Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Quản Lý Nuôi

Sử dụng máy cho ăn tự động đúng cách

Máy cho ăn tự động.
Máy cho ăn tự động.

Máy cho ăn tự động được sử dụng đúng cách có thể là công cụ có giá trị để tăng hiệu quả và lợi nhuận của việc cho ăn trong ao nuôi tôm.

Hiện nay, với xu hướng hiện đại hóa, tự động hóa, việc cho ăn bằng máy đã bắt đầu được nghiên cứu và áp dụng phổ biến ở các nước đứng đầu về sản xuất tôm. Tuy nhiên, do tính mới mẻ, yêu cầu về vật lí, kĩ thuật nên đòi hỏi đội ngũ nhân viên phải được huấn luyện kĩ càng qua đó nâng cao trình độ chuyên môn, có kế hoạch kiểm soát chặt chẽ hoạt động của máy.

Khi sử dụng loại máy này, người nuôi tôm có thể dễ dàng điều chỉnh lượng thức ăn và khoảng cách giữa các lần cho ăn nhằm thực hiện việc rải thức ăn đạt hiệu quả cao nhất – tôm ăn đủ, không có thức ăn thừa tích tụ đáy ao. Nhìn chung, phương pháp quản lí thức ăn này không những tiết kiệm chi phí sản xuất mà còn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của tôm và rút ngắn thời gian nuôi.

Các lưu ý để sử dụng máy cho ăn tự động hiệu quả

Để phân phối thức ăn hiệu quả bằng máy cho ăn tự động trong ao nuôi tôm bán thâm canh, vòi của bộ phân phối thức ăn phải cao hơn mặt nước khoảng 80 – 100 cm. Phễu càng cao hơn mặt nước thì diện tích phân phối thức ăn sẽ càng lớn. Tuy nhiên, trong các ao nuôi thâm canh nhỏ, nơi cần thiết phải giảm diện tích cho ăn, vòi cho ăn chỉ nên cao hơn 50 cm so với mặt nước. Ngoài ra, kích thước của hạt hoặc viên cũng ảnh hưởng đến khu vực cho ăn, bởi vì viên càng lớn thì phân bố càng xa, như chúng ta có thể thấy trong hình sau:


Viên thức ăn Nicovita có đường kính khác nhau và khoảng cách chúng đạt được sau khi được phân phối bởi một máy cho ăn tự động đặt cách mặt nước của ao nuôi tôm thâm canh 1m..(theo Global Aquaculture).

Một vấn đề khác cần lưu ý là nồng độ oxy hòa tan trong khu vực cho ăn, mức tiêu thụ oxy của hàng trăm ngàn con tôm tụ tập dưới và gần mỗi máy có thể làm cạn kiệt lượng oxy, do đó máy cho ăn tự đông cần được đặt gần máy sục khí. Do mức tiêu thụ oxy gần các khu vực cho ăn tự động tăng lên, các thiết bị sục khí có cánh tay dài gần khu vực cho ăn là cần thiết để giúp duy trì mức oxy hòa tan đầy đủ. Kinh nghiệm thực địa cho chúng ta biết rằng phạm vi độ sâu nước tốt nhất cho một máy cho ăn tự động trong ao không có sục khí là 1,00 đến 1,30 mét, trong khi trong các ao thâm canh có sục khí mạnh, phạm vi tốt nhất là 1,40 đến 1,60 mét. Độ sâu đồng đều của nước và nồng độ oxy hòa tan trong khu vực cho ăn tự động dẫn đến sự phân bố tối ưu của quần thể tôm trong ao.

Theo kết quả thực nghiệm, máy làm việc với công suất thích hợp sẽ làm cho tăng trưởng tôm, FCR và tỷ lệ sống của tôm tốt hơn. Ví dụ, trong sản xuất tôm bán thâm canh trong các ao lớn (trên 4,0 ha.), Sinh khối tối đa được đề nghị cho ăn tự động là 2.000 kg tôm trên mỗi phễu, để nuôi thâm canh trong các ao nhỏ (dưới 1,0 ha.) có sục khí mạnh, sinh khối được khuyến nghị tối đa là 4.000 kg tôm trên mỗi phễu. Vượt quá khả năng sinh khối của máy cho ăn tự động có thể dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp hơn, FCR cao hơn và tỷ lệ sống của tôm thấp hơn, chủ yếu là do chất lượng nước và đất bị suy giảm nhanh hơn, sự gia tăng chất hữu cơ và nồng độ oxy thấp. Ngoài ra, công suất phễu cao hơn bình thường sẽ làm giảm tuổi thọ của pin, động cơ và các bộ phận khác của máy.

Trong quá trình nuôi tôm và sau khi thu hoạch, khu vực cho ăn tự động đòi hỏi phải xử lý sinh học. Ứng dụng thích hợp của các vi khuẩn có lợi, như Bacillus subtilis và Lactobacillus spp là cần thiết để giữ cho đất ao và nước trong điều kiện tối ưu và hỗ trợ sản xuất tôm ổn định theo thời gian.

Đánh giá các phương pháp cho ăn tự động

Chiến lược được một số nhà sản xuất tôm ở Ecuador sử dụng để giảm chi phí đầu tư vào thiết bị liên quan đến cho ăn tự động là thiết lập bộ nạp phát hiện âm thanh để theo dõi hoạt động cho tôm ăn, sau đó sử dụng thông tin này với người cho ăn tự động và bộ hẹn giờ trong một khu vực nhất định của trang trại. Lập trình các máy cấp liệu tự động với bộ hẹn giờ theo đường cong tiêu thụ thức ăn bằng cảm biến âm thanh (hydrophones) để phát hiện âm thanh của hoạt động cho tôm ăn. Sau đó, tiêu thụ thực phẩm được kiểm soát bằng các nhá cho ăn nằm gần các máy cho ăn tự động. Các thử nghiệm được thực hiện trong quá trình nuôi tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương thâm canh tại các trang trại ở Thái Lan cho thấy lợi thế của việc sử dụng thức ăn tự động so với cho ăn bằng tay, với kết quả tốt nhất thu được khi cho ăn tự động bằng phát hiện âm thanh bằng hydrophones.

Hệ thống cho tôm ăn bằng cảm biến âm thanh (AQ1) phát huy hết tính năng mà không giới hạn diện tích ao nuôi tôm, bởi vậy nông dân nuôi tôm nhỏ lẻ cũng hưởng lợi từ hệ thống này. Dù diện tích ao nuôi 1 ha hay 1.000 ha đều thu được lợi ích như tỷ lệ tăng trưởng, hệ số FCR thấp, tỷ lệ sống cao và năng suất thu hoạch cao như nhau. Hệ thống AQ1 tại các trại nuôi ở Ecuador và Mexico chạy bằng năng lượng mặt trời nên tiết kiệm được chi phí năng lượng, gần đây hệ thống cải tiến có lắp đặt thêm thiết bị cảm biến mưa và tôm vẫn được cho ăn hiệu quả tới khi mưa to kết thúc.

Triển vọng

Do có sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố (chất lượng thức ăn, đường kính, khoảng cách với mặt mước, độ ẩm, nhiệt độ, thiệt kế của máy) nên không có mối tương quan chặt chẽ giữa mức tiêu thụ thực phẩm và nhiệt độ nước hoặc nồng độ oxy hòa tan. Cần có thêm nhiều nghiên cứu với người cho ăn và cảm biến chất lượng nước để hiểu rõ hơn và dự đoán hoạt động sinh trưởng của tôm vào các thời điểm khác nhau trong ngày/đêm và giữa các mùa. Ngoài ra các việc sử dụng các cảm biến cho các thông số khác nhau của nước chẳng hạn như nồng độ oxy hòa tan, nhiệt độ, pH, độ kiềm và mưa có thể giúp quản lí thức ăn hiệu quả hơn và giảm chi phí nuôi tôm.

Đặng Tuấn – https://tepbac.com/

Một số biện pháp chống nóng cho thủy sản

Vào mùa hè, nắng nóng kéo dài hoặc mưa gió bất thường sẽ khiến các yếu tố môi trường ao nuôi thay đổi đột ngột, dẫn đến thủy sản nuôi bị sốc hoặc phát sinh bệnh, ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng nuôi.

Thủy sản nuôi là động vật thuộc nhóm máu lạnh nên điều kiện nhiệt độ môi trường nước ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của chúng. Thân nhiệt của cá, tôm thay đổi theo nhiệt độ nước, thường chỉ chênh lệch với nhiệt độ nước khoảng 0,10C, lúc môi trường nước giảm hay tăng đột ngột có thể kích thích dây thần kinh da làm mất khả năng điều tiết hoạt động của các cơ quan, phát sinh ra bệnh có thể gây chết hàng loạt.

Dưới đây là một số biện pháp chống nóng cho cá, tôm nuôi vào mùa hè nhằm hạn chế tối đa những thiệt hại có thể xảy ra:

Cơ sở sản xuất giống

Bố trí ao nuôi có điều kiện tốt nhất, bổ sung nước thường xuyên cho ao nuôi, đảm bảo số lượng nước, chất lượng nước. Có thể làm mái che bằng lưới đen để giảm ánh nắng chiếu trực tiếp xuống ao nuôi làm ảnh hưởng đến sức khỏe của đàn cá bố mẹ. Tăng cường công tác phòng bệnh tổng hợp vào thời điểm nắng nóng.

Với ao ương, đảm bảo bổ sung nước thường xuyên; chăm sóc và quản lý tốt các ao ương cá giống; tính toán mật độ nuôi phù hợp; khuyến khích dùng các chế phẩm sinh học xử lý môi trường. Định lượng thức ăn hàng ngày cho từng đối tượng nuôi, theo dõi, điều chỉnh lượng thức ăn theo diễn biến thời tiết, tránh dư thừa thức ăn, gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến chất lượng giống thủy sản.

Những ngày nắng nóng cao điểm, không nên xuất bán hay vận chuyển cá giống thủy sản. Khi có sự cố xảy ra cần báo cho ngành chức năng, theo dõi quy định trong sản xuất giống thủy sản để có những biện pháp ứng phó.

 

Nuôi ruộng

Cần bảo đảm lượng nước đầy đủ, tránh nước rò rỉ bằng cách đóng cống, nén chặt bờ. Đào mương hoặc tạo các chỗ trũng trong ruộng làm nơi trú ẩn cho thủy sản vào những ngày nắng nóng kéo dài và cũng là nơi tập trung cho ăn, thu hoạch. Nếu ruộng nhỏ, đào một chỗ trũng, nếu là ruộng to đào 2 – 3 chỗ trũng ở giữa ruộng hoặc rìa ruộng, diện tích chỗ trũng chiếm 2 – 3% tổng diện tích ruộng.

Nuôi trong ao, hồ nhỏ

Duy trì mực nước trong ao từ 1,5 – 2 m trong suốt mùa hè, đồng thời thả bèo tây trên mặt ao chiếm khoảng 1/3 diện tích để làm chỗ trú. Nâng cao sức khỏe cho thủy sản bằng cách: Sử dụng các loại thức ăn chất lượng cao, thường xuyên bổ sung các loại vitamin, khoáng chất vào thức ăn liều lượng 3 – 5 g/100 kg cá/ngày để tăng cường sức đề kháng cho vật nuôi; giảm khẩu phần cho ăn xuống khoảng 50 – 60% vào những ngày nắng nóng có nhiệt độ nước trên 350C.

Đảm bảo mật độ nuôi hợp lý, nguồn nước sạch, không bị ô nhiễm, tránh nguồn nước thải sinh hoạt. Đồng thời, thường xuyên kiểm tra ao nuôi, theo dõi thủy sản trong ao, nếu có hiện tượng bất thường cần có biện pháp xử lý kịp thời.

Trong những ngày nắng nóng cần giảm lượng thức ăn từ 30 – 40% hoặc cắt bỏ bữa ăn vào buổi trưa, khẩu phần ăn cần bổ sung thêm các vitamin, khoáng chất… để tăng sức đề kháng cho thủy sản nuôi. Tăng cường sử dụng chế phấm vi sinh nhằm cải thiện chất lượng nước, hạn chế việc thay nước thường xuyên. Chủ động thu hoạch thủy sản nuôi đạt kích thước thương phẩm ngay sau khi thiếu nước, hạn hán xảy ra.

 

Nuôi lồng bè

Vệ sinh lồng bè thường xuyên, đảm bảo lồng nuôi thông thoáng, sạch sẽ để nước trong và ngoài lồng được lưu thông. Kiểm tra, tu sửa lại những nơi xung yếu bảo đảm lồng vững chắc, di chuyển lồng về nơi râm mát. Nếu không di chuyển được cần hạ thấp lồng xuống, đảm bảo độ sâu của lồng luôn ở mức 2,5 – 3 m. Nên dùng vôi bột cho vào túi vải treo ở các góc lồng nuôi để phòng bệnh.

Nâng cao sức khỏe cho thủy sản nuôi trong lồng bằng cách bổ sung Vitamin B1, C vào thức ăn, cho cá ăn 2 lần/ngày lúc sáng sớm và chiều mát. Với những ngày nắng nóng có nhiệt độ nước trên 350C thì giảm khẩu phần ăn hoặc ngừng cho ăn.

Bình An – http://thuysanvietnam.com.vn/

Các trường hợp “Bệnh đốm trắng” trên tôm nuôi

ào giai đoạn giao mùa như hiện nay, tôm nuôi bắt đầu bước vào giai đoạn xuất hiện bệnh đốm trắng. Khác với bệnh hoại tử gan tụy cấp AHPND xảy ra tập trung vào mùa nắng nóng, bệnh đốm trắng ngược lại xảy ra ở giai đoạn mùa lạnh, khi nhiệt độ xuống thấp dưới 32 độ C.

Bệnh đốm trắng được biết đến từ lâu và là một bệnh nguy hiểm cho nghề nuôi tôm. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào tôm bị đốm trắng cũng gây ra tình trạng chết cấp tính (có thể đạt đến tỷ lệ chết 100%) trong vòng 2 – 3 ngày.

Vào năm 1997, bằng những nghiên cứu thực nghiệm tại Thailand, giáo sư Chalor Limsuwan và cộng sự tại trường Đại học Kasesart đã xác định và mô tả kỹ bốn trường hợp tôm bị bệnh đốm trắng khác nhau.

Với những thông tin bên dưới, hy vọng có thể hỗ trợ người nuôi có thể xác định rõ các vấn đề về đốm trắng nếu gặp phải trong ao nuôi của mình, qua đó có thể đưa ra những quyết định đúng đắn nhất.

TRƯỜNG HỢP 1:

Nếu phát hiện tôm bệnh tấp mé ở giai đoạn trong tháng nuôi đầu đến 12 gram có những đốm trắng rõ ràng dưới vỏ đầu ngực và trên đốt bụng (đặc biệt ở đốt đuôi), ngoài ra tôm giảm ăn rõ rệt, kiểm tra PCR sau đó cho kết quả dương tính và kiểm tra mô học cho thấy mô bị nhiễm virus đốm trắng điển hình thì không thể làm bất cứ gì cho trường hợp này. Mọi nỗ lực khống chế bệnh hầu như đều không mang lại hiệu quả vì những con tôm khỏe mạnh bắt đầu ăn những con tôm chết, chúng sẽ nhanh chóng bị nhiễm virus đốm trắng và chết cấp tính với tỷ lệ cao – có thể đạt 100% – ngay sau đó trong 02 – 03 ngày.

ảnh bệnh đốm trắng trên tôm

TRƯỜNG HỢP 2:

Tôm nuôi xuất hiện những đốm trắng trên vỏ đầu ngực nhưng vẫn ăn bình thường, trong trường hợp này, có khả năng đàn tôm không nhiễm virus đốm trắng. Điều này càng đặc biệt đúng, nếu như người nuôi không phát hiện có tôm yếu tấp mé. Kiểm tra PCR những con tôm “bị đốm trắng” này cho kết quả âm tính. Kiểm tra mô bệnh học cho thất các mô bình thường.

Trong trường hợp này, có thể các đốm trắng trên vỏ đầu ngực của tôm là kết quả của quá trình lắng đọng can – xi trên vỏ đầu ngực do tôm phải sống trong môi trường ao nuôi với pH cao kéo dài, pH buổi sáng thường đo được ở mức 8,3. Trong trường hợp này, cần hạ pH xuống dưới mức 8,0 nhưng phải trên 7,5 vào buổi sáng. Bằng cách này, trong lần lột xác kế tiếp, đốm trắng sẽ biến mất một cách tự nhiên. Hiện tại công ty sinh học tôm vàng cung cấp sản phẩm vitamin C15 hạ pH an toàn cho tôm.

TRƯỜNG HỢP 3:

Nếu tôm cập mé xuất hiện đốm trắng cùng với màu sắc nâu sậm hoặc mang dơ thì đấy không phải là do tôm bị nhiễm virus đốm trắng. Mặc dù tôm có thể giảm ăn nhẹ, nhưng phần lớn đàn tôm vẫn ăn bình thường. Kiểm tra PCR và mô học không phát hiện virus đốm trắng, tuy nhiên sẽ có sự xuất hiện của vi khuẩn trên nhiều cơ quan khác nhau của tôm. Trong trường hợp này, biện pháp tốt nhất là cố gắng loại bỏ hoàn toàn những con tôm bệnh ra khỏi ao nuôi và tiến hành cải thiện triệt để môi trường (chẳng hạn như giảm chất thải, giảm tảo …).

TRƯỜNG HỢP 4:

Thỉnh thoảng khi chài tôm, người nuôi thấy vài con tôm có hiện tượng đốm trắng trên vỏ đầu ngực. Tuy nhiên, những con tôm này vẫn hoạt động bình thường, không tấp mé và ăn tốt. Chúng thường xuất hiện ở giai đoạn cuối vụ nuôi trước khi thu hoạch. Kiểm tra PCR đốm trắng những con tôm này cho kết quả âm tính. Sau khi lột xác, đốm trắng hoàn toàn biết mất.

Nguồn: What kind of white spot kills shrimps  – Chalor Limsuwan – Khoa thủy sản – Đại học Kasesart – Thailand.  AAHRI Mewsletter Article – Volume 6 No.2, tháng 12/1997.

Dịch bởiKS NGUYỄN THÀNH QUANG THUẬN

Kiên Giang: Bùng phát dịch bệnh trên tôm nuôi

tôm chết
Chỉ hơn 10 ngày, Kiên Giang đã phát hiện thêm 79 ổ dịch đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi, với tổng diện tích thiệt hại hàng trăm ha. Ảnh: Trung Chánh.

 

Hạn hán và xâm nhập mặn đang ở giai đoạn đỉnh điểm, rất gay gắt, làm bùng phát dịch bệnh trên tôm nuôi.

Ông Nguyễn Đình Xuyên, Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi – Thú y Kiên Giang cho biết, từ ngày 19-31/3, đơn vị đã phát hiện thêm 79 ổ dịch đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi, với tổng diện tích thiệt hại được ghi nhận là 184,5 ha. Lũy kế từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 166 dịch bệnh tôm nuôi, với tổng diện tích thiệt hại 380 ha. Trong đó, đốm trắng là 287 ha, hoại tử gan tụy cấp tính 25 ha, sốc môi trường 67 ha.

Hầu hết các huyện, thành phố có nuôi tôm đều xảy ra dịch bệnh, gồm: An Biên, An Minh, Hòn Đất, Kiên Lương, Gò Quao, Vĩnh Thuận và Hà Tiên.

Ngoài ra, theo ghi nhận từ Phòng NN-PTNT các huyện, có 670 ha tôm nuôi bị thiệt hại do yếu tố môi trường bất lợi, 76 ha bị thiệt hại nghi do bệnh đốm trắng, 12 ha thiệt hại nghi do bệnh hoại tử gan tụy cấp tính tại huyện Vĩnh Thuận và Kiên Lương.

Hiện nay, hạn hán và xâm nhập mặn đang ở giai đoạn đỉnh điểm, rất gay gắt, khả năng kéo dài. Cùng với việc một số vùng nuôi đã bắt đầu xuất hiện những cơn mưa trái mùa vào buổi chiều hoặc tối, làm biến động đột ngột các yếu tố môi trường trong ao nuôi, ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của tôm. Đây là điều kiện thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh phát triển nên nguy cơ xảy ra thiệt hại do biến động bất lợi của các yếu tố môi trường và dịch bệnh trong thời gian tới là rất cao.

Do đó, người nuôi tôm cần thường xuyên kiểm tra các chỉ số môi trường, để kịp thời phát hiện và có biện pháp can thiệp nhằm hạn chế thiệt hại. Gia cố bờ bao, cống để tránh hiện tượng rò rỉ, thẩm lậu nước ra ngoài. Cần phải bố trí ao chứa, ao lắng để dự trữ nước nhằm chủ động trong việc thay nước bổ sung vào ao nuôi khi cần thiết.

Duy trì mực nước trong ao thích hợp với từng hình thức nuôi để hạn chế sự biến động đột ngột của các yếu tố môi trường, gây sốc cho tôm nuôi. Đối với ao nuôi thâm canh, bán phân canh phải duy trì nước trong ao tối thiểu từ 1,3 – 1,5 m, nuôi tôm – lúa, quảng canh cải tiến cần thiết phải duy trrì mực nước cao tối thiểu là 0,5 m tính từ mặt ruộng.

Đ.T.CHÁNH Nông nghiệp Việt Nam

Nuôi tôm trong hồ lót bạt: Năng suất cao, không lo dịch bệnh

Được sự hỗ trợ kinh phí của Sở KH&CN TPHCM, HTX Thuận Yến (xã An Thới Đông, Cần Giờ) đã đầu tư kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh hai giai đoạn trong hồ tròn lót bạt HDPE. Mô hình này giúp tôm có tỉ lệ sống trên 80% và cho năng suất cao hơn cách nuôi ao truyền thống từ 30 – 40%.

Rủi ro từ ao nuôi truyền thống
Huyện ven biển Cần Giờ của TPHCM hiện có 4.800 ha diện tích tôm thẻ chân trắng với sản lượng 1.110 tấn/năm. Thời gian qua, TPHCM đã có nhiều chính sách và chương trình phát triển thủy sản trên địa bàn và tôm thẻ chân trắng vẫn được xem là một đối tượng chủ lực. Ngoài cách nuôi kết hợp rừng sinh thái, nuôi ruộng, quảng canh cải tiến, thâm canh, bán thâm canh…, nghề nuôi tôm tại Cần Giờ hiện nay vẫn đang sử dụng quy trình nuôi tôm truyền thống trong ao đất hoặc ao đất lót bạt với nhiều rủi ro do tác động từ môi trường bên ngoài vào ao nuôi.
Để hạn chế những nhược điểm của cách nuôi tôm truyền thống, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao thuộc Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TPHCM đã triển khai nhiệm vụ khoa học “nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh hai giai đoạn trong hồ tròn lót bạt HDPE” tại HTX Thuận Yến.
Nhiệm vụ nằm trong Chương trình Hỗ trợ kinh phí chuyển giao ứng dụng tiến bộ KH&CN trong nông nghiệp của Sở KH&CN TPHCM, mức hỗ trợ tối đa 300 triệu đồng/dự án.
Hồ nuôi tôm

Nuôi tômthẻ chân trắng trong hồ tròn lót bạt HDPE tại HTX Thuận Yến. Ảnh: AHRD
ThS Nguyễn Thị Loan, Chủ nhiệm nhiệm vụ, cho biết, nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh hai giai đoạn trong hồ tròn lót bạt HDPE khắc phục được những hạn chế so với phương pháp nuôi truyền thống như không sử dụng kháng sinh trong quá trình nuôi; thời gian nuôi mỗi giai đoạn ngắn nên hạn chế được rủi ro; dễ dàng trong việc vệ sinh, thay nước hồ nuôi. Ngoài ra, do hồ có dạng hình tròn, nước và thức ăn lưu thông đều, không tạo góc chết. Bên cạnh đó, việc sử dụng nhà màng đã hạn chế những tác động bất lợi từ môi trường bên ngoài vào hồ nuôi. Nước thải của hồ nuôi được xử lý tuần hoàn tại chỗ; chất thải được thu gom và tái chế làm phân bón cho cây trồng.
Không lo dịch bệnh, thời tiết
Hệ thống nuôi tôm theo quy trình này gồm hai hồ lắng thô (cấp 1 và cấp 2) lấy nước từ biển, thông qua ống lọc có gắn túi lọc (2 lớp) dùng để trữ nước và làm sạch tự nhiên. Sau đó, nước được chuyển qua hồ lắng tinh, tiếp tục được xử lý qua 2 túi lọc. Hồ lắng tinh được lót bạt ở đáy, có độ sâu từ 2 đến 3 mét. Tại đây, sau khi kiểm tra các chỉ tiêu môi trường (pH, kiềm, Mg, Ca, NH3, NO2), khuẩn Vibrio gây hại, nước mới được cấp cho hồ nuôi thương phẩm. Hồ nuôi được thiết kế dạng hình tròn, nổi trên mặt đất và lót bạt HDPE với diện tích 500 m2, có mái che bằng lưới xung quanh để giảm bớt ánh sáng cũng như giữ nhiệt độ nước không tăng quá cao trong những ngày nắng nóng. Trước khi chuyển đến hồ nuôi, tôm phải được ương từ hồ ương trong thời gian 1 tháng. Hồ ương diện tích 100m2 cũng được thiết kế dạng hình tròn, nổi trên mặt đất và lót bạt HDPE.
Ngoài ra, hệ thống còn bao gồm các mương cấp nước được bố trí gần nguồn nước và hồ lắng thô, có vị trí lắp đặt máy bơm thuận lợi cho việc cấp nước vào hồ lắng thô. Mương xả nước được bố trí gần hồ nuôi vào hồ ương. Các chất thải từ hệ thống siphon (thiết bị hút chất thải dưới đáy ao) được đưa về hồ chứa chất thải và xử lý theo quy định trước khi thải ra môi trường.
Tôm được kiểm tra thường xuyên trong quá trình nuôi

Tôm được kiểm tra thường xuyên trong quá trình ương, nuôi. Ảnh: AHRD
Bà Nguyễn Thị Nhiệm, Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX Thuận Yến, cho biết, năm 2019, mô hình đã nuôi thử nghiệm khá thành công với 2 hồ nuôi tôm, mỗi hồ diện tích 500m2. Tôm nuôi phát triển tốt, tỷ lệ sống trên 80%. Sau gần 3 tháng ương và nuôi có thể thu hoạch tôm với sản lượng 6 tấn/1000m2/vụ. Năng suất này cao hơn ở ao nuôi đất truyền thống từ 30 – 40% (trên cùng diện tích nuôi). Sản phẩm sau thu hoạch có độ đồng đều cao, tôm có kích thước lớn 30 con/kg, đạt yêu cầu của thị trường tiêu thụ.
Theo bà Nhiệm, ở mô hình này, người nuôi tôm sẽ giảm thiểu rủi ro dịch bệnh vì quản lý được các chỉ tiêu môi trường, hạn chế những ảnh hưởng xấu của thời tiết. Ngoài ra, nếu nuôi liên tục, có thể nuôi được 4 – 5 vụ/năm. Trong khi đó, nuôi trong ao đất truyền thống thường chỉ 3 vụ/năm.
Tuy nhiên, kinh phí đầu tư cơ sở vật chất ban đầu cho mô hình này khá cao – gần 600 triệu đồng – đang là trở ngại cho các hộ nông dân nuôi tôm muốn chuyển đổi sang mô hình nuôi này, ThS Loan chia sẻ.
Kiều Anh  -https://khoahocphattrien.vn/

Bệnh vi bào tử trùng trên tôm thẻ chân trắng

Kể từ khi Cục thủy sản (Department of Fisheries) – thuộc Bộ Nông Nghiệp Thái Lan (Ministry of Agriculture and Cooperatives) cho phép nhập khẩu tôm chân trắng để nuôi thương phẩm vào năm 2012, sản lượng tôm chân trắng nuôi thâm canh đã tăng trưởng dữ dội.

Bất chấp ảnh hưởng của bệnh tôm do virus như đốm trắng, đầu vàng và Taura – nguyên nhân gây thất mùa nghiêm trọng tại một số vùng nuôi – sản lượng tôm chân trắng năm 2009 đã đạt đến 540.000 tấn.

Một bệnh khác là bệnh vi bào tử trùng gây ra bởi ký sinh trùng Microsporidian mặc dù không có tỷ lệ chết nghiêm trọng nhưng tôm bị nhiễm bệnh thường có màu sắc cơ trắng đục đã gây ra những thiệt hại kinh tế đáng kể cho người nuôi. Tần suất phổ biến cao của bệnh do vi bào tử trùng đối với các quần thể tôm hoang dã đã được báo cáo phát hiện trên một số giống tôm he. Tôm bệnh được xác định bằng dấu hiệu biến đổi màu sắc cơ thịt sang dạng trắng sữa hoặc mờ đục. Tôm bệnh do vi bào tử trùng được biết đến với tên tiếng Anh là “cotton shrimp” (tôm bông gòn) hoặc “Milky shrimp” (tôm sữa) và tiếng Thái là “White back” (tôm lưng trắng) (Donyadol và cộng sự, 1985; Limsuwan, 1991; Flegel và cộng sự, 1992). Ở Thái Lan, vi bào tử trùng phân lập từ tôm sú (Black tiger shrimp – Penaeus monodon) và tôm bạc thẻ (banana shrimp – Penaeus merguiensis) bị bệnh bước đầu được xác định là Agmasoma (Thelohania) panaei (Flegel và cộng sự, 1992). Trên tôm chân trắng, bệnh do vi bào tử trùng được báo cáo từ những ao nuôi thâm canh ở khu vực ven biển vào năm 2006.

DẤU HIỆU LÂM SÀNG

Tôm được phát hiện nhiễm vi bào tử trùng microsporidian lần đầu vào giai đoạn 15 – 20 ngày sau khi thả giống trong ao nuôi. Tôm nhiễm bệnh có nhiều phần trên cơ thể chuyển sang màu trắng đục hay màu sữa. Khi tôm lớn dấu hiệu lâm sàng này càng dễ dàng quan sát hơn, đặc biệt ở phần lưng từ gan tụy đến phần giữa thân. Tuy nhiên, vài con cũng bị đục cơ ở phần đốt cuối cơ thể (Hình 1).

Hình 1

Những đám, vệt lớn màu trắng đục trên những con tôm bị nhiễm bệnh cho thấy chúng thay thế cơ thịt cũng như những cơ quan khác như gan tụy, dạ dày và cơ quan bạch huyết (Lymphoid organ) (Hình 2).

Hình 2

Quan sát dưới kính hiển vi điện tử cho thấy mỗi túi bào tử chứa (sporophorous vesicle) chứa tám bào tử Thelohania hoặc Agmasoma (Hình 3) tương tự như vi bào tử trùng microsporidian trong báo cáo trước đây trên tôm sú của tác giả Limsuwan (1991), Flegel và cộng sự (1992). Quan sát dưới kính hiển vi điện tử cho thấy những khối lớn màu trắng chứa nhiều túi bào tử.

Hình 3

SỰ THAY ĐỔI MÔ BỆNH HỌC CỦA TÔM BỊ NHIỄM VI BÀO TỬ TRÙNG

Sự thay đổi mô bệnh học trên những con tôm bị bệnh từ hệ gan tụy và cơ thịt của nhóm tôm bị nhiễm bệnh sau 30 ngày thả nuôi cho thấy những đám màu trắng lớn của vi bào tử trùng microsporiadian dần dần thay thế hệ gan tụy và các cơ quan khác bao gồm dạ dày và phần cơ bụng trong khi nhóm những con tôm bị nhiễm vi bào tử trùng ở phần cơ cho thấy cơ bị thay thế dần bởi vi bào tử trùng. Ở giai đoạn 45, 60, 75, 90, 105 và 120 ngày tuổi thay đổi mô bệnh học cho thấy sự lây nhiễm vi bào tử trùng càng trở nên nghiêm  trọng hơn khi chúng gần như thay thế hoàn toàn hệ gan tụy. Ống gan tụy của những con tôm bị nhiễm bệnh nặng bị giãn rộng và hoại tử.

SỰ LƯU HÀNH VÀ TÍNH NGHIÊM TRỌNG CỦA BỆNH

Sự lưu hành của bệnh vi bào tử trùng được quan sát trong 03 ao nuôi tôm thâm canh tôm thẻ chân trắng không xử lý nước để loại bỏ cá khi thả nuôi cho thấy tỷ lệ lưu hành bệnh cao nhất là 25 – 28% ở giai đoạn 60 ngày tuổi (Bảng 1). Sau đó, tỷ lệ bệnh giảm nhẹ ở giai đoạn 80 – 90 ngày tuổi và đột ngột suy giảm nhanh chóng ở giai đoạn 105 ngày tuổi. Khi tôm được thu hoạch, tỷ lệ nhiễm bệnh chỉ còn 3.0 – 4.2%. Sau khi bệnh xuất hiện lần đầu tiên sau thả giống 15 – 20 ngày, số lượng tôm nhiễm bệnh quan sát được ngày càng tăng cho đến 60 ngày tuổi có thể bởi vì ở tôm lớn thì vi bào tử trùng thay thế phần lớn cơ thịt và các cơ quan khác, do đó mà những mảng trắng đục sẽ dễ dàng quan sát hơn trên tôm còn nhỏ. Điều này rất đáng quan tâm vì tỷ lệ phần trăm tôm bệnh quan sát trong sàng ăn tăng trong suốt vụ nuôi. Tôm bị nhiễm vi bào tử trùng microsporodian nặng thường bị mềm vỏ và chậm lớn hơn những con tôm mạnh khỏe. Tỷ lệ phần trăm tôm bị nhiễm bệnh trong sàng ăn và trong chài kiểm tra cũng được so sánh, kết quả chỉ ra rõ ràng rằng tỷ lệ phát hiện tôm bệnh trong chài thắp hơn rất nhiều so với tỷ lê tôm bệnh trong sàng ăn. Điều này cho thấy những con tôm bị bệnh thì không thể cạnh tranh với những con tôm mạnh khỏe trong thời gian cho ăn, vì thế chúng thường tìm đến sàng ăn. Chính vì thế mà việc đánh giá tỷ lệ tôm bệnh bằng cách chài sẽ chính xác hơn là đánh giá qua sàng ăn.

Bảng 01 – Tỷ lệ nhiễm bào tử trùng microsporidian trên tôm chân trắng trong 120 ngày nuôi

Chú thích:

A – Vi bào tử trùng nhiễm trên hệ gan tụy và cơ lưng bụng.

B – Vi bào tử trùng chỉ nhiễm trên cơ lưng bụng.

Tỷ lệ lưu hành bệnh đat đến 28% ở ao 03 sau 60 ngày thả nuôi. Sau 60 ngày, những con tôm bị nhiễm bệnh nặng sẽ chết dần vì các cơ quan bao gồm hệ gan tụy, cơ quan bạch huyết, dạ dày và cơ lưng bụng bị hư tổn nghiêm trọng dẫn đến việc suy giảm chức năng sinh lý bình thường của tôm và bị ăn bởi những con tôm khỏe mạnh khác. Hơn nữa, sau 60 ngày thì không còn xuất hiện tôm mới bị nhiễm bệnh do đó tỷ lệ nhiễm bệnh không gia tăng khi chài kiểm tra và khi thu hoạch thì không phát hiện dấu hiệu lâm sàng ban đầu của tôm bị nhiễm bệnh mặc dù nước từ ao chứa được sử dụng để thay nước trong quá trình nuôi không được xử lý.

Kết quả nghiên cứu này chỉ ra rằng sự nhiễm vi bào tử trùng xảy ra sau giai đoạn lây nhiễm bào tử ở giai đoạn tôm giống (bào tử bị ăn bởi tôm giống). Điều kiện môi trường trong giai đoạn giống phù hợp hơn cho sự lây nhiễm vi bào tử trùng so với điều kiện môi trường sau 60 ngày thả nuôi hoặc cũng có thể tôm lớn có khả năng đề kháng tốt hơn với vi bào tử trùng.

ẢNH HƯỞNG CỦA BỆNH ĐẾN TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG

Báo cáo của Prasertsri và cộng sự cho thấy tôm thẻ chân trắng bị nhiễm vi bào tử trùng trên gan tụy và trên cơ bụng đều có trọng lượng thấp nhất một cách có ý nghĩa so với tôm chỉ bị nhiễm trên cơ bụng và tôm khỏe mạnh tại thời điểm lấy mẫu là giai đoạn 45 ngày sau khi thả giống và trong suốt thời gian 120 ngày nuôi. Tôm chỉ bị nhiễm vi bào tử trùng trên cơ bụng thì có trọng lượng thấp hơn một cách có ý nghĩa so với tôm mạnh khỏe. Tôm bị bệnh nặng, đặc biệt là với những con bị nhiễm trên cả hệ gan tụy và cơ thì bị mềm vỏ và chậm phát triển hơn so với những nhóm còn lại. Mặc khác những con tôm bị bệnh nặng rất yếu vì vi bào tử trùng đã xấm chiếm phần lớn hệ gan tụy và những cơ quan cần thiết cho sự sống quan trọng khác. Chính vì thế mà tôm sẽ giảm ăn, giảm trao đổi chất và chậm phát triển. Khi tôm vào giai đoạn tuổi 75 – 105 ngày, tỷ lệ lưu hành bệnh giảm rõ rệt trong chài kiểm tra vì chúng đã chết dần và bị ăn thịt bởi những con tôm khỏe mạnh. Sau khi thu hoạch vào ngày 120, sản lượng và tỷ lệ sống có liên quan đến tỷ lệ cảm nhiễm vi bào tử trùng. Ao 2 có sản lượng cao nhất vì tỷ lệ nhiểm bệnh thấp nhất.

GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA BỆNH VI BÀO TỬ TRÙNG

Calcium hypochloride (chlorine) ở nồng độ 18 mg/l (ppm) dùng sử lý nước có hiệu quả đối với bào tử microsporidian. Tỷ lệ lưu hành bệnh khách biệt có ý nghĩa giữa ao được xứ lý nước (5,4%) so với ao không xử lý nước (25,2%). Tuy nhiên, một số bào tử vi bào tử trùng vẫn sống sót bất chấp tác dụng của chlorine (Limsuwan và cộng sự, 2008). Hàm lượng cao của cặn bã và vật chất hữu cơ có thể làm giảm độc lực của chlorine và qua đó cũng giảm tác dụng tiêu diệt các giai đoạn cảm nhiễm của vi bào tử trùng. pH cao cũng là nguyên nhân làm giảm độc lực của chlorine (Zillich, 1972; Floyd, 1979). Giải pháp ngăn ngừa bệnh này bao gồm cả việc loại bỏ những vật chủ trung gian mang mầm bệnh đặc biệt là các loài cá trong những vùng nuôi tôm đã bùng phát bệnh trước đó trước khi thả giống.

Bài viết được thực hiện bởiGSTS Chalor Limsuwan – Trung tâm nghiên cứu thương mại thủy sản (ABRC) – Khoa thủy sản – Trường Đại học Kasesart – Thailand
Nguồn: http://www.asianaquaculturenetwork.com

Lược dịch bởiKS NGUYỄN THÀNH QUANG THUẬN – https://sinhhoctomvang.vn/

Hóa chất PAC là gì? Ứng dụng phổ biến trong nuôi tôm

Hóa chất PAC được sử dụng phổ biến trong đời sống, đặc biệt trong xử lý nước, sản phẩm được sản xuất bởi nhiều nước khác nhau như Việt Trì, Trung Quốc, Séc, Nhật Bản, Ấn Độ,.. Ở bài viết này sẽ giúp bà tìm hiểu hóa chất PAC là gì và những ứng dụng tuyệt vời của PAC trong nuôi tôm

Định nghĩa hóa chất PAC là gì?

Hóa chất keo tụ PAC (poly aluminium chloride) có công thức phân tử là [Al2(OH)nCl6-n]m. Đây là loại hóa chất keo tụ, chất trợ lắng trong xử lý nước cấp, nước thải và nước nuôi trồng thủy sản. Sản phẩm giúp kết lắng các hợp chất keo tụ và các chất lơ lửng, giúp loại bỏ hoàn toàn các chất hữu cơ, vi khuẩn, virus có trong nước.

Thành phần PAC có chứa đến 28 – 32 % hàm lượng nhôm, đem đến khả năng keo tụ các loại chất bẩn có trong nước một cách hiệu quả mà không gây hại đến chất lượng nước và môi trường xung quanh. Hóa chất PAC tồn tại ở dạng bột và dạng lỏng. Dạng bột có màu vàng chanh, dạng lỏng có màu vàng nâu. Tùy vào nhu cầu sử dụng mà bạn có thể lựa chọn cho mình sản phẩm phù hợp.

Hóa chất keo tụ PAC dạng bột màu vàng chanh

Hóa chất keo tụ PAC dạng bột màu vàng chanh

Tính chất hóa học của PAC

Chắc hẳn đến đây bạn đã hiểu hóa chất PAC là gì? Bên cạnh đó, bạn cũng cần tìm hiểu chi tiết về những ưu điểm của hóa chất PAC, cụ thể như:

  • Sử dụng PAC giúp tăng độ trong của nước, kéo dài chu kỳ lọc, tăng chất lượng nước sau lọc hiệu quả.
  • PAC hoạt động tốt trong độ pH từ 6.5 – 8.5.
  • Vận chuyển, cất giữ và định lượng PAC một cách dễ dàng.
  • Dễ dàng hòa tan trong nước với bất kỳ tỷ lệ nào.
  • Thời gian keo tụ nhanh chóng.
  • Liều lượng sử dụng thấp, tiết kiệm chi phí, bông cặn to, dễ lắng.
  • Các thao tác sử dụng đơn giản, ai cũng có thể thực hiện được.
PAC sử dụng phổ biến trong xử lý nước

PAC sử dụng phổ biến trong xử lý nước

Ứng dụng hóa chất PAC trong nuôi tôm

  • Xử lý nước cấp, nước thải trong nuôi tôm.
  • Tăng hàm lượng oxy hòa tan trong nước, đồng thời giảm các khí độc NH3, NO2, H2S và COD.
  • Sản phẩm an toàn, không gây ảnh hưởng đến các sinh vật phù du và sinh vật đáy trong ao nuôi.
  • Ức chế tảo lam phát triển giúp tôm sinh trưởng nhanh, giảm hệ số thức ăn.
  • Tăng độ trong của nước, giúp tăng khả năng bắt mồi cho tôm, giảm hệ số thức ăn.

Liều lượng sử dụng

Liều lượng PAC sử dụng cho 1 m3 nước sông, ao, hồ là 1- 4 g PAC đối với nước đục thấp (50- 400 mg/l), là 5-6 g PAC đối với nước đục trung bình (500- 700 mg/l) và là 7- 10 g PAC đối với nước đục cao (800-1.200 mg/l).Hóa chất PAC Việt Trì cung cấp bởi Dr.Tom=> Lưu ý: PAC có hiệu quả mạnh nên chỉ cần một lượng nhỏ để xử lý nước, không nên dùng quá liều sẽ gây lãng phí. PAC chỉ được sử dụng trong xử lý nguồn nước cấp hoặc nước thải nuôi tôm. Tuyệt đối không sử dụng trong giai đoạn giữa và cuối của vụ nuôi.

Nguồn : https://drtom.vn/