.

Theo ông Võ Văn Phục – Tổng Giám đốc Vinacleanfood, việc đầu tư vùng nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao, đạt chứng nhận quốc tế không chỉ giúp doanh nghiệp chứng minh được nguồn gốc, chất lượng và sự an toàn vệ sinh thực phẩm của sản phẩm, mà còn giúp nâng cao uy tín doanh nghiệp với các nhà nhập khẩu, người tiêu dùng, từ đó, giúp cho việc xây dựng thương hiệu tôm của doanh nghiệp ngày một tốt hơn. Ngoài ra, việc tự đầu tư nuôi tôm cũng được doanh nghiệp xác định là hướng làm kinh tế rất hiệu quả, làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp từ đó giúp tăng thu nhập cho người lao động.

Tuy nhiên, theo các doanh nghiệp, muốn có vùng nguyên liệu đạt chứng nhận quốc tế cần có diện tích lớn, nguồn vốn đầu tư dồi dào, trong khi nguồn lực của doanh nghiệp thì có hạn. Do đó, để có đủ nguồn nguyên liệu đạt chứng nhận quốc tế, dễ truy xuất nguồn gốc nhằm phục vụ cho mục tiêu xây dựng thương hiệu doanh nghiệp, tiến tới xây dựng thương hiệu tôm quốc gia, Chính phủ và các bộ, ngành nên có chính sách khuyến khích nuôi trang trại, nuôi kết hợp trong THT, HTX… Các địa phương cần có quy hoạch vùng nuôi cụ thể và nên có quỹ đất sạch xây dựng các dự án nuôi tôm kêu gọi nhà đầu tư.

Tích Chu Báo Sóc Trăng
Đăng ngày: 11/12/2019

Một số thảo dược mới trong nuôi tôm

Thảo dược đóng vai trò là chất kích thích tăng trưởng, tăng cường miễn dịch, có hoạt tính kháng khuẩn và kháng nấm. Ngoài ra, thảo dược còn được nhận định có thể sử dụng thay thế cho kháng sinh dùng trong nuôi trồng thủy sản. Cao chiết thảo dược cũng được đánh giá hiệu quả trong ức chế tác nhân gây bệnh trên tôm.

Củ riềng

Cao chiết củ riềng (Alpinia galanga) được xác định có khả năng ức chế sự phát triển của V. parahaemolyticus (Chaweepack et al., 2015). Cao chiết có chứa 1′-acetoxyeugugenol acetate là thành phần có thể ức chế sự phát triển của một số vi khuẩn gram dương như Staphylococcus cerevisiaeS. epidermidisS. aureus và Bacillus cereus (Oonmetta-aree et al., 2006). Nghiên cứu của Canillac và Mourey (2001) ghi nhận 8 loài Vibrio spp. nhạy cảm với cao chiết củ riềng, trong đó có V. harveyi.

 

Quả sim

Khả năng diệt khuẩn của dịch chiết lá sim và dịch chiết hạt sim (Rhodomyrtus tomentosa) đối với các chủng vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (V. parahaemolyticus) cũng được xác định là hiệu quả trong điều kiện phòng thí nghiệm. Trong đó, dịch chiết hạt sim thể hiện hoạt tính kháng vi khuẩn gây AHPND cao hơn so với dịch chiết lá sim (Đặng Thị Lụa và ctv., 2015).

 

Cỏ gà

Hoạt tính kháng virus của cao chiết cỏ gà Cynodon dactylon đã được thử nghiệm trên trên tôm sú (Penaeus monodon). Kết quả nghiên cứu cho thấy khi bổ sung 2% cao chiết cỏ gà C. dactylon cho tỉ lệ sống 100% (Balasubramanian et al., 2008).

 

Đậu dầu

Rameshthangam và Ramasamy (2007) ghi nhận việc bổ sung bis (2-metylheptyl) phthalate được chiết xuất từ lá cây đậu dầu (Pongamia pinnata) đã làm tăng tỷ lệ sống của tôm sú (Penaeus monodon) khi gây nhiễm WSSV, với mức bổ sung 200 và 300 µg cao chiết tương ứng với tỉ lệ sống 40% và 80%.

 

Gừng

Chang et al. (2012) bổ sung chiết xuất từ gừng vào khẩu phần ăn của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) trong 56 ngày cũng giúp kích thích tăng trưởng và tăng tỷ lệ sống của tôm. Nghiên cứu của Bhavan et al. (2014) cũng ghi nhận kết quả tương tự khi bổ sung cao chiết Syzygium cumini và Phylanthus emblica vào thức ăn ấu trùng tôm Macrobrachium malcolmsonii trong 45 ngày. Kết quả cho thấy hoạt tính enzyme tiêu hóa và tốc độ tăng trưởng của tôm được cải thiện đáng kể.

Nguyễn Hằng (Tổng hợp)

Theo http://contom.vn/ đăng ngày 11/09/2019

Nhập khẩu tôm Mỹ trong tháng 10 với giá trị giảm

Nhập khẩu tôm Mỹ trong tháng 10 với giá trị giảm

Bởi Jason Smith ngày 12 tháng 12 năm 2019 19:43 GMT

Frozen cooked shrimp, peeled, tail on. Credit: Sergiy Palamarchuk/Shutterstock.com

Tôm chín đông lạnh, bóc vỏ, đuôi.

Tổng nhập khẩu tôm của Hoa Kỳ theo khối lượng giảm trong tháng 10 chủ yếu là do nhập khẩu thấp hơn từ Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam, thống kê nhập khẩu của Hoa Kỳ cho thấy.

Nhưng các lô hàng tăng từ Ecuador, Mexico và Argentina chủ yếu tạo ra sự khác biệt và nhập khẩu trong tháng 10 không thay đổi so với năm trước với 74.370 tấn nhập khẩu, chỉ giảm 0,4%.

Trong 10 tháng đầu năm 2019, số liệu thống kê được công bố từ Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia Hoa Kỳ cho thấy tổng nhập khẩu tôm của Mỹ đã tăng 0,88%, lên 569.334 tấn.

Theo giá trị, 74.370 tấn tôm mà Mỹ nhập khẩu vào tháng 10 năm 2019 trị giá 658,6 triệu đô la. Con số này so với 74.691 tấn được nhập vào tháng 10 năm 2018 trị giá 677,7 triệu đô la, giảm 2,8%.

Giá trung bình mỗi kg trong tháng 10 năm 2019 là 8,86 đô la / kg, so với mức 9,07 đô la / kg một năm trước đó.

 

Thống kê cho thấy Trung Quốc xuất khẩu tôm ít hơn đến Mỹ vào tháng 10 năm 2019, chỉ 1.300 tấn, giảm 66% so với cùng kỳ. Khối lượng từ Thái Lan (5.089t) và Việt Nam (7.176t) cũng giảm 16%.

Nhập khẩu tôm Mỹ, tháng 1-10 / 2019

Quốc gia Ngày 18 tháng 10 Ngày 19 tháng 10 THÁNG 10 NĂM 2018 THÁNG 10 NĂM 2019 THÁNG 12 NĂM 2018
Nguồn: NOAA
Ấn Độ 27,861 32,197 203,372 230,547 247,783
Indonesia 12,581 12,678 109,252 107,602 132,317
Ecuador 6,785 6,867 65,212 70,077 75,893
Vietnam 8,573 7,176 47,228 49,301 58,383
nước Thái Lan 6,088 5,089 38,393 33,872 49,686
Mexico 4,785 5,316 15,344 20,472 24,884
Trung Quốc 3,786 1,300 39,972 17,095 50,814
Argentina 1,030 1,272 8,847 10,536 11,033
Peru 873 460 9,163 6,743 10,532
Guyana 51 55 6,142 4,384 7,006
Khác 2,278 1,960 21,407 18,705 27,001
Toàn bộ 74,691 74,370 564,332 569,334 695,332

 

Khối lượng từ Ấn Độ (32.197t), Mexico (5.316t) và Argentina (1.272t) đều tăng, lần lượt là 16%, 11% và 23%.

Nhập khẩu Ấn Độ ngày càng tăng vào Hoa Kỳ phản ánh xuất khẩu tăng mạnh của nước đó. Đầu tháng này, Underciverse News đã báo cáo rằng Ấn Độ đang trên đà đập tan những nghi ngờ và tăng trưởng xuất khẩu tôm vào năm 2019, sau khi sự phục hồi về khối lượng xuất xưởng trong quý thứ ba. 

Theo Bộ Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ, trong ba tháng từ tháng 7 đến tháng 9, Ấn Độ đã xuất khẩu 190.000 tấn tôm đông lạnh, tăng 8% so với quý 3 năm 2018 và tăng 21% so với quý 2 năm 2019.

Khối lượng xuất khẩu của Ecuador sang Mỹ cũng tăng nhẹ, 1%, lên 6.876 tấn trong tháng Mười. Xuất khẩu của đất nước đó đã tăng lên do sự cải thiện vốn trong các trang trại.

Bởi Jason Smith theo undercurrentnews 

 

Giá tôm Ấn Độ khó có thể giảm đến năm 2020

Bởi  ngày 11 tháng 12 năm 2019 09:35 GMT

 

Với nhu cầu của Mỹ không tăng và dự kiến tháng 12 không có dòng nguyên liệu thô lớn,  dự đoán sự ổn định của giá tôm Ấn Độ vào đầu năm sau.

Theo một thương nhân thủy sản, nói với   Underciverse News nhu cầu của của Mỹ là “không quá sôi động” vào lúc này, với số liệu nhập khẩu tổng thể giảm vào tháng 9 năm 2019. Dữ liệu của Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia cho thấy hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ (tính từ đầu năm) là 63.737 tấn trong tháng đó, giảm từ 64.476 tấn.

(Mặc dù, nhập khẩu từ Ấn Độ vẫn tăng 11% so với cùng kỳ năm ngoái, ở mức 27.645 tấn). “Các nhà nhập khẩu Mỹ và Canada dường như đang tập trung vào doanh số bán hàng của họ cho mùa lễ sắp tới”, thương nhân nói.

Một số nguồn tin xác nhận Trung Quốc đang có nhu cầu lớn .

Nguồn tin ban đầu cho biết “Hiện tại hầu hết các nhà sản xuất Ấn Độ quan tâm đến Trung Quốc nhiều hơn, vì người mua Trung Quốc đang đưa ra mức giá hấp dẫn hơn, chuẩn bị cho năm mới của Trung Quốc,” . Ngày lễ  sẽ được tổ chức vào ngày 25 tháng 1. Cập nhật vào tháng 12, ông khẳng định nhu cầu – đặc biệt là từ Trung Quốc – vẫn tốt và giá cả khá ổn định ở một số quốc gia sản xuất, bao gồm cả Ấn Độ.

Một nhà sản xuất Ấn Độ, cho biết ông không hy vọng giá sẽ giảm “vì các nhà máy Trung Quốc tiếp tục mua nguyên liệu thô cho thị trường địa phương của họ và xu hướng này dự kiến ​​sẽ tiếp tục sau Tết”.

Ông cũng nói thêm rằng khối lượng nhập khẩu tôm từ một số công ty lớn nhất của Ecuador của Trung Quốc  hiện đã hoàn toàn đảo ngược vào cuối tháng 11 – ảnh hưởng đến giá mua ở Trung Quốc, “nhưng việc sản xuất tôm có vỏ, đầu ở Ấn Độ chỉ chiếm một phần nhỏ so với Ecuador, vì vậy nó không phải là người có ảnh hưởng lớn đến giá cả địa phương Ấn Độ “.

Cuối cùng, Durai Murugan, thư ký Hiệp hội Tôm Pattukottai, Tamil Nadu, nói với  Underciverse  có nhu cầu tốt từ các nhà xuất khẩu vào tháng 11, với sự mất giá của đồng rupee Ấn Độ giúp mang lại cho nông dân một mức giá tốt.

“Trong năm tới, chúng tôi mong đợi giá tốt, tôi đang nghe tin tốt từ Trung Quốc khi họ đang thể hiện sự quan tâm tốt đến Tết Nguyên đán”, ông nói. “Giá có thể sẽ ổn định.”

Cuối cùng, một nhà nhập khẩu có trụ sở tại Mỹ đã xác nhận rằng ông dự kiến ​​giá sẽ duy trì ở mức hợp lý.

“Tôi nghĩ rằng giá tổng thể sẽ duy trì ổn định  cho size 21/25 và kích thước nhỏ hơn cho đến vụ mùa hè năm 2020, mà chúng ta có thể mong đợi vào tháng Tư / tháng Năm,” ông nói với  Underciverse . “Chúng tôi có thể thấy giá hơi tăng trở lại vào size 16/20 khi sản lượng hiện tại bắt đầu giảm  vào cuối tháng 12 hoặc đầu tháng 1.

Nguồn cung từ size 13/15 trở lên có  thể tiếp tục thiếu, nhưng ông vẫn không hy vọng giá sẽ tăng nhiều trên các kích cỡ này, ông nói. Tính khả dụng thấp nói chung có thể sẽ bù đắp áp lực giảm giá trong vài tuần tới của nhu cầu xuất khẩu mềm.

“Thị trường ở đây hiện đang ổn định, điều này là bình thường trong thời gian này của năm. Việc mua gần đây vào đầu năm mới của Trung Quốc đã giữ giá nguyên liệu ổn định. Giá chào bán từ các nhà chế biến cũng vẫn ổn định”, ông nói.

Thu hoạch ổn định

Trong khi nhu cầu có vẻ vẫn ổn định, nguồn cung dự kiến ​​sẽ không tăng nhiều, các nguồn tin nói với Underciverse.

“Vụ thứ hai ở Orissa dự kiến ​​sẽ kết thúc vào tháng 12,” thương nhân nói. “Điều đó có nghĩa là chúng tôi phải nhận được nguồn cung từ Andhra Pradesh sau Tết. Về cơ bản, hầu hết các trang trại ở Andhra Pradesh mất 90-110 ngày để thu hoạch và chúng tôi được thông báo rằng việc thu hoạch ở quy mô đầy đủ sẽ bắt đầu vào cuối Tháng 11. Chỉ sau đó chúng ta mới thực sự thấy năng suất sẽ như thế nào. ”

Ở bờ biển phía tây Ấn Độ – đặc biệt là Gujarat – đã có báo cáo về các vấn đề chất lượng nước, mặc dù thương nhân này chưa thấy tác động đáng kể nào từ việc này cho đến nay, ông nói thêm.

Giá nông trại ở bang này đã chứng kiến ​​xu hướng tăng trên các kích cỡ lớn hơn và “xu hướng giảm nhẹ trên tôm nhỏ hơn”, vào tháng 11, ông nói. Phát biểu lại vào tháng 12, ông cho biết giá của Gujarat vẫn ổn định và thu hoạch đang tăng, nhưng vẫn chưa hoàn toàn ổn định.

Ở Andhra Pradesh, sau khi giảm giá , họ dường như đã ổn định trở lại. “Chúng tôi đã thấy mức tăng 30 INR trên size 20, trong khi giá cho phần còn lại (size 30  trở xuống) không đổi”, thương nhân này cho biết vào tháng 11.

Ông cho biết  vào tháng 12. ” Size trung bình đang được thu hoạch là khoảng 40-70. Rất hiếm khi thấy size  20-25 vì nông dân đang tránh những rủi ro liên quan đến việc nuôi tôm với kích cỡ lớn hơn.” Giá cả ở đây đang cho thấy một xu hướng tăng trên hầu hết tất cả các kích cỡ.

“Xu hướng tăng giá cũng đang diễn ra ​​ở Tây Bengal.”

Như có thể thấy  giá năm 2019 ở Andhra Pradesh đã ổn định hơn trong năm nay, nhưng thấp hơn so với năm 2017 – và so với năm 2018, đối với các phần của năm:

Các thương nhân cũng nói rằng trong khi giá Ấn Độ đã tăng một chút trong tháng 12, nhưng vẫn thấp hơn ở Việt Nam và “thậm chí cả Indonesia”, đặc biệt là đối với size 60. 

Tại hội nghị Infofish gần đây  tại Bangkok , Thái Lan, Anil Kumar, giám đốc điều hành của Cơ quan Phát triển Xuất khẩu Hàng hải (MPEDA),  cho biết ông đã ngạc nhiên khi  thấy sự mạnh mẽ của sản xuất tôm của Ấn Độ mặc dù giá tôm toàn cầu thấp.

Ghi nhận sự bi quan về triển vọng của Ấn Độ trong nửa đầu năm 2019, Kumar nói: Mọi người đều dự đoán rằng giá đã giảm từ năm ngoái, có tin đồn về rất nhiều bệnh ở đó, nhưng tin tốt là thực sự dữ liệu cho thấy sản xuất đã đi lên. ”

Ấn Độ đang trên đà đánh bại những  nghi ngờ và tăng trưởng xuất khẩu tôm vào năm 2019 , sau khi sự phục hồi về khối lượng xuất xưởng trong quý thứ ba, số liệu mới nhất của Ấn Độ cho thấy.

Một nhà sản xuất Ấn Độ, đã lưu ý vào tháng 11 rằng nguồn cung của Ấn Độ đã yếu trong chín tháng qua, “với giá liên tục tăng cao hơn, mặc dù chúng tôi thấy trong hai tuần qua giá đã bắt đầu hạ nhiệt”.

Nhưng, ông nói, không có đủ nguyên liệu để  giảm giá lớn.

“Thu hoạch từ vụ thứ hai đã bắt đầu nhưng với mật độ thấp do lo ngại vì sợ bệnh, chúng tôi không mong đợi nguồn cung tăng mạnh, và một lần nữa, nhu cầu ở Trung Quốc cùng với việc xuất khẩu thường xuyên sang Mỹ sẽ giữ giá nguyên liệu ổn định. “

Ông nói thêm “Mở rộng năng lực sản xuất – nhiều trong số đó là liên doanh không có sự tăng trưởng thực sự về sản lượng nông nghiệp từ đầu năm đến nay – sẽ giữ giá ổn định, mặt khác là sự khuyến khích tốt cho nông dân, chủ yếu là vừa và nhỏ kích thước để liên tục mở rộng diện tích đất canh tác của họ.

Murugan nói thêm rằng giá cả có thể sẽ ổn định vì phần lớn các vụ thu hoạch gần như đã kết thúc ở Tamil Nadu, và nông dân ở đó sẽ thả lại vào tháng Hai.

“Giá đang giữ vững ở size 40 và 30 . Hầu hết các hàng có sẵn ở thị trường Ấn Độ là khoảng size 70 đến 50.”

Theo      undercurrentnews

 

Đầu tư lớn cho nuôi tôm công nghệ cao

Đầu tư lớn cho nuôi tôm công nghệ cao

Đo size tôm.
Tôm nuôi theo mô hình công nghệ cao rất nhanh lớn, lớn đều, và cho năng suất cao.

Tỉnh Đồng Nai đã có kế hoạch đầu tư hàng trăm tỷ đồng xây dựng mô hình nuôi thuỷ sản tập trung áp dụng công nghệ cao.

Theo khảo sát và đánh giá của Chi cục Thủy sản Đồng Nai, điều kiện môi trường, chất lượng nguồn nước ở khu vực huyện Nhơn Trạch rất phù hợp với con tôm. Nhưng do lâu nay người dân vẫn nuôi theo phương pháp truyền thống nên năng suất không cao, rủi ro cao về dịch bệnh con tôm do nguồn nước ô nhiễm.


Kiểm tra nguồn nước trong ao ươm tôm giống.

Đến năm 2016, một số hộ dân bắt đầu liên kết với danh nghiệp, phát triển mô hình nuôi tôm theo hướng công nghệ cao. Kết quả đạt được ngoài mong đợi khi năng suất cao hơn gấp nhiều lần cách nuôi truyền thống. Khi liên kết với doanh nghiệp, người nuôi tôm được khuyến cáo chia nhỏ diện tích ao nuôi để dễ quản lý.


Một trong những mô hình nuôi tôm lót bạt đáy ao, áp dụng công nghệ cao ở xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai.

Đồng thời, ngoài ao nuôi, còn phải có áo ươm giống, ao lắng để đảm bảo chất lượng nguồn nước. Mặc dù thu hẹp diện tích nuôi, nhưng vẫn không giảm doanh thu, mà trái lại. Nguyên do, nuôi đúng kỹ thuật, tôm nhanh lớn hơn, mật độ thả giống dày hơn, năng suất cao hơn và số vụ nuôi một năm cũng tăng gấp 2 lần. Chính vì vậy, với mô hình này, người nuôi sẽ tăng được lợi nhuận và quan trọng hơn là họ không còn phải lo lắng về dịch bệnh.

Ông Nguyễn Văn Nhân, cán bộ Phòng Kinh tế huyện Nhơn Trạch cho biết: “Nếu trước đây, nuôi tôm theo phương pháp truyền thống, trên diện tích 01 ha, nông dân sẽ dành 70% diện tích nuôi và 30% diện tích còn lại dùng để xử lý nước. Song bằng phương pháp nuôi công nghệ cao hiện nay thì hoàn toàn ngược lại, nông dân sẽ dành đến 70% diện tích để xử lý nước nguồn nước và chỉ nuôi trên diện tích 30%”.

Theo ông Nhân, với sự chuyển đổi này, năng suất tôm mỗi vụ thu hoạch cao gấp 3-4 lần so với nuôi ao đất. Trung bình mỗi năm, mô hình này có thể nuôi được từ 4 vụ chứ không chỉ làm được 2 vụ như cách nuôi truyền thống. Rủi ro dịch bệnh cũng được kiểm soát tốt hơn.

“Từ khi áp dụng mô hình nuôi theo hướng công nghệ cao, hiệu quả mang lại khá rõ rệt. Từ vài hộ ban đầu, nay đã có gần 3 chục hộ nuôi tôm công nghệ cao, diện tích nuôi tăng lên 56,5ha, lợi nhuận ước đạt gần 2 tỷ đồng/ha.

Để phát triển nghề nuôi tôm theo hướng bền vững, Sở NN-PTNT tỉnh Đồng Nai đã ban hành Kế hoạch hành động phát triển ngành tôm tỉnh Đồng Nai đến năm 2025.

Theo đó, mục tiêu chung là nhằm phát huy lợi thế, tiềm năng thúc đẩy lĩnh vực thủy sản của tỉnh, trong đó ngành tôm phát triển mạnh theo hướng an toàn, sản xuất hàng hóa, áp dụng tiến bộ kỹ thuật hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và bền vững, góp phần tích cực nâng cao thu nhập cho người dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái.

Trong đó, mục tiêu cụ thể là đến năm 2025, phát triển diện tích nuôi tôm càng xanh lên 45 ha, sản lượng 202 tấn; Duy trì diện tích nuôi tôm nước lợ đạt 430 ha, trong đó diện tích khu quy hoạch nuôi tôm tập trung đạt 360 ha, diện tích ngoài quy hoạch 70 ha, sản lượng đạt 19.200 tấn.

Định hướng phát triển của ngành tôm tỉnh Đồng Nai là phát triển các mô hình nuôi tôm công nghệ cao, thân thiện với môi trường nhằm phát triển năng suất, tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, có chất lượng cao; khuyến khích áp dụng sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP.


Ngoài tôm sú, tôm càng xanh cũng đang được nhiều hộ dân ở huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nuôi rất thành công.

Để tổ chức thực hiện, nhiều giải pháp đồng bộ được đưa ra như: Phát triển các mô hình hợp tác, liên kết dựa trên tổ chức lại các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, phân tán thành tổ hợp tác, hợp tác xã để tạo ra vùng sản xuất nguyên liệu lớn, tập trung, làm đầu mối liên kết với các doanh nghiệp cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm theo giá trị; Thu hút doanh nghiệp tham gia đầu tư nuôi tôm theo hướng công nghệ cao, siêu thâm canh; Nghiên cứu, hình thành các doanh nghiệp trong nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm…

Theo Phòng Kinh tế huyện Nhơn Trạch, 9 tháng đầu năm 2019, tổng diện tích nuôi thủy sản ở địa phương trên 1.900ha, trong đó, phần lớn diện tích là nuôi tôm nước lợ, tập trung nhiều ở các xã: Phước An, Đại Phước, Phú Hữu, Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch.

Đầu năm 2018, tỉnh Đồng Nai đã phê duyệt dự án khu nuôi thủy sản tập trung tại huyện Nhơn Trạch giai đoạn từ nay đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Mục tiêu là phát triển mô hình nuôi tôm công nghệ cao theo hướng siêu thâm canh, tôm thành phẩm đạt chuẩn xuất khẩu.

Theo đó, tổng diện tích của dự án là hơn 700ha. Trong đó, vùng nuôi tôm nước lợ ứng dụng công nghệ cao tập trung tại 2 xã Phước An và Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch có diện tích 682ha, 21ha diện tích còn lại dành cho khu nuôi hàu tập trung. Tổng chi phí đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu nuôi thủy sản tập trung ứng dụng công nghệ cao này là hơn 226 tỷ đồng.

HỒNG THUỶ Nông nghiệp Việt Nam
Đăng ngày: 13/12/2019

Đâu là chìa khóa tương lai cho tôm Việt?

Đâu là chìa khóa tương lai cho tôm Việt?

Tôm thẻ
Ngành tôm Việt Nam cần có chiến lược cụ thể để cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Ngành tôm Đông Nam Á nói chung và tôm Việt Nam nói riêng cần có chiến lược để giữ vững vị thế quốc tế khi thế giới đang manh nha xuất hiện nhiều cường quốc tôm mới.

Hướng đi của ngành tôm Đông Nam Á

Sau thời kỳ phát triển mạnh mẽ, ngành nuôi tôm của Đông Nam Á đang gặp nhiểu thử thách bao gồm dịch bệnh, chính sách thương mại của các nước nhập khẩu, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt từ các nước châu Mỹ Latin. Tất cả đều đang cản bước ngành tôm của khu vực Đông Nam Á – vốn là một trong những khu sản xuất tôm lớn nhất thế giới.

Trong thực trạng biến đổi của môi trường cũng như áp lực thương mại hiện nay, Tập đoàn tư vấn Boston (Boston Consulting Group – BCG) đã đưa ra con đường chiến lược để các nhà sản xuất tôm Đông Nam Á giữ được lợi thế cạnh tranh trong thời gian tới.

Để có được dự đoán về xu hướng chuyển đổi sản xuất, BCG đã mất gần 1 năm để thu thập báo cáo của chính phủ, thống kê thương mại và tiếp xúc trực tiếp khoảng 15 – 20 trang trại nuôi tiêu biểu ở mỗi quốc gia để thu thập dữ liệu cho báo cáo.

Sau khi phỏng vấn nhiều nông dân có kinh nghiệm và các nhà nghiên cứu khoa học, BCG đã phát hiện ra sự khác nhau giữa các nhà sản xuất tôm trên nhiều khía cạnh, từ thức ăn, kỹ thuật nuôi đến cách xử lý các vấn đề phát sinh, thật đáng ngạc nhiên khi các quốc gia tương đồng điều kiện tự nhiên nhưng khác biệt rất lớn trên toàn bộ chuỗi sản xuất tôm. Cũng từ đó, mỗi quốc gia Đông Nam Á lại vướng phải những vấn đề khác nhau, BCG đã cố gắng tìm ra giải pháp riêng cho từng nước. Nhưng hướng đi chung vẫn là tập trung chuyển đổi chuyên sâu kỹ thuật canh tác, trong đó trang trại khép kín trong nhà được đề nghị là phương pháp tất yếu để người nuôi duy trì lợi nhuận bền vững.

Hiện tại hình thức nuôi này chưa thật sự phổ biến ở Đông Nam Á, nhưng chắc chắc sẽ trở thành kỹ thuật canh tác phổ biến trong 5 – 10 năm tới khi nuôi tôm truyền thống đang dần bộc lộ nhiều điểm yếu, đặc biệt nhiều rủi ro trong sản xuất và khó thực hiện truy xuất nguồn gốc.

Các công ty nuôi tôm nổi tiếng như Charoen Pokphand Foods của Thái Lan hay Việt – Úc của Việt Nam đã xây dựng hệ thống nuôi tôm trong nhà hiện đại từ năm ngoái. Các tập đoàn khác như CP và Thai Union cũng cho rằng, kỹ thuật nuôi tôm trong nhà đã giải quyết vấn đề khi nguồn cung vướng phải thẻ vàng EU hay các quy định mới về nhập khẩu tôm của Mỹ.

Rất nhiều công ty đang tiếp tục mở rộng quy mô cũng như cải thiện kỹ thuật nuôi khép kín như một lời cam kết cho chất lượng sản phẩm. Chúng ta không hy vọng mô hình nuôi khép kín trong nhà sẽ nhanh chóng đột phá thay thế sản xuất truyền thống trong thời gian ngắn, mà việc chuyển đổi chỉ diễn ra dần dần nhưng liên tục, đây là cách duy nhất để tăng sản lượng và tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế khi cuộc chiến giành thị phần tôm ngày càng trở nên khốc liệt.

Truy xuất nguồn gốc – chìa khóa của ngành tôm Việt Nam

Trong báo cáo BCG cũng nhấn mạnh rằng, chìa khóa tương lai của tôm Việt chính là truy xuất nguồn gốc. Với thế trận hiện nay, bất kỳ nhà cung cấp nào thực hiện tốt truy xuất nguồn gốc sẽ có sức cạnh tranh vô cùng mạnh mẽ. Chúng ta không nhắc nhiều đến việc sản phẩm tôm truy xuất nguồn gốc đang có giá bán cao hơn hẳn tôm bình thường, vì truy xuất nguồn gốc trong tương lai sẽ trở thành chuẩn mực tất nhiên và giá cả sẽ không còn là lợi thế. Mà lợi ích lâu dài của việc đạt được truy xuất nguồn gốc tôm nhanh chóng chính là giúp người tiêu dùng phân biệt tôm Việt Nam với các nước cung ứng khác, đây là cơ hội nghìn vàng để nhận dạng thương hiệu và tạo nên thói quen lựa chọn của người tiêu dùng.

Có hai vấn đề cần giải quyết để Việt Nam thực hiện truy xuất nguồn gốc tôm. Một là về sản xuất: cần áp dụng các mô hình nuôi như biofloc hoặc hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn khác, kỹ thuật nuôi khép kín, nuôi trong nhà… khi đó các trang trại có thể dễ dàng truy xuất nguồn gốc, cũng như tăng đáng kể tỷ suất lợi nhuận. Hai là vấn đề thu mua, cần tạo điều kiện cho nông dân bán trực tiếp tôm đến nhà máy chế biến mà không cần qua thương lái trung gian, đây thực sự là vấn đề nan giải vì thương lái đã trở thành mắc xích quen thuộc và quan trọng trong ngành. Kết quả của đường đua truy xuất nguồn gốc có thể sẽ quyết định cục diện của ngành tôm thế giới, vì vậy, Việt Nam nhất định phải có chiến lược cẩn trọng, đúng đắn và nhanh chóng.

Ngoài ra, tôm Việt Nam đối mặt thêm nhiều vấn đề khác như năng suất tương đối thấp, thẻ vàng EU ảnh hưởng đến xuất khẩu. Thực tế, chúng ta đang phải vật lộn để cạnh tranh với Ấn Độ và Indonesia về sản lượng lẫn giá cả. Theo dự đoán của BCG thì ở mức tăng trưởng hiện tại, Indonesia và Ấn Độ sẽ đạt được sản lượng 900.000 tấn và 1,4 triệu tấn vào năm 2025. Trong khi đó Việt Nam với tốc độ tăng trưởng hàng năm thấp hơn đáng kể khoảng 2% thì ước tính chỉ đạt 630.000 tấn trong cùng thời gian. Nếu Việt Nam có mức tăng trưởng tương đương Indonesia và Ấn Độ thì có thể tăng thêm đến 65% sản lượng vào năm 2025, tương đương với tăng khoảng gia tăng 300 triệu USD.

Một rào cản nữa mà Việt Nam phải quyết tâm vượt qua chính là vấn đề sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm, tỷ lệ tôm Việt Nam bị từ chối nhập khẩu vào các thị trường thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản cao hơn rõ rệt so với các đối thủ.


Số lượng tôm Việt Nam bị từ chối nhập khẩu so với các nước khác ở từng thị trường.

Báo cáo của BCG cũng nhắc Việt Nam cần được lưu ý và cải thiện dinh dưỡng cho tôm. Thức ăn tôm ở Việt Nam hiện nay không bắt kịp các nước đối thủ, cần phải lưu ý sử dụng thức ăn thúc đẩy tăng trưởng và tăng cường sức khỏe tôm nuôi. Mặc dù chi phí đầu tư sẽ cao hơn nhưng cũng sẽ kéo theo tỷ suất lợi nhuận cũng sẽ tăng.

Tóm lại, theo BCG thì ngành tôm Việt Nam cần lưu ý những vấn đề sau để giữ được sức cạnh tranh trong thời gian tới:
1. Chuyển đổi mô hình từ nuôi truyền thống sang nuôi trong hệ thống nuôi tuần hoàn, áp dụng kỹ thuật nuôi trong nhà, nuôi khép kín.
2. Tăng tốc độ tăng trưởng của ngành.
3. Thực hiện nhanh chóng và hiệu quả truy xuất nguồn gốc.
4. Kiểm soát kháng sinh trong nuôi trồng.
5. Cải thiện chất lượng thức ăn về khía cạnh tăng trưởng và tăng cường sức khỏe tôm nuôi.

Theo Dan Gibson

2019 có thể là năm thứ 4 xuất siêu liên tiếp của Việt Nam

Tôm đông lạnh
Sản phẩm tôm xuất khẩu.

Với mức xuất siêu cao kỷ lục 9,12 tỷ USD trong 11 tháng và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tăng 7,8% so với cùng kỳ năm ngoái, các chuyên gia thương mại dự kiến năm 2019 là năm xuất siêu thứ 4 liên tiếp của Việt Nam.

Đặc biệt, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ hoàn thành mục tiêu đề ra là đạt mức tăng trưởng tăng 7 – 8% so với năm 2018, kiểm soát nhập siêu dưới 3% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Mở rộng quy mô

Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết: Mặc dù còn 1 tháng nữa mới kết thúc năm 2019 song kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đã hoàn thành 91,8% so với mục tiêu đề ra từ đầu năm. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu ước tính đạt 232,31 tỷ USD, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2018.

Cụ thể, trong tháng 11, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 22,6 tỷ USD, giảm 6,7% so với tháng 10 nhưng lại tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2018.

Đáng lưu ý, kim ngạch xuất khẩu của khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước tăng 25,8% so với cùng kỳ, đạt 7,5 tỷ USD; khối doanh nghiệp FDI có kim ngạch xuất khẩu đạt 15,1 tỷ USD (bao gồm cả dầu thô), giảm 4,5% so với cùng kỳ.

Theo Cục Xuất Nhập khẩu, nếu tính chung 11 tháng, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 241,42 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2018.

Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước đạt 74,72 tỷ USD, tăng 18,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 166,7 tỷ USD, tăng 3,8% so với cùng kỳ.

Không những thế, tỷ trọng của khối doanh nghiệp trong nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu chung cũng tăng lên mức 30,95% so với 29,16% của 11 tháng năm 2018.

Ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong tháng 11 đạt 22,5 tỷ USD, tăng 0,6% so với tháng 10/2019 và 4,5% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 11 tháng, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt 232,308 tỷ USD, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 98,2 tỷ USD, tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 134,1 tỷ USD, tăng 3,1%.

Nhận định từ giới phân tích cho thấy: Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, các nước nhập khẩu ngày càng siết chặt hàng rào phi thuế quan, bảo hộ trong nước gia tăng, việc Việt Nam tiếp tục duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu khả quan và xuất siêu kỷ lục cho thấy hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành và khai thác, tận dụng tốt các cơ hội mang lại nhằm thúc đẩy xuất khẩu.

Ông Trần Thanh Hải-Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu cho hay: Tính đến hết tháng 11 đã có 32 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (8 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD và 5 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD).

Những mặt hàng dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu tiếp tục là điện thoại các loại và linh kiện, hàng dệt và may mặc, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, giày dép các loại.

Hơn nữa, khối doanh nghiệp trong nước tiếp tục là điểm sáng trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam với mức tăng 18,1%, cao hơn 2 lần so với tốc độ tăng trưởng chung cả nước và cao hơn gần 5 lần so với tốc độ tăng trưởng của khối doanh nghiệp FDI (kể cả dầu thô – đạt 3,8%).

Qua đó, tỷ trọng của khu vực kinh tế trong nước tiếp tục xu hướng tăng lên, chiếm 30,95% tổng kim ngạch xuất khẩu (cùng kỳ năm trước là 29,16%).

Cũng theo ông Trần Thanh Hải, tất cả các nhóm thị trường Việt Nam ký kết Hiệp định thương mại tự do (FTA) và đang thực thi đều ghi nhận tăng trưởng tốt, cho thấy việc chủ động khai thác có hiệu quả các FTA này.

Ông Trần Thanh Hải cũng đưa ra ví dụ cụ thể như xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản tăng 7,6%; Hàn Quốc tăng 10,1%; ASEAN tăng 2,5%; Nga tăng 9,1%; xuất khẩu sang New Zealand tăng 6,8% so với cùng kỳ năm ngoái…

Đặc biệt, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

Về thị trường xuất khẩu, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam; tiếp đến là thị trường EU, Trung Quốc, ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Hơn nữa, cùng với việc không ngừng cải cách thủ tục hành chính, tạo hành lang thông thoáng cho doanh nghiệp hoạt động đã và đang là động lực rất lớn trong phát triển doanh nghiệp xuất khẩu trong nước cũng như thu hút mở rộng đầu tư và xuất khẩu sản phẩm hàng hóa.

Tạo thêm lực đẩy

Theo dự báo của Vụ Kế hoạch (Bộ Công Thương), thông thường kim ngạch xuất nhập khẩu những tháng cuối năm thường đạt khá cao so với đầu năm do đây là thời điểm chuẩn bị hàng hóa phục vụ các dịp mua sắm lớn nhất trên toàn cầu trong cả năm như Lễ Giáng sinh, Tết Dương lịch, Tết Nguyên đán ở Việt Nam và một số nước châu Á…

Do đó, kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng được dự báo sẽ tiếp tục tăng trong tháng tới. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu sẽ không có nhiều biến động do ảnh hưởng từ sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu.

Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào thương mại quốc tế với 13 FTA được ký kết và 3 FTA đang trong quá trình đàm phán, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có khả năng cạnh tranh tốt hơn so với nhiều nhà cung cấp khác nhờ hàng rào thuế quan dần được gỡ bỏ.

Đáng lưu ý, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chính thức có hiệu lực từ đầu năm 2019 và Hiệp định FTA Việt Nam – EU (EVFTA) đã được ký kết và dự kiến có hiệu lực năm 2020 đang tạo ra sức hút mới cho đầu tư trực tiếp nước ngoài, giúp các doanh nghiệp có thêm năng lực sản xuất mới.

Tuy vậy, nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực vẫn đối diện với những khó khăn thách thức. Đó là EU chưa bỏ thẻ vàng đối với thuỷ sản Việt Nam, cạnh  tranh ngày càng mạnh mẽ trong xuất khẩu hàng hoá nông sản, thuỷ sản do ngày càng nhiều nước tham gia cung ứng nông sản trong khi cầu hạn chế.

Không những thế, việc kiểm soát chất lượng cũng như truy xuất nguồn gốc, năng lực chế biến, bảo quản nông sản, công nghiệp phụ trợ đang là vấn đề cần được quan tâm mạnh mẽ. Trong khi đó, giá các mặt hàng nông, thuỷ sản đang trong xu hướng giảm.

Mặt khác, xuất khẩu sang Mỹ tăng nhanh trong thời gian qua có thể kéo theo hệ lụy về việc tăng kiểm soát nhập khẩu từ Việt Nam.

Vì thế, để xuất khẩu tự tin cán đích, Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng cho biết: Bộ Công Thương sẽ theo dõi sát biến động tình hình thế giới, đặc biệt là diễn biến cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung để chủ động trong điều hành và có biện pháp thúc đẩy xuất khẩu và tăng cường quản lý chặt chẽ trước nguy cơ gian lận thương mại và gian lận xuất xứ hàng hóa.

Mặt khác, chú trọng tạo nguồn hàng có chất lượng cho sản xuất, hướng tới mục tiêu nâng cao giá trị gia tăng, sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn thực phẩm và phù hợp với nhu cầu thị trường nhập khẩu.

Ngoài ra, Bộ sẽ tập trung nghiên cứu, dự báo, cảnh báo đối với các biện pháp phòng vệ thương mại áp dụng lên hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.

Bên cạnh đó, Bộ kịp thời chỉ đạo các giải pháp cụ thể, quyết liệt, có định hướng để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu, phát triển thị trường.

Theo Thứ trưởng Cao Quốc Hưng, Bộ Công Thương cũng sẽ có những biện pháp phát triển xuất khẩu, nhập khẩu với từng thị trường quan trọng; tìm kiếm khả năng mở rộng các thị trường xuất khẩu mới còn tiềm năng đồng thời củng cố và mở rộng thị phần hàng hóa Việt Nam tại thị trường truyền thống, thị trường là đối tác FTA.

Hơn nữa, Bộ chú trọng việc tháo gỡ rào cản, tạo điều kiện cho hàng hóa xuất khẩu; đẩy nhanh tiến trình đàm phán, ký kết, phê duyệt các Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và các nước. Tổ chức triển khai thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam, bảo đảm cho quá trình hội nhập của Việt Nam một cách hiệu quả và bền vững hơn.

Đặc biệt, Bộ Công Thương chú trọng kiểm soát chặt chẽ toàn bộ hàng hóa trước khi nhập khẩu, tạm nhập vào lãnh thổ Việt Nam, đảm bảo không gắn, cài đặt, sử dụng các thiết bị, tài liệu, hình ảnh vi phạm chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia của Việt Nam.

Uyên Hương Báo Tin Tức