Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Tin Tức Ngành

Xuất khẩu chính ngạch – Gỡ khó cho thị trường tôm hùm

VTV.vn – Thị trường tôm hùm đã đảo chiều, tăng giá trở lại từ khoảng 1 tháng nay nhưng nghịch lý là ở chỗ nhiều người nuôi không có tôm để bán.

Tôm hùm bông giờ đã ở mức 1,3 – 1,4 triệu đồng mỗi kg. Tôm hùm xanh dao động từ 700 – 800 ngàn đồng. So với hồi giữa năm, giá tôm hùm hiện tại đã tăng trên dưới 200 ngàn đồng.

Nhiều người nuôi tôm hùm tiếc nuối khi không còn tôm để bán. Tiếc nhưng không ai bất ngờ, họ đã quá quen với chuyện bấp bênh trên thị trường tôm hùm.

Ở vùng biển hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên, sản lượng tôm hùm mỗi năm xấp xỉ 1.800 tấn. Phần lớn lượng tôm này xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc. Thế nhưng, từ cuối năm 2018, Trung Quốc đã thay đổi trong chính sách biên mậu đối với việc nhập khẩu hàng thủy sản Việt Nam. Cụ thể đối với tôm hùm là siết chặt nhập khẩu tiểu ngạch, tăng cường nhập khẩu chính ngạch với yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, truy xuất nguồn gốc.

Suốt một năm qua, các địa phương có nghề nuôi tôm hùm đã tìm cách để chuyển từ xuất khẩu tiểu ngạch sang chính ngạch. Theo yêu cầu trong xuất khẩu chính ngạch, từng lô hàng tôm hùm phải có chứng thư kiểm dịch, kiểm soát nguồn gốc, đảm bảo quy cách đóng gói, nhãn mác… Những điều này để làm được, cả doanh nghiệp thu mua lẫn người nuôi tôm hùm buộc phải thay đổi, không thể nuôi theo kiểu tự phát như lâu nay.

Những gì xảy ra đối với mặt hàng tôm hùm cũng là thực tế chung đối với nhiều mặt hàng thủy sản mà lâu nay đầu ra lệ thuộc vào xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc. Cũng vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch tiếp tục là vấn đề nóng trải dài ở hầu khắp các vùng nuôi thủy sản.

Hiệu quả từ nuôi tôm vụ đông

Ba năm trở lại đây, nuôi tôm vụ đông (hay còn gọi là nuôi tôm trái vụ) đã trở thành phương thức canh tác mới mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân khu vực các xã bãi ngang của huyện Kim Sơn. Năm nay, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do môi trường, dịch bệnh nhưng người nuôi tôm thắng lớn do giá tôm thương phẩm đang cao gấp đôi, gấp ba so với tôm chính vụ và cao hơn giá tôm vụ đông năm trước.

Gia đình anh Trần Văn Cường ở xóm 1, xã Kim Hải (Kim Sơn) ứng dụng công nghệ nhà bạt trong nuôi tôm trái vụ.
Gia đình anh Trần Văn Cường ở xóm 1, xã Kim Hải (Kim Sơn) ứng dụng công nghệ nhà bạt trong nuôi tôm trái vụ.

 

Trong tiết trời se lạnh, mưa lất phất bay của những ngày cuối năm, chúng tôi về thăm các đầm tôm vụ đông cho thu nhập bạc tỷ của những nông dân mạnh dạn đi đầu áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất. Điểm đến đầu tiên của chúng tôi là mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao trên diện tích hơn 7 ha của Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển thủy sản Bình Minh.
Giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư phát triển thủy sản Bình Minh Vũ Hải Đường chia sẻ: Bắt đầu từ năm 2016, Công ty thuê hơn 7ha đất nhiễm mặn, cấy lúa kém hiệu quả của Công ty TNHH MTV Bình Minh triển khai xây dựng mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao với hệ thống ao nuôi, ao ươm, ao xử lý nước đều được bê tông hóa bờ, đáy; riêng 2,6 ha ao nuôi được làm mái che hình chóp nón, sử dụng khung cáp chịu lực và 3 lớp lưới, ni lông che phủ; áp dụng công nghệ mới giúp ao nuôi chống rét, giữ ấm về mùa đông và chống nắng vào mùa hè, nhiệt độ ao luôn đảm bảo cho con nuôi sinh trưởng, phát triển.
Do vậy ngoài sản xuất 2 vụ chính như các hộ nuôi quảng canh khác, Công ty còn sản xuất thêm 1 vụ tôm thẻ trong vụ đông. Thực tế cho thấy ở miền Bắc, nếu không làm ao có mái che sẽ không nuôi được tôm vụ đông. Mái che có tác dụng giữ được nhiệt bên trong ao, vào mùa đông nhiệt độ bên ngoài trời và bên trong ao sẽ chênh lệch từ 10-12 độ C, đảm bảo tôm thích nghi. Qua hơn 3 năm sản xuất cho thấy đây là mô hình phù hợp và cho hiệu quả kinh tế rất cao.
Tôm thành phẩm đảm bảo chất lượng và có năng suất tương đương 2 vụ chính, ước tính mỗi ha đạt từ 22 -24 tấn/vụ. Trong khi giá bán ra cao hơn từ 1,5 -2 lần so với tôm chính vụ. Sau khi trừ chi phí, nuôi tôm vụ đông cho thu nhập đạt trên 1,5 tỷ đồng/ha/vụ. Toàn bộ diện tích tôm vụ đông năm nay của Công ty đang phát triển tốt và dự kiến sẽ xuất bán đúng dịp Tết Nguyên đán Canh Tý.

Cũng nuôi tôm vụ đông nhưng hộ anh Trần Văn Cường xóm 1, xã Kim Hải sử dụng công nghệ nhà bạt che phủ trên diện tích 3.600 m2. Trong khi phần lớn các hộ nuôi tôm quảng canh đang cải tạo, vệ sinh ao đầm cho vụ nuôi đầu tiên của năm 2020 thì đầm tôm vụ đông của anh đã có tôm thu hoạch. Quăng một mẻ lưới nhỏ với vài chục con tôm to tầm ngón tay cái, anh Cường phấn khởi chia sẻ: “Tôm này đạt trọng lượng 30 con/kg và đã có thương lái vào trả trên 300 nghìn đồng/kg.

Hiện nay thị trường tôm rất khan hiếm, đặc biệt là dịp Tết Nguyên đán sắp tới nhu cầu tăng cao, giá có thể tăng, do vậy hộ nuôi nào giữ được, không để dịch bệnh xảy ra sẽ có lãi lớn”. Cũng theo anh Cường, giải pháp cho nuôi tôm vụ đông là xây dựng các ao nuôi có nhà bạt che phủ, lót bạt dưới đáy ao và có hệ thống quạt, oxy để kiểm soát nhiệt độ, đảm bảo nhiệt độ bên trong và ngoài ao luôn chênh lệch từ 7 – 12 độ C, giúp tôm sinh trưởng tốt.

Ngoài việc làm nhà bạt, thì người nuôi còn phải lưu ý quản lý hiệu quả môi trường nuôi, xử lý tốt nguồn nước đầu vào và tìm nguồn con giống có uy tín. Hiệu quả kinh tế đem lại của nuôi tôm vụ đông tăng gấp đôi, gấp ba so với sản xuất chính vụ. Do vậy ngày càng có nhiều hộ nuôi trong vùng mạnh dạn áp dụng công nghệ mới vào sản xuất.

Nghề nuôi trồng thủy sản ở vùng ven biển huyện Kim Sơn đã trở thành một trong những nghề chính mang lại thu nhập cao, ổn định cho người dân các xã bãi bồi. Tuy nhiên, hầu như các hộ nuôi chỉ sản xuất 2 vụ chính do các đối tượng nuôi không chịu được nhiệt độ thấp.

Xuất phát từ nhu cầu của thị trường trong mùa đông, nhiều hộ nuôi trên địa bàn huyện Kim Sơn đã mạnh dạn phát triển thêm 1 vụ sản xuất trong năm là nuôi tôm thẻ vụ đông trong nhà bạt. Ước tính trên địa bàn huyện có 150 -170 ha nuôi tôm công nghiệp, trong đó có trên 20 mô hình nuôi tôm vụ đông trong ao nổi, đáy lót bạt, mái che bạt với tổng diện tích ước hơn 18ha.

Các mô hình hiện đang phát huy hiệu quả rất tốt, sản lượng tương đương nhưng thu nhập cao gấp 2 lần so với sản xuất tôm vụ chính. áp dụng công nghệ nuôi tôm vụ đông đã giúp người nuôi tăng hiệu quả trên đơn vị diện tích canh tác, đáp ứng nhu cầu tăng cao của người tiêu dùng và sẽ là hướng phát triển chính trong thời gian tới tại vùng bãi bồi của huyện Kim Sơn.

Bài, ảnh: Giáng Hương
Nguồn :http://baoninhbinh.org.vn/

Nuôi tôm thời công nghệ số

Vượt qua những sóng gió thị trường song hành cùng dịch bệnh tôm đe dọa, người nuôi tôm ở ĐBSCL dần tìm ra cách xoay xở “tiến – thoái” hiệu quả.

Trong các biện pháp, dấu ấn ứng dụng công nghệ số hóa thành điểm sáng ảo diệu mở ra con đường ngắn nhất đi tới thành công.

Giải pháp công nghệ mới

Rynan Mekong – Smart Agriculture Network mở App Store cài đặt Smart phone, đăng nhập, ứng dụng. Dân nuôi tôm hay làm ruộng vườn có thể cập nhật qua màn hình điện thoại thông minh trong lòng bàn tay. Các Icon hiển thị về quan trắc nước, quản lý thiết bị, quản lý nước canh tác, giám sát sâu rầy, bảng màu lá lúa, thương mại điện tử, giá cả thị trường…

Tôi thử chạm vào Icon mạng lưới quan trắc xem chi tiết tại một trạm quan trắc. Tại điểm Vàm Trà Vinh, vào lúc giờ – ngày – tháng – năm: Độ mặn bao nhiêu g/L, pH, mực nước, độ kiềm hay thời tiết trong ngày đều hiện rõ các chỉ số.

Một ngày cuối năm 2019, TS Nguyễn Thanh Mỹ, Tổng Giám đốc Công ty CP RYNAN Smart Fertilizers (Trà Vinh) – một Việt kiều Canada nổi tiếng sở hữu 200 bằng sáng chế, về trường Đại học Cần Thơ tham dự hội nghị khoa học “Quản lý đất và Sử dụng phân bón hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp”.

16-48-54_ts_nguyen_thnh_my_phi_-_td_myln_group_chuyen_gio_pho_qun_trc_o_tinh_tr_vinh_-_nh_ct
TS Nguyễn Thanh Mỹ (phải) – Mylan Group chuyển giao phao quan trắc ở tỉnh Trà Vinh. Ảnh: CT.

Ông trình bày Ứng dụng phân bón thông minh trong canh tác nông nghiệp như mối quan tâm nhiệt thành mà ông bày tỏ khi trở về quê hương mình. Quan sát về hệ thống canh tác nông nghiệp, TS Mỹ hướng góc nhìn mới, thông qua giải pháp công nghệ ứng dụng để không chỉ giúp nông dân Trà Vinh quê ông, nông dân nội vùng ĐBSCL mà ước muốn mở rộng phạm vi địa lý rộng lớn với nhiều lĩnh vực đa ngành.

Gặp tôi, ông cười tươi kể lại ứng dụng Rynan Technologies chứng minh thành công nhất là được ngày càng nhiều nông dân dễ dàng cập nhật, ứng dụng.

Sau khi công ty của ông trao tặng, lắp đặt 2 phao quan trắc đầu tiên đặt trên sông thử nghiệm ở Trà Vinh đã góp phần giúp chính quyền địa phương và người dân nuôi tôm hay canh tác lúa, bảo vệ vườn cây trong mùa hạn – mặn gay gắt. Số lượng phao quan trắc đặt hàng và chuyển giao về các địa phương vùng ven biển.

Riêng tỉnh Trà Vinh – nơi “đại bản doanh” của Tập đoàn Mylan Group của TS Mỹ, được bố trí lắp đặt mạng lưới phao quan trắc tăng lên gần 20 phao để đáp ứng yêu cầu sản xuất và sinh hoạt cho người dân địa phương.

Nhớ ngày đầu “trình làng” Rynan Technologies – giải pháp mới “Ứng dụng công nghệ 4.0” sáng tạo của TS Nguyễn Thanh Mỹ được các nhà chuyên môn đánh giá là một trong các sản phẩm công nghệ rất cao.

Rynan Technologies tạo ra từ ứng dụng trên smartphone kết nối trực tiếp với phao quan trắc đặt dưới sông để cho bà con nông dân ở vùng cửa sông bị xâm nhập mặn theo dõi các chỉ số độ mặn, độ oxy hòa tan, nhiệt độ, độ pH…, thông tin được gửi lên hệ thống đám mây và báo kết quả cho nông dân có thể biết được khi nào độ mặn giảm đúng theo chỉ số yêu cầu để bơm nước vào ao nuôi tôm hay độ mặn giảm hơn dưới mức cho phép để bơm lấy nước ngọt bơm tưới cho cây trồng.

Những điểm sáng

Trong những năm gần đây một số trại tôm ở Sóc Trăng, Bạc Liêu tiên phong tự lực đầu tư phòng nghiên cứu bệnh tôm, phòng Lab phân tích bệnh học, phân tích, giám sát các chỉ số nước, áp dụng qui trình kỹ thuật ghi chép sổ tay quản lý tôm giống, nước cấp – ao nuôi – ao lắng lọc và xử lý nước thải.

Hệ thống dữ liệu máy tính cập nhật các chương trình quản lý thức ăn và chăm sóc, quản lý dịch bệnh đến an toàn sinh học, quy trình ngăn ngừa nhiễm bệnh và chương trình thu hoạch, quản lý sau thu hoạch… Nhờ đó kết quả thu hoạch các vụ tôm gần đây đạt cao hơn, đồng thời tỷ lệ rủi ro do dịch bệnh giảm đến mức thấp nhất.

Ba năm nay, người dân Sóc Trăng trúng mùa tôm liên tiếp nhờ ứng dụng nhiều biện pháp kỹ thuật. Một trong những điểm tạo dấu ấn chính là an toàn sinh học áp dụng triệt để trong hệ thống ao nuôi. Nghề nuôi tôm hiện còn mang tính rủi ro rất cao trước những bất lợi về thời tiết, dịch bệnh tôm diễn biến phức tạp. Khó khăn nhất là nuôi tôm vụ 2 thường gặp thời tiết bất lợi do mùa mưa.

Tuy nhiên, các trại nuôi tôm đã chủ động ứng phó bằng cách sử dụng vi sinh để làm sạch đáy ao. Đây là cách phòng bệnh tốt vì đáy ao luôn sạch, tiết kiệm được năng lượng, tăng ô xy hòa tan, tăng khả năng tiêu hóa cho tôm, đồng thời đảm bảo cấp đủ nguồn nước sạch để thay nước ao nuôi.

Trên thực tế từ những năm qua công nghệ nuôi tôm 4.0 của Tập đoàn Việt Úc đang trở thành điểm sáng. Hội đủ các điều kiện về tiềm lực vốn và chủ động hai yếu tố “sạch” tiên quyết – Là nhà sản xuất tôm giống sạch hàng đầu cùng với giải pháp kiểm soát nguồn nước tốt nhất. Việt Úc tâm huyết ứng dụng CNC vào sản xuất, thiết lập chuỗi giá trị nuôi tôm, với tham vọng nâng cao giá trị và xây dựng thương hiệu cho con tôm Việt Nam.

Tập đoàn Việt Úc đầu tư khu phức hợp nuôi tôm CNC ở Bạc Liêu. Ảnh: .

Tại thủ phủ tôm Bạc Liêu, Việt Úc là công ty đầu tiên đầu tư khu nuôi tôm trong nhà màng (nhà kính) với quy mô lớn khoảng 315ha. Mỗi nhà màng rộng 1ha, bao trùm bởi khung nhà kính không gian nhịp lớn và chứa trong đó 10 ao nuôi tôm. Chính giải pháp kỹ thuật nhà màng đóng vai trò quan trọng giúp kiểm soát môi trường ổn định và an toàn về mặt sinh học. Tôm nuôi không bị sốc nhiệt đồng thời ngăn ngừa các dịch bệnh.

Bên cạnh đó một hệ thống ao lắng lọc, siêu lọc nước bảo đảm nguồn cấp nước sạch vừa đủ nuôi tôm không hao phí. Hơn nữa Việt Úc còn đầu tư hệ thống tự động cho tôm ăn với các cảm biến, máy tính theo dõi biết mỗi khi tôm đói sẽ tự động đưa lượng thức ăn hợp lý, ưu điểm không tốn phí thức ăn thừa.

Việt Úc tự tin đầu tư khu phức hợp nuôi tôm đạt chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, bắt đầu từ nền tảng căn bản con tôm bố mẹ tạo ra tôm giống sạch. Mỗi nhà màng giá trị đầu tư 7 tỷ đồng kỳ vọng thành công nuôi tôm công nghệ cao đạt tỷ lệ 80 – 100%. Theo mô hình này có thể thả nuôi tôm mật độ khá dày, chỉ 3 tháng là có thể thu hoạch và một năm nuôi được 3 vụ, với năng suất đạt từ 150-200 tấn/ha.

Tập đoàn Việt Úc đang dự trù kế hoạch triển khai mô hình nuôi tôm CNC tại các tỉnh Bình Định và Quảng Ninh, với mục tiêu hướng tới hình thành một vùng nuôi tôm rộng lớn được kiểm soát chất lượng chặt chẽ, tạo ra sản phẩm tôm tốt nhất của Việt Nam.

HỮU ĐỨC  https://nongnghiep.vn

Tôm càng xanh – Tiềm năng và khó khăn

Lúa tôm
Mô hình trồng lúa kết hợp nuôi tôm càng xanh được nhiều nông dân huyện Mỹ Xuyên thực hiện mang lại hiệu quả cao.

Không quá khó như con tôm sú, cũng không đòi hỏi quá cao như con tôm thẻ, con tôm càng xanh có thể sống khỏe ở cả vùng ngọt và vùng lợ. Chẳng những vậy, tôm càng xanh còn có thể nuôi luân canh, xen canh với cây lúa hoặc nuôi chuyên canh đều cho kết quả tốt. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, con tôm càng xanh vẫn chưa thể phát triển mạnh như con tôm sú hay tôm thẻ ngay trên vựa tôm đồng bằng sông Cửu Long.

Sau thời gian bị khai thác quá mức cùng với đó là sự bùng nổ của nghề trồng lúa khiến sản lượng tôm càng xanh tự nhiên ngày một ít đi và cũng như một số đối tượng thủy sản có giá trị khác, con tôm càng xanh bắt đầu được đưa vào nuôi trồng và phát triển dần cho đến ngày nay. Từ việc chỉ nuôi quảng canh trên ruộng lúa là chính, con tôm càng xanh bắt đầu được nuôi theo hình thức quảng canh cải tiến với nguồn con giống toàn đực.

Dẫn chứng cho tính hiệu quả của mô hình nuôi tôm càng xanh toàn đực, ông Võ Văn Hoa, ở xã Thạnh Quới (Mỹ Xuyên), một trong những hộ tiên phong trong mô hình nuôi tôm càng xanh cho rằng, tuy lợi nhuận từ con tôm càng xanh không bằng tôm sú hay tôm thẻ, nhưng ít rủi ro và giúp mình luôn nói không với thuốc bảo vệ thực vật hóa học. Cũng nhờ vậy mà khi chuyển sang làm lúa hữu cơ ngay vụ đầu tiên đã đạt được chứng nhận quốc tế.

Không nói đâu xa, ở vụ tôm càng xanh xen canh trên ruộng lúa năm 2018, hầu hết người nuôi tôm càng xanh ở các tỉnh: Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang đều có được niềm vui trúng mùa, trúng giá, khi có thời điểm giá tôm càng xanh loại I lên đến 230.000 đồng/kg. Theo các hộ nuôi, dù năng suất tôm càng xanh chưa cao, nhưng con tôm càng xanh là một trong những đối tượng nuôi có hiệu quả cao khi được nuôi xen canh với cây lúa giúp tăng thêm lợi nhuận cho nông dân so với chỉ đơn thuần trồng lúa.

Theo ước tính, nếu thả nuôi tôm càng xanh toàn đực trên diện tích 1ha, người nuôi có thể thu lợi nhuận trên 100 triệu đồng sau mỗi vụ nuôi. Đây cũng được xem là đối tượng nuôi có nhiều triển vọng cho đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Sóc Trăng nói riêng trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt vì con tôm càng xanh có thể sống và phát triển tốt ở nhiệt độ từ 24 – 34oC và độ mặn từ 0 – 15 phần ngàn. Thậm chí, các kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II và Khoa Thủy sản Trường Đại học Cần Thơ còn cho thấy, ở độ mặn 5, 10, 15 phần ngàn, tôm càng xanh phát triển tốt hơn và có chất lượng ngon hơn so với ở độ mặn 0 phần ngàn.

Với tính hiệu quả và điều kiện nuôi thuận lợi, nhưng việc phát triển nghề nuôi tôm càng xanh ở đồng bằng sông Cửu Long đến nay được đánh giá là chưa tương xứng với tiềm năng. Một trong những trở ngại lớn nhất cho sự phát triển của các mô hình nuôi tôm càng xanh đó là: thiếu hụt nguồn giống tôm toàn đực có chất lượng cao, thời gian nuôi kéo dài, mật độ thả nuôi thấp (dẫn đến năng suất, sản lượng không cao) và đặc biệt là thị trường tiêu thụ chủ yếu là nội địa nên giá bán thường bấp bênh. Chính từ những rào cản trên, nên diện tích, sản lượng tôm càng xanh ở đồng bằng sông Cửu Long đến nay vẫn còn thấp so với một số đối tượng nuôi khác, dù điều kiện nuôi là khá thuận lợi.

Do phần lớn các hình thức nuôi tôm càng xanh chủ yếu là nuôi xen canh theo mô hình tôm – lúa, mật độ thả nuôi chỉ từ 1 – 2 con/m2, nên năng suất bình quân chỉ từ 200 – 500kg/ha, chỉ một số ít diện tích nuôi quảng canh cải tiến bằng con giống toàn đực cho năng suất từ 800 – 1.000kg/ha. Mặt khác, do năng suất còn thấp, quy mô nuôi nhỏ lẻ, rải rác, nên sản lượng tôm càng xanh chưa nhiều, khiến việc tiêu thụ từng lúc, từng nơi vẫn còn khó khăn, giá cả bấp bênh. Một trở ngại khác là nguồn cung con giống toàn đực đảm bảo chất lượng hiện vẫn chưa nhiều khiến cho việc mở rộng diện tích, quy mô thả nuôi gặp khó. Chính vì những hạn chế trên, nên dù tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư là khá cao và ít rủi ro, nghề nuôi tôm càng xanh vẫn chưa đủ sức hấp dẫn nông dân tham gia.

Theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông quốc gia, tiềm năng phát triển nuôi tôm càng xanh của Việt Nam rất lớn, tập trung chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long như: Bến Tre, Đồng Tháp, Trà Vinh, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng… Năm 2018, diện tích nuôi tôm càng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm khoảng 3,24% tổng diện tích nuôi trồng thủy sản toàn vùng và theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông nông quốc gia, diện tích nuôi tôm càng xanh có thể tăng lên gấp 3 lần trong thời gian tới nhờ các lợi thế: tính thích nghi cao, ít dịch bệnh, chi phí đầu tư thấp, kỹ thuật không quá khó và mang lại hiệu quả cao gấp 3 – 5 lần so với chỉ độc canh cây lúa.

Một trong những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để phát triển nuôi tôm càng xanh được đề ra trong kế hoạch hành động quốc gia phát triển ngành tôm Việt Nam đến năm 2025 là rà soát quy hoạch và đầu tư cải thiện hạ tầng vùng nuôi tập trung tại đồng bằng sông Cửu Long, sản xuất giống đảm bảo chất lượng và số lượng (2 – 3 tỉ con giống năm 2025). Mặt khác, để mô hình nuôi tôm càng xanh mang lại hiệu quả cao hơn cần tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác, liên kết chuỗi sản xuất.

Tích Chu Sóc Trăng

Xuất khẩu tôm ở Cà Mau có nhiều triển vọng

Các tỉnh vùng ĐBSCL, đặc biệt vùng Bán đảo Cà Mau đang nỗ lực đạt sản lượng hơn 1,1 triệu tấn tôm và kim ngạch xuất khẩu đạt 10 tỉ USD vào năm 2025.

Tín hiệu khả quan từ vùng nuôi

Gia đình ông Huỳnh Văn Dũng (xã Tân Bằng, huyện Thới Bình) đã có thâm niên làm mô hình lúa – tôm tại địa phương hơn 10 năm. Mấy năm trước, hết hạn mặn đến dịch bệnh hoành hành đã khiến 1,5 ha đất canh tác của gia đình có những vụ nuôi thất bát. Tuy nhiên, thời gian gần đây, nhờ tham gia thực hiện Đề án “Nâng cao tính bền vững của hệ thống canh tác tôm – lúa” của ngành chức năng địa phương nên năng suất nuôi tôm của gia đình ông tăng đều.

Ông Dũng cho biết, trước đây người dân làm theo kiểu truyền thống, thả giống nhiều mà không hiệu quả. Khi tham gia đề án, được tập huấn kỹ thuật nên bà con làm bài bản hơn. Thông thường, rơm của vụ lúa tuốt xong bỏ nay được giữ lại đưa xuống ruộng để tạo tảo, làm thức ăn cho tôm. Những việc cải tạo ao đầm như: phơi mặt trảng; đánh vôi; gây màu nước bằng phân DAP;… bà con được hướng dẫn cụ thể để đầu tư hiệu quả. Nhờ áp dụng những kỹ thuật mới, gia đình ông hiện nay có nguồn thu khoảng 70 – 80 triệu đồng/ha/năm.

Mô hình lúa – tôm giúp người dân tăng thu nhập.

Ông Huỳnh Văn Dũng chia sẻ: “Cấy lúa trong vuông tôm lúc nào cũng hiệu quả hơn, tôm có hoài. Mần ruộng bây giờ đâu có đủ xài, mà cực khổ lắm. Tôm bây giờ có giá, vô con nào bắt con đấy. Có bữa 300.000-400.000, có bữa 700.000-800.000”.

Tỉnh Cà Mau có khoảng 38.000 đất làm mô hình lúa – tôm. Thời gian qua, trước khó khăn của người nuôi tôm thâm canh gặp phải, mô hình sinh thái lúa – tôm đang giúp sản lượng tôm giữ vững và phát triển.

Còn tại Bạc Liêu, tỉnh có diện tích nuôi tôm đứng thứ 2 cả nước sau Cà Mau, hiện đang có hơn 34.000 ha đất sản xuất theo mô hình lúa – tôm. Theo đánh giá của ngành chức năng tỉnh này, mô hình lúa – tôm mang lại lợi nhuận trung bình cao hơn từ 15-30% (khoảng 56 triệu đồng/ha/năm) so với độc canh lúa hoặc tôm. Từ đó, tỉnh định hướng tăng diện tích lúa – tôm lên 41.000 ha vào năm 2025. Đặc biệt, với “tham vọng” trở thành “thủ phủ ngành tôm của cả nước”, tỉnh Bạc Liêu đang mạnh dạn áp dụng khoa học công nghệ đầu tư cho các mô hình nuôi tôm.

Xây dựng thương hiệu cho tôm

Nổi bật nhất là mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao siêu thâm canh trong nhà kín của Tập đoàn Việt – Úc. Mô hình cho năng suất tôm đạt tới 100 tấn/ha/năm. Nuôi tôm siêu thâm canh đang chiếm tỷ trọng diện tích nhỏ nhất trong cơ cấu mô hình nuôi nhưng lại cho sản lượng rất cao.

Nhiều doanh nghiệp trên địa bàn và ngay cả người dân cũng đang dần chuyển hướng đầu tư nuôi hình thức này, qua đó, góp phần nâng tổng sản lượng tôm nuôi năm nay của Bạc Liêu đạt hơn 142.000 tấn, tăng hơn 10% so với năm ngoái.

Mô hình nuôi tôm siêu thâm canh theo công nghệ cao cho siêu năng suất.

Theo ông Dương Thành Trung – Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu, địa phương hội đủ điều kiện để thực hiện các trọng trách Thủ tướng Chính phủ giao về xây dựng Bạc Liêu trở thành “công xưởng sản xuất tôm lớn nhất cả nước”.

Để thực hiện mục tiêu này, ngoài chú trọng sản xuất tôm theo hướng liên kết chuỗi giá trị thì tỉnh đã khởi động Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với quy mô 418 ha, tổng vốn đầu tư khoảng 1.000 tỉ đồng. Hiện, Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ đã có khoảng 20 doanh nghiệp đăng ký đầu tư trong nhiều lĩnh vực từ giống, thức ăn, thuốc thú y thủy sản để phục vụ phát triển nuôi tôm đến những doanh nghiệp đầu tư cho lĩnh vực chế biến, xuất khẩu.

“Hiện nay, 20 nhà đầu tư trong chuỗi ngành tôm xin vào Khu công nghệ cao này và một số viện trường cũng xin vào đây để đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật về ngành tôm. Để lan tỏa ra và trở thành trung tâm ngành tôm Quốc gia ở Bạc Liêu, 20 doanh nghiệp đã bắt đầu triển khai mô hình trong nhân dân. Hiện nay, trong dân có hơn 100 mô hình, bước đầu những mô hình này khá thành công. Chúng tôi hy vọng thời gian không xa, những mô hình công nghệ cao này sẽ lan tỏa khắp tỉnh Bạc Liêu và cả khu vực bán đảo Cà  Mau”, ông Dương Thành Trung nói”.

Những vấn đề vừa nêu cũng là một phần trên “con đường dài hơi” tỉnh Bạc Liêu trong việc thực hiện để xây dựng thương hiệu tôm. Chuỗi sự kiện quảng bá thương hiệu tôm được địa phương này tổ chức tại tỉnh Quảng Ninh, với chủ đề “Tôm Bạc Liêu – hương vị Việt Nam” đã cụ thể hơn khát vọng trở thành “thủ phủ ngành tôm” và xây dựng thương hiệu tôm riêng cho tỉnh mình.

Xuất khẩu vượt khó để tiến bước

Từ lâu thương hiệu tôm nước ta đã được người tiêu dùng nhiều nước trên thế giới biết đến. Hiện, sản phẩm tôm Việt Nam đã có mặt tại gần 80 quốc gia, vùng lãnh thổ để hàng năm đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của đất nước khoảng 4 tỷ USD. Tuy nhiên, thời gian qua, thị trường xuất khẩu còn một số khó khăn cần tháo gỡ.

Nhìn từ tình hình xuất khẩu tôm của tỉnh đứng đầu cả nước là Cà Mau sẽ phần nào thấy được thực trạng. Tổng kim ngạch xuất khẩu tôm của Cà Mau năm 2018 là 1,2 tỷ USD và đến hết tháng 11-2019, giá trị xuất khẩu tôm của tỉnh mới đạt khoảng 1 tỷ USD. Mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu tôm của địa phương này trong năm nay khó có thể đạt được.

Xuất khẩu tôm năm nay có những khó khăn nhất định.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên được ông Nguyễn Việt Trung, Trưởng phòng Thương mại – Sở Công thương Cà Mau chỉ rõ là do rào cản kỹ thuật của thị trường các nước ngày càng cao. Cụ thể, hải sản của nước ta bị thẻ vàng của EU và mặt hàng tôm cũng chịu tác động theo, bị kiểm soát chặt hơn. Ngoài ra, thị trường xuất khẩu tôm lớn nhất của Cà Mau là Trung Quốc đã thay đổi chính sách nhập khẩu. Trước đây, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu tôm của tỉnh đi theo đường tiểu gạch thì nay phải đáp ứng các tiêu chuẩn “khó tính” theo quy định của Hải quan Trung Quốc mới có thể xuất hàng. Một số doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu nên tình hình xuất khẩu chững lại.

Tuy nhiên, “bức tranh” xuất khẩu tôm của Cà Mau thời gian tới sẽ sáng hơn bởi con đường xuất khẩu chính ngạch đã bắt buộc các doanh nghiệp phải thay đổi chính sách để tồn tại và sẽ tạo ra thị trường xuất khẩu bền vững trong tương lai. Ngoài ra, bên cạnh các thị trường truyền thống như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc thì các doanh nghiệp cũng đã mở rộng thị trường xuất khẩu sang Nga, Anh… và chú ý hơn tới thị trường trong nước.

“Xuất khẩu là hướng cơ bản nâng cao giá trị hàng hóa của người nông dân và doanh nghiệp. Chúng tôi đã đưa sản phẩm tôm ra thị trường rất nhiều nước giúp thu lợi nhuận cao. Bên cạnh đó, cũng không xem nhẹ thị trường trong nước. Hiện nay, sản phẩm tôm của Cà Mau nhận được sự quan tâm rất lớn của người tiêu dùng trong nước, nhất là thị trường TP. HCM và Hà Nội. Xuất khẩu thủy sản nói riêng, mặt hàng tôm nói chung của tỉnh trong thời gian tới có nhiều triển vọng”, ông Nguyễn Việt Trung chia sẻ.

Thời gian qua các tỉnh ven biển trong vùng đã và đang tập trung phát triển theo định hướng kế hoạch hành động phát triển ngành tôm của Thủ tướng Chính phủ. Đến nay, đã thấy những tín hiệu tích cực, tuy nhiên, để đạt như kỳ vọng của Thủ tướng, vẫn còn rất nhiều khó khăn cần khắc phục.

Kế hoạch hành động Quốc gia phát triển ngành tôm đến năm 2025 của Thủ tướng Chính phủ nêu rõ: Đến năm 2020, tổng diện tích nuôi tôm nước lợ đạt 710.000 ha; Tổng sản lượng tôm nuôi đạt 832.500 tấn; Giá trị kim ngạch xuất khẩu tôm nước lợ đạt 4,5 tỷ USD. Đến năm 2025, tổng diện tích nuôi tôm nước lợ đạt 750.000 ha; sản lượng tôm nuôi đạt hơn 1,1 triệu tấn; giá trị kim ngạch tôm nước lợ xuất khẩu là 8,4 tỷ USD. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm tôm đến 2025 sẽ đạt 10 tỷ USD.

Theo TẤN PHONG – TRẦN HIẾU (VOV)

Giá tôm thẻ 20/12/2019

Ngày 20/12- Giá tôm thẻ
****Mua
– Bạc Liêu (mua đường xe)
– Năm Căn
– Phú Tân

*Kiểm kháng sinh
20c lớn 236
20c nhỏ 231
25c lớn 189-200 ( tùy size)
25c nhỏ 183-184
30c lớn 167-170
30c nhỏ 163-164 ( coi màu không cần kiểm cũng 30c 163)
40c 146-147 ( ao đất bắt ngang 143)
50c lớn 134
50c nhỏ 133 ( ao đất kiểm 134, bắt ngang 50c 131
60c 124-126 ( Bắt ngang 60c 121)
70c 121
80c lớn 117
80c nhỏ 114 tới 85c
100c 100, cộng trừ 500/c
Hoặc
Bắt ngang 100c 98, lên xuống 500/c ( bắt ngang không kiểm, không kén màu, ao đất ao bạt đều được ).

**Kén màu xanh tôm tươi , ao bạt
100c 107, lên xuống 200/c.

Nguồn tổng hợp

Màu nước ao nuôi nhân tố tác động và giải pháp

Màu nước phản ánh chính xác tình trạng chất lượng nước trong ao; trong quá trình nuôi, màu nước có thể biến đổi, đòi hỏi người nuôi phải có kiến thức nhận biết để đánh giá chất lượng nước một cách chính xác và đưa ra các giải pháp xử lý kịp thời.

Phạm vi màu nước trong ao nuôi.

Màu nước phản ánh chính xác tình trạng chất lượng nước trong ao; trong quá trình nuôi, màu nước có thể biến đổi, đòi hỏi người nuôi phải có kiến thức nhận biết để đánh giá chất lượng nước một cách chính xác và đưa ra các giải pháp xử lý kịp thời.

Nhân tố ảnh hưởng

Màu nước trong ao nuôi thể hiện các chỉ số của các yếu tố môi trường đang ở ngưỡng thích hợp hay ở mức báo động đối với sức khỏe của động vật thủy sản. Nước trong ao nuôi thường có màu do sự xuất hiện của các hợp chất hữu cơ hòa tan hay không hòa tan, hay do sự phát triển của tảo.

Trong ao nuôi thường có các màu sau:

Màu xanh nhạt (đọt chuối non): Do sự phát triển của tảo lục (Chlorophyta), loài tảo này thường phát triển mạnh trong môi trường nước ngọt hoặc nước lợ nhạt (< 10‰). Đây là màu nước thích hợp nhất để nuôi thủy sản, tảo lục ngoài việc đóng vai trò quan trọng trong chuỗi thức ăn, còn có tác dụng ổn định các yếu tố thủy lý – hóa trong ao, hấp thu các chất hữu cơ thông qua đó làm giảm lượng khí độc trong ao. Người nuôi nên cố gắng duy trì màu nước xanh nhạt, như vậy các loài thủy sản sẽ phát triển tốt hơn.

Màu xanh đậm (xanh rêu): Do sự phát triển của tảo lam (Cyanophyta), loài tảo này phát triển mạnh cả trong môi trường nước ngọt, lợ, mặn. Nếu nước trong ao nuôi có màu này thì cần có biện pháp làm giảm lượng tảo; bởi, nếu tảo lam phát triển quá mức có thể tiết ra chất độc làm chết cá và còn có thể gây thiếu ôxy về đêm do tảo hô hấp quá mức.

Màu vàng nâu (màu nước trà): Do sự phát triển của tảo silic (Bacillariophyta), loài tảo này thường phát triển mạnh ở môi trường nước lợ, mặn vào đầu vụ nuôi; đây là màu nước thích hợp nhất để nuôi các loài thủy sản nước lợ, mặn.

Màu vàng cam (màu gỉ sắt): Màu này thường xuất hiện ở các ao nuôi mới đào trên vùng đất phèn. Màu cam là do đất phèn tiềm tàng (FeS2) bị ôxy hóa tạo thành các váng sắt. Đối với ao có màu nước vàng cam cần có biện pháp khử phèn trước khi thả nuôi, có thể sử dụng vôi nông nghiệp hay bơm, xả nước nhiều lần để rửa trôi lượng phèn trong ao; đối với các ao đang nuôi thì cần rải thêm vôi trên bờ ao để tránh hiện tượng pH giảm đột ngột khi trời mưa.

Màu nâu đen: Nước có màu nâu đen do trong nước có chứa nhiều vật chất hữu cơ. Màu nước này thường thấy ở các ao nuôi có hệ thống cấp, thoát nước không tốt, trong quá trình nuôi không quản lý tốt môi trường, cho ăn dư thừa nhiều, ao nuôi có hàm lượng ôxy hòa tan rất thấp. Xử lý bằng cách thay nước nhiều lần đến khi hết màu nâu đen, hoặc kết hợp sử dụng thêm các loại chế phẩm sinh học, hóa chất có thể hấp thu khí độc. Bên cạnh đó, nếu thấy tôm, cá có hiện tượng thiếu ôxy cần sử dụng quạt đảo nước hoặc các loại hóa chất cung cấp ôxy tức thời, nhằm làm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại.

Một số giải pháp

Màu nước là màu của tảo và vi khuẩn. Màu xanh đặc trưng cho tảo, màu nâu đặc trưng cho vi khuẩn. Màu bã trà là màu của hỗn hợp tảo và vi khuẩn. Quan sát màu nước trong ao nuôi giúp đánh giá chính xác được hiện trạng chất lượng nước; từ đó, có những biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho tôm, cá sinh trưởng và phát triển.  Tạo màu nước chính là gây dựng hệ vi sinh có ích. Tảo không được quá dày, không được quá thưa; nếu tảo thừa nước trong, tảo hại ở tầng đáy sẽ dễ phát triển; ngược lại, nếu tảo dày thì gây ra tình trạng thiếu ôxy về đêm. Mật độ tảo liên quan trực tiếp với độ trong, mật độ tảo tối ưu cho nước nuôi thủy sản tương ứng với độ trong 30 – 35 cm.

Gây màu nước được thực hiện ở đầu vụ nuôi, trước khi thả tôm, khi nước bị mất màu và chủ động gây màu trong ao chứa trước để cấp cho ao nuôi khi cần thiết. Muốn duy trì màu nước thì phải duy trì được các yếu tố môi trường nước ổn định. Để làm được điều này trong trại nuôi cần có hệ thống ao chứa, độ sâu > 1 m.

– Sau khi lấy nước vào ao cần phải sát trùng nguồn nước bằng Chlorine để tiêu diệt mầm bệnh cho tôm rồi mới gây màu bằng cách bón phân, cám gạo, bột đậu nành, mật đường, sử dụng khoáng hỗn hợp, hoặc tốt nhất là nên sử dụng men vi sinh chuyên dùng cho gây màu nước trong ao tôm cá.

– Trước khi gây màu nước cần kiểm tra và điều chỉnh các thông số như pH (7,5 – 8,5), độ kiềm (80 – 150 ppm), NH3 (< 0,1 mg/l), H2S (< 0,03 mg/l).

– Định kỳ 5 – 7 ngày, bổ sung men vi sinh vào ao nuôi để thúc đẩy vi khuẩn có lợi phát triển, phân hủy chất hữu cơ dư thừa trong ao, hấp thụ và ngăn chặn sự hình thành khí độc trong ao nuôi.

– Định kỳ 10 ngày bón vôi CaCO3 hoặc Dolomite, mỗi lần 10 – 20 kg/ha kết hợp sử dụng các chất nâng kiềm để tăng độ kiềm và pH nước.

– Khi mật độ tảo trong ao dày có thể dùng hợp chất giảm phospho, men vi sinh để cắt tảo dần dần hoặc dùng BKC với liều lượng thích hợp để cắt tảo, chú ý cấy lại men sinh sau 48 giờ.

– Đối với các ao TTCT nuôi dạng biofloc kết hợp nuôi tỉa mật độ tôm dày trên 350 con/m2, nên có máy thổi khí để đảm bảo ôxy hòa tan trong nước đủ và đánh men vi sinh thường xuyên để tạo môi trường sống tốt cho tôm. Trong trường hợp ao khó gây màu do sử dụng hóa chất nhiều, đáy ao có nhiều cát, độ mặn cao nên sử dụng các sản phẩm gây màu và khoáng để gây màu nước cho ao. Sử dụng một số chế phẩm sinh học trong suốt chu kỳ nuôi sẽ giúp quản lý chất lượng nước cũng như màu nước tốt hơn.

– Quản lý cho ăn chặt chẽ tránh cho ăn thừa để hạn chế ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến chất lượng nước.

Nguồn: Theo VINAFIS