Máy cho ăn tự động được sử dụng đúng cách có thể là công cụ có giá trị để tăng hiệu quả và lợi nhuận của việc cho ăn trong ao nuôi tôm.
Hiện nay, với xu hướng hiện đại hóa, tự động hóa, việc cho ăn bằng máy đã bắt đầu được nghiên cứu và áp dụng phổ biến ở các nước đứng đầu về sản xuất tôm. Tuy nhiên, do tính mới mẻ, yêu cầu về vật lí, kĩ thuật nên đòi hỏi đội ngũ nhân viên phải được huấn luyện kĩ càng qua đó nâng cao trình độ chuyên môn, có kế hoạch kiểm soát chặt chẽ hoạt động của máy.
Khi sử dụng loại máy này, người nuôi tôm có thể dễ dàng điều chỉnh lượng thức ăn và khoảng cách giữa các lần cho ăn nhằm thực hiện việc rải thức ăn đạt hiệu quả cao nhất – tôm ăn đủ, không có thức ăn thừa tích tụ đáy ao. Nhìn chung, phương pháp quản lí thức ăn này không những tiết kiệm chi phí sản xuất mà còn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của tôm và rút ngắn thời gian nuôi.
Các lưu ý để sử dụng máy cho ăn tự động hiệu quả
Để phân phối thức ăn hiệu quả bằng máy cho ăn tự động trong ao nuôi tôm bán thâm canh, vòi của bộ phân phối thức ăn phải cao hơn mặt nước khoảng 80 – 100 cm. Phễu càng cao hơn mặt nước thì diện tích phân phối thức ăn sẽ càng lớn. Tuy nhiên, trong các ao nuôi thâm canh nhỏ, nơi cần thiết phải giảm diện tích cho ăn, vòi cho ăn chỉ nên cao hơn 50 cm so với mặt nước. Ngoài ra, kích thước của hạt hoặc viên cũng ảnh hưởng đến khu vực cho ăn, bởi vì viên càng lớn thì phân bố càng xa, như chúng ta có thể thấy trong hình sau:
Viên thức ăn Nicovita có đường kính khác nhau và khoảng cách chúng đạt được sau khi được phân phối bởi một máy cho ăn tự động đặt cách mặt nước của ao nuôi tôm thâm canh 1m..(theo Global Aquaculture).
Một vấn đề khác cần lưu ý là nồng độ oxy hòa tan trong khu vực cho ăn, mức tiêu thụ oxy của hàng trăm ngàn con tôm tụ tập dưới và gần mỗi máy có thể làm cạn kiệt lượng oxy, do đó máy cho ăn tự đông cần được đặt gần máy sục khí. Do mức tiêu thụ oxy gần các khu vực cho ăn tự động tăng lên, các thiết bị sục khí có cánh tay dài gần khu vực cho ăn là cần thiết để giúp duy trì mức oxy hòa tan đầy đủ. Kinh nghiệm thực địa cho chúng ta biết rằng phạm vi độ sâu nước tốt nhất cho một máy cho ăn tự động trong ao không có sục khí là 1,00 đến 1,30 mét, trong khi trong các ao thâm canh có sục khí mạnh, phạm vi tốt nhất là 1,40 đến 1,60 mét. Độ sâu đồng đều của nước và nồng độ oxy hòa tan trong khu vực cho ăn tự động dẫn đến sự phân bố tối ưu của quần thể tôm trong ao.
Theo kết quả thực nghiệm, máy làm việc với công suất thích hợp sẽ làm cho tăng trưởng tôm, FCR và tỷ lệ sống của tôm tốt hơn. Ví dụ, trong sản xuất tôm bán thâm canh trong các ao lớn (trên 4,0 ha.), Sinh khối tối đa được đề nghị cho ăn tự động là 2.000 kg tôm trên mỗi phễu, để nuôi thâm canh trong các ao nhỏ (dưới 1,0 ha.) có sục khí mạnh, sinh khối được khuyến nghị tối đa là 4.000 kg tôm trên mỗi phễu. Vượt quá khả năng sinh khối của máy cho ăn tự động có thể dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp hơn, FCR cao hơn và tỷ lệ sống của tôm thấp hơn, chủ yếu là do chất lượng nước và đất bị suy giảm nhanh hơn, sự gia tăng chất hữu cơ và nồng độ oxy thấp. Ngoài ra, công suất phễu cao hơn bình thường sẽ làm giảm tuổi thọ của pin, động cơ và các bộ phận khác của máy.
Trong quá trình nuôi tôm và sau khi thu hoạch, khu vực cho ăn tự động đòi hỏi phải xử lý sinh học. Ứng dụng thích hợp của các vi khuẩn có lợi, như Bacillus subtilis và Lactobacillus spp là cần thiết để giữ cho đất ao và nước trong điều kiện tối ưu và hỗ trợ sản xuất tôm ổn định theo thời gian.
Đánh giá các phương pháp cho ăn tự động
Chiến lược được một số nhà sản xuất tôm ở Ecuador sử dụng để giảm chi phí đầu tư vào thiết bị liên quan đến cho ăn tự động là thiết lập bộ nạp phát hiện âm thanh để theo dõi hoạt động cho tôm ăn, sau đó sử dụng thông tin này với người cho ăn tự động và bộ hẹn giờ trong một khu vực nhất định của trang trại. Lập trình các máy cấp liệu tự động với bộ hẹn giờ theo đường cong tiêu thụ thức ăn bằng cảm biến âm thanh (hydrophones) để phát hiện âm thanh của hoạt động cho tôm ăn. Sau đó, tiêu thụ thực phẩm được kiểm soát bằng các nhá cho ăn nằm gần các máy cho ăn tự động. Các thử nghiệm được thực hiện trong quá trình nuôi tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương thâm canh tại các trang trại ở Thái Lan cho thấy lợi thế của việc sử dụng thức ăn tự động so với cho ăn bằng tay, với kết quả tốt nhất thu được khi cho ăn tự động bằng phát hiện âm thanh bằng hydrophones.
Hệ thống cho tôm ăn bằng cảm biến âm thanh (AQ1) phát huy hết tính năng mà không giới hạn diện tích ao nuôi tôm, bởi vậy nông dân nuôi tôm nhỏ lẻ cũng hưởng lợi từ hệ thống này. Dù diện tích ao nuôi 1 ha hay 1.000 ha đều thu được lợi ích như tỷ lệ tăng trưởng, hệ số FCR thấp, tỷ lệ sống cao và năng suất thu hoạch cao như nhau. Hệ thống AQ1 tại các trại nuôi ở Ecuador và Mexico chạy bằng năng lượng mặt trời nên tiết kiệm được chi phí năng lượng, gần đây hệ thống cải tiến có lắp đặt thêm thiết bị cảm biến mưa và tôm vẫn được cho ăn hiệu quả tới khi mưa to kết thúc.
Triển vọng
Do có sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố (chất lượng thức ăn, đường kính, khoảng cách với mặt mước, độ ẩm, nhiệt độ, thiệt kế của máy) nên không có mối tương quan chặt chẽ giữa mức tiêu thụ thực phẩm và nhiệt độ nước hoặc nồng độ oxy hòa tan. Cần có thêm nhiều nghiên cứu với người cho ăn và cảm biến chất lượng nước để hiểu rõ hơn và dự đoán hoạt động sinh trưởng của tôm vào các thời điểm khác nhau trong ngày/đêm và giữa các mùa. Ngoài ra các việc sử dụng các cảm biến cho các thông số khác nhau của nước chẳng hạn như nồng độ oxy hòa tan, nhiệt độ, pH, độ kiềm và mưa có thể giúp quản lí thức ăn hiệu quả hơn và giảm chi phí nuôi tôm.