Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Quản Lý Nuôi

Một số khuyến cáo khi nuôi tôm thẻ thời điểm giao mùa

Tôm thẻ chân trắng
Thường xuyên kiểm tra, theo dõi tôm đặc biệt trong thời điểm giao mùa.

Lưu ý khi nuôi tôm trong thời điểm giao mùa, điều kiện môi trường biến động lớn.

Cuối tháng 4 đầu tháng 5 là thời điểm giao mùa thường xuyên xuất hiện mưa lớn, giông lốc; biên độ dao động nhiệt độ giữa ngày và đêm rất cao, ban ngày có thể lên trên 32oC, về đêm giảm xuống dưới 22oC làm cho môi trường nước ao nuôi tôm luôn biến động. Điều này ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của tôm thậm chí có thể chết tôm tại các ao nuôi.

Vì vậy để giảm thiểu rủi ro, gây thiệt hại cho người nuôi tôm đặc biệt các ao đang nuôi tôm chuẩn bị thu hoạch, người nuôi cần chú ý:

Trong quá trình nuôi

1. Luôn đảm bảo mực nước trong ao luôn duy trì từ 1,8 -2 mét; Chạy sục khí, quạt nước đảm bảo oxy trong nước đạt trên 4mg/l.

2. Duy trì môi trường nước ao ổn định luôn đảm bảo pH 7,0-8,2; độ kiềm từ 120-180 mg/l; độ mặn trong khoảng 15-20‰.

3. Định kỳ 5-7 ngày bổ sung men vi sinh có gốc Bacillus để ổn định môi trường ao nuôi

4. Thức ăn cho tôm đảm bảo chất lượng ngoài ra bổ sung thêm các loại men vi sinh hỗ trợ tiêu hóa, khoáng vi lượng và một số vitamin C, B1 cần thiết để tăng sức đề kháng cho tôm.


Tạt khoáng để duy trì ổn định môi trường ao nuôi.

Khi gặp thời tiết bất lợi (mưa to, giông bão, nhiệt độ giảm thấp)

1. Tăng thời gian chạy sục khí, quạt nước.

2. Dừng hoặc giảm lượng thức ăn cho tôm ăn so với các bữa ăn trước. Thường xuyên kiểm tra, theo dõi tình hình sức khỏe, khả năng bắt mồi của tôm để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.

3. Bờ ao cao và chắc chắn đảm bảo nước mưa từ trên bờ không chảy xuống ao gây đục và ô nhiễm nước ao. Ngoài ra cần bổ sung thêm khoáng Dolomite và vôi CaO té đều khắp mặt ao để duy trì pH 7,0-8,2; độ kiềm từ 120-180 mg/l; độ mặn trong khoảng 15-20‰.

4. Khi thời tiết, môi trường nước ao nuôi ổn định tiến hành cho tôm ăn lại bình thường theo nhu cầu của tôm.

Xuân Trường Trung tâm Khuyến nông Quốc gia

Nuôi tôm không kháng sinh ở Khánh Hòa

nuôi tôm biofloc
Nhiều hộ nuôi của HTX Nuôi trồng thủy sản xã Ninh Phú kiếm tiền tỷ/năm. Ảnh: Minh Hậu.

Nuôi tôm thẻ an toàn sinh học, không sử dụng thuốc kháng sinh là hướng đi mới của người nuôi tại Khánh Hòa.

HTX Nuôi trồng thủy sản xã Ninh Phú, TX Ninh Hòa đang tiên phong khi đồng loạt nuôi tôm theo công nghệ Semi biofloc.

Mô hình nuôi bền vững

Ông Phạm Thanh Sinh, Phó Chủ tịch UBND xã Ninh Phú, TX Ninh Hòa cho biết, toàn xã có 110 ha nuôi tôm thẻ chân trắng. Những năm trước đây do ảnh hưởng biến đổi khí hậu, dịch bệnh diễn biến phức tạp nên việc nuôi tôm của người dân diễn ra không thuận lợi, nhất là nuôi tôm trên ao đất.

“Hầu hết người nuôi tôm trên ao đất trên địa bàn xã không hiệu quả kinh tế cao, nhiều người thiệt hại. Nguyên nhân do người nuôi thả nuôi không theo lịch thời vụ khuyến cáo và một số ít thả giống không có nguồn gốc.

Bên cạnh đó do hệ thống ao nuôi nhiều năm nên mầm bệnh tồn tại trong ao nhiều. Cộng với thời tiết diễn biến thất thường kết hợp với việc xử lý môi trường nước nuôi chưa triệt để, từ đó dễ phát sinh dịch bệnh”, ông Sinh đánh giá và cho biết thêm, để nuôi tôm bền vững hiện địa phương khuyến khích người nuôi áp dụng công nghệ nuôi tiên tiến như: Công nghệ Biofloc, Semi Biofloc…

Vì các thành viên thuộc HTX Nuôi trồng thủy sản xã Ninh Phú áp dụng công nghệ nuôi này rất hiệu quả. Không chỉ tạo ra sản phẩm tôm sạch do quá trình nuôi không dùng chất kháng sinh, mà còn góp phần bảo về môi trường.

“Bởi quá trình xả nước thải nuôi tôm ra môi trường được các hộ nuôi xử lý bài bản. Cụ thể, ban đầu nước thải ra ao chứa, sau đó đánh vôi xử lý, rồi ra ao nuôi thả cá, trước khi thả trực tiếp ra môi trường. Vấn đề này được cơ quan chức năng chuyên môn đánh giá cao”, ông Sinh bộc bạch.


Nhờ nuôi tôm an toàn sinh học, không sử dụng chất kháng sinh nên thương lái thu mua rất ứng ý. Ảnh: MH

Kiếm tiền tỷ

Ông Nguyễn Xuân Lê, Chủ tịch HĐQT HTX Nuôi trồng thủy sản xã Ninh Phú, cho biết, HTX được thành lập giữa năm 2019 gồm 10 thành viên tham gia, với tổng diện ao nuôi trên 10 ha. Hiện tất các thành viên đều đồng loạt nuôi tôm an toàn sinh học theo công nghệ Semi biofloc.

Đây là công nghệ nuôi do ông Lê Minh Chính (xã Ninh Phú), Giám đốc Hợp tác xã Nuôi trồng thủy sản xã Ninh Phú triển khai thành công nhiều năm qua, rồi hướng dẫn các thành viên.

Theo anh Lê Minh Chính, công nghệ nuôi tôm Semi biofloc được anh học hỏi từ Thái Lan, kết hợp nghiên cứu tài liệu dịch “Thực hành công nghệ Biofloc” của PGS.TS Hoàng Tùng và nhóm nghiên cứu ở ĐH Quốc gia TP.HCM.

Từ năm 2014 đến nay, anh vừa áp dụng vừa nghiên cứu cho phù hợp với thực tế từng vụ, nay đã hoàn thiện bài bản. Đồng thời áp dụng nuôi tôm theo 3 giai đoạn nên giá thành chỉ mất khoảng 60 ngàn đồng đã nuôi tôm đạt 100 con/kg.

Anh Chính giải thích: Công nghệ Semi Biofloc là làm sạch, ổn định môi trường bằng vi tảo. Còn Biofloc là vi khuẩn dị dưỡng, tảo, mùn giúp làm sạch nước, cung cấp nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng cho đối tượng nuôi, ức chế sự phát triển của các vi sinh vật gây bệnh.

Từ đó, tôm nuôi mau lớn, kiểm soát được dịch bệnh, sản phẩm đảm bảo ATTP. Nhờ vậy khi các thành viên thu hoạch tôm chỉ cần gọi là thương lái là đến ngay và họ rất tin tưởng vào sản phẩm, không cần test kháng sinh.

Cũng theo anh Chính, để nuôi tôm theo công nghệ này các ao nuôi đều lót bạt nền đáy và bờ ao kết hợp hệ thống xi phông tự động. Khu nuôi phải có ao chứa nước nước và ao xử lý chất thải bài bản. Ngoài hệ thống công trình ao nuôi, phải đầu tư máy phát điện, khu nuôi cây vi sinh dùng hỗn hợp nước, mật rỉ đường, vi sinh… tạo biofloc trong thùng phuy để đưa xuống ao nuôi…

Vì vậy, chi phí đầu tư cho 1ha khoảng 1 tỷ đồng (bao gồm công trình và thiết bị). Mặc dù chi phí cao nhưng quy trình này giúp người nuôi an toàn, hiệu quả hơn và mang tính bền vững cao.

Ông Nguyễn Xuân Lê đánh giá, công nghệ nuôi tôm này giúp các xã viên kiểm soát được dịch bệnh trên tôm khoảng 70-80% so và tỷ lệ thành công lên đến 80% so với nuôi trong ao đất. Nhờ vậy, nhiều thành viên nuôi tôm thuộc HTX kiếm tiền tỷ/năm.

Như gia đình ông Lê với tổng diện tích khu nuôi trên 1,2 ha, trong đó 6.000 m2 ao nuôi. Từ khi áp dụng công nghệ nuôi này mỗi năm nuôi 3 vụ ông thu hoạch với sản lượng khoảng 50 tấn/năm. Sau khi trừ chi phí, ông lãi trên 1 tỷ đồng/năm.

Ông Phạm Thanh Sinh, Phó Chủ tịch UBND xã Ninh Phú cho biết với hiệu quả nuôi tôm thẻ an toàn sinh học theo công nghệ Semi biofloc, hiện một số hộ trên địa bàn tiếp tục học hỏi lẫn nhau để nhân rộng. Mặt khác, nhiều hộ nuôi tôm trên ao đất họ cũng muốn áp dụng công nghệ nuôi này, tuy nhiên do vốn đầu tư ban đầu lớn, từ tiền tỷ trở lên nên quá khả năng tài chính. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các hộ nuôi vay vốn để đầu tư áp dụng khoa học công nghệ trong nuôi trồng thủy sản.

Kim Sơ – Minh Hậu Nông nghiệp Việt Nam

Dùng vi khuẩn từ vi tảo để ức chế bệnh hoại tử gan tụy

hoại tử gan tụy
Hoại tử gan tụy là một nỗi lo lớn với người nuôi tôm.

Sử dụng vi tảo Picochlorum sp. cộng sinh với một số vi khuẩn biển giúp ức chế vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy.

Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND – acute hepatopancreatic necrosis disease) thường xảy ra trên các ao nuôi tôm, bệnh phát triển nhanh, bắt đầu từ khoảng ngày thứ 8 sau khi thả nuôi, và tỷ lệ tôm chết cao nhất xảy ra trong 20 đến 30 ngày đầu tiên (lên đến 100%) trong quần thể tôm thẻ chân trắng và tôm sú, gây những tổn thất kinh tế nặng nề cho người nuôi.

Bệnh hoại tử gan tụy cấp trên tôm được gây ra do chủng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus có chứa các gen quy định độc tố PirA và PirB, cho đến nay vẫn chưa có một biện pháp phòng trị nào thực sự hiệu quả.

Chi Picochlorum sp. (Trebouxiophyceae, Chlorophyta) được biết đến là một loại vi tảo lục, kích thước nhỏ, đơn bào, có khả năng tạo ra lipid nội bào cao và có thể tăng trưởng mạnh trong các điều kiện môi trường nuôi cấy bất lợi. Picochlorum giàu lipid, protein và nhiều acid béo không bão hòa, là một vi tảo tiềm năng cho các ứng dụng sinh học và nhiên liệu sinh học. Picochlorum sp. còn được biết đến với hàm lượng cao carotene, acid amin và lipid giàu acid béo thiết yếu, tiềm năng cho sự sản xuất thực phẩm chức năng và dược phẩm.


Cấu trúc tế bào của Picochlorum sp.

Vi tảo Picochlorum sp. có hàm lượng lipid tổng cao giàu acid béo thiết yếu, omega-3 và omega-6 được xem như một nguyên liệu đầy hứa hẹn cho dinh dưỡng của con người, nuôi trồng thủy sản và sản xuất nhiên liệu sinh học. Picochlorum sp. có khả năng tăng trưởng mạnh và tích lũy lipid cao trong các điều kiện nuôi cấy khác nhau. Ngoài ra, vi tảo còn là nguồn thức ăn cho động vật phù du, ấu trùng cá, tôm thẻ chân trắng… giúp phát triển ngành công nghiệp nuôi trồng thủy sản, có khả năng xử lí nguồn nước và khí thải, giúp giảm thiểu các vấn đề ô nhiễm môi trường.

Thêm nữa hoạt động chống Vibrio của vi tảo Picochlorum sp. bắt nguồn từ mối quan hệ cộng sinh với một số vi khuẩn biển vì vậy nghiên cứu phân lập một số chủng Labrenzia, Muricauda và Arenibacter nuôi cấy để tăng cường đáng kể tác dụng ức chế Vibrio.

Nghiên cứu này so sánh khả năng kìm hãm kìm hãm sự phát triển V. parahaemolyticus. vi khuẩn phân lập từ tảo Picochlorum sp., chia thành các nhóm thí nghiệm khác nhau: Labrenzia sp., Muricauda sp., Arenibacter sp. và tổng 3 loại vi khuẩn này.

Thí nghiệm 1 được thực hiện bằng phương pháp cho ăn: Labrenzia sp, Muricauda sp, Arenibacter sp và tổng 3 loại vi khuẩn ở các nồng độ 0%, 0.2%, 0.5%, 0.8% trong vòng 20 ngày sau đó cảm nhiễm với vi khuẩn Vibrio và xác định tỷ lệ sống của tôm.

Thí nghiệm 2 bằng phương pháp ngâm: Tôm được ngâm với vi khuẩn tương tự như ở thí nghiệm 1 với các nồng độ từ 0, 10, 50, 100ml và sau đó cảm nhiễm với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus và xác định tỷ lệ sống của tôm.

Qua thí nghiệm cho thấy vi tảo Picochlorum sp. cộng đồng vi khuẩn bao gồm Labrenzia sp, Muricauda sp và Arenibacter sp ức chế đáng kể sự tăng trưởng của vi khuẩn V. parahaemolyticus. Đồng thời các chỉ tiêu miễn dịch như hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu cho thấy sự gia tăng ở nghiệm thức này. Qua đó, cho thấy bổ sung cộng đồng vi khuẩn có khả năng kích thích miễn dịch giúp tăng cường sức đề kháng chống lại vi khuẩn V. parahaemolyticus.

Khi dùng với vi tảo cộng sinh với cả 3 vi khuẩn trên, cả việc cho ăn (0,8% trọng lượng cơ thể tôm / ngày) và ngâm (10 ml/ 30L nước bể/ngày) đều mang lại hiệu quả bảo vệ, do đó chứng minh rằng bổ sung có tiềm năng để cải thiện kiểm soát AHPND. Trong hai phương pháp, phương pháp cho ăn phù hợp hơn với nuôi tôm lớn ngoài trời, trong khi ngâm được tìm thấy là phù hợp cho nuôi tôm hậu ấu trùng trong nhà.

NHƯ HUỲNH Lược dịch

Trà Vinh: Sản xuất thành công tôm sú bố mẹ sạch bệnh

ỹ thuật nuôi tôm sú bố mẹ sạch bện‌h được ứng dụng góp phần quan trọng trong cung cấp tôm giống chất lượng cao tại Trà Vinh nói riêng cũng như ĐBSCL nói chung.

Các chuyên gia của Bộ NN-PTNT kiểm tra, đánh giá và nghiệm thu đề tài nghiêm cứu. Ảnh: Minh Đảm
Các chuyên gia của Bộ NN-PTNT kiểm tra, đánh giá và nghiệm thu đề tài nghiêm cứu. Ảnh: Minh Đảm

 

Ngày 17/4, tại ĐH Trà Vinh đã diễn ra buổi đán‌h giá giai đoạn II và nghiệm thu đ‌ề tài “Nghiên cứ‌u tạo ra nguồn tôm sú bố mẹ sach bện‌h phục vụ cho các trại sả‌n xuất giống ở tỉnh Trà Vinh”. Đây là đ‌ề tài nghiên cứ‌u khoa học công nghệ trọng điểm cấp Bộ, do Bộ NN-PTNT làm chủ đầu tư và hỗ trợ kinh phí.

Từ những kết quả nghiên cứ‌u giai đoạn I, nhóm nghiên cứ‌u của Trường ĐH Trà Vinh đã tiến hành giai đoạn II của đ‌ề tài. Đến nay, tại trại thực nghiệm của trường đã có 390 con tôm giống bố mẹ được sả‌n xuất thành công. Vượt mức chỉ tiêu giao mục tiêu giao ban đầu là 300 con.

Khối lượng tôm cá‌i trung bình là 145,72 g/con, vượt 25g/con. Khối lượng tôm đực trung bình là 96,90 g/con, vượt chỉ tiêu gần 17 g/con. Tỷ lệ sống từ giai đoạn tôm post (0,02g) đến giai đoạn tôm bố mẹ thành thục là 61,95% (tính trên tôm đã chọn lọc), đạt yê‌u cầu nghiên cứ‌u. Tỉ lệ thành thục: 60% (tỉ lệ tôm chín mùi sin‌h  dụ‌c), vượt yê‌u cầu nghiên cứ‌u. Sức sin‌h sả‌n trung bình đạt 443.530 Nauplius/tôm cái/lần đ‌ẻ, vượt yê‌u cầu 43.000 nauplius. Kết quả kiểm tôm các giai đoạn nuôi sạch các bện‌h rút (WSSV, TSV, YHV, IHHNV và MBV, HPV) đạt yê‌u cầu.

Tôm bố mẹ sạch bện‌h được xá‌c nhậ‌n bởi Chi cục Thú y vùng VI. Ảnh: Minh Đảm

TS Huỳnh Kim Hường, Phó Trưởng Khoa Nông nghiệp- Thủ‌y sả‌n, ĐH Trà Vinh cho biết: “Tôm có nguồn gốc từ tôm post Mỹ, được chứng nhậ‌n sạch bện‌h trước khi thả nuôi. Mỗi giai đoạn nuôi, nhóm nghiên cứ‌u đều có kiểm tra các loại bện‌h thông thường trên tôm và đều gửi cơ Chi cục Thú y vùng VI kiểm tra và xá‌c nhậ‌n. Giai đoạn II này chúng tôi thực hiện trong 12 tháng. Rút ngắn được 1 tháng so với giai đoạn I”.

Trong quá trình nghiên cứ‌u cũng như sau khi đã nghiên cứ‌u thành công giai đoạn I, đến nay, trại giống thực nghiệm của ĐH Trà Vinh đã cung cấp khoả‌ng 2 triệu post tôm sú giống. Tỷ lệ tôm sin‌h trưởng rất đạt. Anh Đỗ Văn Trường, kỹ thuật viên trại tôm giống của ĐH Trà Vinh cho biết, trong quá trình nghiên cứ‌u giai đoạn I, trại đã cung cấp cho 3 hộ dân tại xã Trường Long Hoà (TX Duyên Hải) tổng cộng 150.000 post để làm mô hình đối chứng. Khi đó, do giá cả thị trường có biến độn‌g. Thời gian thả nuôi có người từ 3-3,5 tháng tháng. Tuy nhiên, tất cả người nuôi đều có lãi. Người nhiều nhất đạt là 112 triệu, thấp nhất 80 triệu.

Sau đó, có nhiều hộ đã đến trại để xin con giống về nuôi. Hộ nuôi đạt nhất khoả‌ng 12,5 con/kg.  Như hộ của chú Hai Lành (Trường Long Hoà) thả nuôi 80.000 con, thu hoạch được trên 6 tấn. Tỷ lệ thu được tính đầu con trên 90%. Ngoài 7 loại bện‌h được chứng nhậ‌n thì tôm đưa ra có sức đ‌ề kháng cao. Những bện‌h thông thường đường ruột, đóng rong mang không có bị.

Đợt mới này, trại cũng cung cấp cho người dân nuôi và nông hộ tham gia mô hình nghiên cứ‌u. Bước đầu thấy tôm lớn nhanh. Đến nay, sau 1 tháng 12 ngày tôm đã to bằng ống hú‌t, 300-350 con/kg”.

Đề tài nghiên cứ‌u thành công giúp gi‌ảm giá thành tôm sú bố mẹ, tôm giống tại Trà Vinh cũng như ĐBSCL. Ảnh: Minh Đảm

TS Nguyễn Minh Thành, ĐH Quốc Gia TP HCM đán‌h giá, xá‌c nhậ‌n sả‌n phẩm, phản biện đ‌ề tài của Bộ NN-PTNT, nhậ‌n xét: “Đề tài tôm sú bố mẹ thực hiện tại ĐH Trà Vinh đã cho những kết quả ngoài mong đợi. Kết quả nghiên cứ‌u đạt và vượt so với chỉ tiêu được giao.

Tôm bố mẹ mà nuôi trong môi trường trang trại là rất khó. Vấn đ‌ề này lần đầu tiên được nhóm nghiên cứ‌u của ĐH Trà Vinh thực hiện”.

Chất lượng tôm mẹ cũng như tôm bố đều vượt thì sẽ đảm bảo cung cấp được tôm bố mẹ sạch bện‌h cho vùng nuôi tại Trà Vinh nói riêng cũng như ĐBSCL nói chung. “Hiện nay, phần lớn tôm bố mẹ của đều bắ‌t từ tự nhiên sẽ không đảm bảo tôm sạch bện‌h. Thứ hai, gia hoá từ các công ty thì sẽ có giá thành cao. Do đó, đ‌ề tài thành công sẽ cung cấp được nguồn tôm bố mẹ sạch bện‌h cũng như giá cả phải chăng cho nông dân”, TS Nguyễn Minh Thành chia sẻ.

nguồn: nongnghiep.vn

Ấn Độ đăc biệt khuyến cáo về DIV1 đang gây chết tôm hàng loạt ở Trung Quốc

Tôm thẻ chân trắng
Ấn Độ khuyến cáo về dịch bệnh Div1

Sau thông tin dịch bệnh bùng phát không thể kiểm soát trên tôm ở Trung Quốc, Ấn Độ đưa ra khuyến cáo nhắc nhở cảnh giác không để ngành tôm Ấn Độ bị lây dịch.

Cơ quan Nuôi trồng thủy sản ven biển Ấn Độ (India’s Coastal Aquaculture Authority – CAA) đã khuyến cáo tất cả các nhà nhập khẩu, nuôi trồng, khai thác tôm ở nước này phải cảnh giác và sàng lọc tôm đảm bảo không mang mầm bệnh Decapod iridescent virus 1 hay Div1, dịch bệnh mới đang  gây thiệt hại lớn cho ngành nuôi tôm ở Trung Quốc.

Cũng như các thông báo từ ngành thủy sản Trung Quốc, CAA chỉ có những thông tin ban đầu về dịch bệnh. Được biết, nguyên nhân gây bệnh là Decapod iridescent virus 1 hay Div1, các nhà nghiên cứu đang phân loại tác nhân cho từng loài tôm khác nhau.

Dịch bệnh này đã được phát hiện ở nhiều loài tôm như tôm thẻ chân trắng, tôm càng đỏ, tôm hùm nước ngọt và tôm càng xanh.

Nguồn gốc của virus và cách thức lây truyền vẫn chưa rõ ràng, mặc dù các trường hợp nhiễm mới được cho là xảy ra chủ yếu qua nước và môi trường địa phương. Tuy nhiên, người nuôi tôm ở Quảng Đông lo lắng rằng virus có thể được mang và chuyển bởi con người.

Khi phát hiện bệnh, tôm bắt đầu chuyển sang màu đỏ, sau đó vỏ của tôm mềm ra và chìm xuống đáy ao. Khoảng hai đến ba ngày sau, tất cả tôm trong ao sẽ nhiễm bệnh và chết.

Vì đây là dịch bệnh mới, chưa rõ cách thức lây nhiễm, tạm thời không có phương án điều trị, dịch bệnh lại lây lan nhanh, tỷ lệ chết cao nên Ấn Độ đặc biệt lưu ý toàn ngành tôm bao gồm cả khai thác, nuôi trồng, chế biến, xuất nhập khẩu tăng cường kiểm dịch, sàng lọc sản phẩm tôm, tránh để dịch bệnh lây lan đến Ấn Độ.

Thảo Nguyễn  – https://tepbac.com/

Hiệu quả của Pondguard trong việc phòng trị bệnh hoại tử gan tụy cấp (AHPND) trên tôm nuôi

AHPND (Bệnh hoại tử gan tụy cấp) hay EMS (Hội chứng chết sớm) có đặc điểm là lây lan rất nhanh, tỷ lệ chết cao (có thể lên tới 100%), thường trong vòng 30 – 35 ngày thả ao nuôi với tôm post hoặc tôm nhỏ. Bệnh do thể thực khuẩn của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây ra, chúng đi qua đường miệng và xâm nhập vào đường tiêu hóa của tôm, sau đó tạo ra độc tố phá hủy cấu trúc và chức năng cơ quan tiêu hóa của tôm là gan tụy.

Đặt vấn đề

AHPND (Bệnh hoại tử gan tụy cấp) hay EMS (Hội chứng chết sớm) trên tôm nuôi lần đầu tiên được phát hiện tại Trung Quốc năm 2009 (nhưng tại thời điểm đó chưa được quan tâm). Đầu năm 2011, bệnh bùng phát và trở nên nghiêm trọng, 80% sản lượng tôm bị chết tại các tỉnh Hải Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến và Quảng Tây, Trung Quốc (Leaío & Mohan, 2012). Dịch bệnh xuất hiện và bùng phát trên TTCT được nuôi ở Việt Nam năm 2010, ở Malaysia năm 2011, ở Thái Lan năm 2012 và 2013 và ở Philippines năm 2013 và 2014. Ước tính thiệt hại trực tiếp và gián tiếp do AHPND gây ra cho ngành nuôi tôm của khu vực châu Á lên tới 1 tỷ USD (FAO, 2013).

Đặc điểm của bệnh AHPND là lây lan rất nhanh, tỷ lệ chết cao (có thể lên tới 100%), thường trong vòng 30 – 35 ngày thả ao nuôi với tôm post hoặc tôm nhỏ. Bệnh do thể thực khuẩn của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây ra, chúng đi qua đường miệng và xâm nhập vào đường tiêu hóa của tôm, sau đó tạo ra độc tố phá hủy cấu trúc và chức năng cơ quan tiêu hóa của tôm là gan tụy. Do đó, việc đánh giá thử nghiệm này rất cần thiết nhằm xác định khả năng chống lại vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus.

Pondguard, chế phẩm do nhóm nghiên cứu thuộc PT Asclepius Pharmaceutical Sciences Indonesia, Indonesia nghiên cứu sản xuất và cung cấp cho thử nghiệm này. Đây là một hỗn hợp các tinh dầu chiết xuất từ thiên nhiên như tinh dầu oải hương, tinh dầu khuynh diệp, tinh dầu thông giúp duy trì khả năng miễn dịch của tôm, giúp bảo vệ tôm khỏi các bệnh truyền nhiễm. Sản phẩm Pondguard đã được cấp phép bởi Bộ Thủy sản Indonesia, số đăng ký D 16060285 – HBC. Sản phẩm ở dạng lỏng, hòa tan tốt trong nước, không màu và có pH 6,8 – 7,4 (Jha và ctv, 2016).

 

Phương pháp thí nghiệm

TTCT dùng cho thí nghiêm này có khối lượng trung bình 0,6 – 0,8 g/con (đây là kích cỡ tôm dễ bị tấn công bởi vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus). Tôm thí nghiệm đã được sàng lọc bằng Real time PCR các tác nhân gây bệnh đốm trắng, AHPND và vi bào tử trùng gây bệnh tại Chi cục Thú y vùng II vào tháng 12/2019.

Tác nhân gây bệnh là Vibrio parahaemolyticus (VP) – chủng gây bệnh AHPND được sử dụng trong thí nghiệm là VP36, được phân lập từ tôm bị nhiễm AHPND (chủng đã được phân lập từ tôm bệnh lấy ở Sóc Trăng vào tháng 9/2016). Chủng VP36  được bảo quản ở – 800C trong môi trường. Vi khuẩn được xác nhận là VP khi cho khuẩn lạc màu xanh trên môi trường TCBS agar (Thiosulfate Citrate Bile Salts Sucrose Agar) và khuẩn lạc màu tím trên môi trường CAV (Chrom Agar Vibrio), dương tính khi kiểm tra bằng phương pháp PCR với mồi AP3 (Sirikharin và ctv, 2014).

Tôm thí nghiệm được cho ăn 3 lần một ngày vào 8h, 12h30 và 17h hàng ngày. Bể nuôi, hệ thống sục khí và sản phẩm Pondguard được sử dụng theo liều lượng hướng dẫn của nhà sản xuất.

 

Thiết kế thí nghiệm

Chuẩn bị bể thí nghiệm bằng thủy tinh. Mỗi bể chứa 30 lít nước biển (nồng độ 15‰), có hệ thống sục khí liên tục và duy trì nhiệt độ nước từ 28 – 300C. Nhóm thí nghiệm và nhóm đối chứng được bố trí trong hai phòng riêng biệt, khoảng cách giữa hai phòng khoảng 15 m. Tôm được thả với mật độ 15 – 20 con/bể.

Hoạt hóa vi khuẩn VP36  trên môi trường CAV, vi khuẩn được nuôi cấy trong môi trường TSB+ trong 18 giờ, ở nhiệt độ 280C.

Sản phẩm Pondguard được cho vào trong bước nuôi cấy vi khuẩn. Có hai nhóm thí nghiệm: Thí nghiệm 1, sản phẩm được cho trực tiếp sau khi cấy vi khuẩn và nuôi lắc trong 18 tiếng. Nhóm 2, sau 18 giờ nuôi lắc vi khuẩn, sản phẩm được cho vào môi trường và giữ tiếp trong 3 giờ trước khi tiến hành cho lây nhiễm. Dùng hộp nhựa chứa khoảng 300 ml dung dịch gồm nước biển và 30 ml môi trường vi khuẩn TSB+, có sục khí liên tục, ngâm 15 – 20 con tôm trong 15 phút. Sau đó, chuyển tất cả vào bể nuôi có chứa nước biển, giảm mật độ vi khuẩn xuống 106 tế bào/ml.

Tỷ lệ thức ăn là 7% trọng lượng tôm, cho ăn 3 lần/ngày trong suốt thời gian tiến hành thử nghiệm. Trong vòng 48 giờ sau khi cho lây nhiễm sẽ không thay nước, sau đó sẽ thay 20% nước trong bể mỗi ngày. Quan sát lượng tôm chết vào cùng thời gian cho tôm ăn. VP tổng số trong nước được đếm bằng cách đếm khuẩn lạc trên môi trường TCBS. Mẫu nước được lấy hàng ngày sau khi thay nước. Mẫu nước được lấy ở 3 bể trong mỗi nhóm. VP tổng số trên tôm được đếm bằng phương pháp RT-PCR. Mẫu tôm (tôm sống) được lấy vào lúc 0 giờ (trước khi tiến hành lây nhiễm) và lấy 2 ngày/lần.

 

Kết quả

Trong nhóm thí nghiệm 1, Pondguard được cho vào môi trường nuôi TSB+ với tỷ lệ 0,2% canh trường cùng lúc với cấy vi khuẩn, nuôi trong vòng 18 giờ. Trong thí nghiệm 2, Pondguard được cho với tỷ lệ 0,3% canh trường, cho vào sau khi vi khuẩn đã được nuôi 18 giờ.


Hình 1: Tỷ lệ tôm chết cộng dồn sau 8 ngày gây nhiễm

Mật độ của vi khuẩn trong nhóm đối chứng dương sau 18 giờ nuôi cấy là 9,4×108 cfu/ml, lượng vi khuẩn phát triển đã được phát hiện trong hai nhóm.

Không có trường hợp tôm chết nào được ghi nhận trong nhóm thí nghiệm dùng sản phẩm Pondguard. Trong nhóm đối chứng dương, tỷ lệ chết là 45% vào ngày thứ 8 sau khi gây nhiễm. Không có tôm chết trong nhóm đối chứng âm.

Trong nhóm đối chứng dương, tôm bắt đầu chết sau 12 giờ gây nhiễm. Nhóm đối chứng âm và nhóm thí nghiệm không có tôm chết.

Các dấu hiệu biểu hiện trên tôm bị nhiễm bệnh AHPND rất điển hình, như: dạ dày và ruột rỗng, gan tụy nhợt nhạt. Không quan sát được các dấu hiệu điển hình đó trong nhóm thí nghiệm 1. Trong nhóm thí nghiệm 2, các dấu hiệu bệnh AHPND xuất hiện trong ngày đầu tiên cho lây nhiễm với tỷ lệ 6,7%. Trong nhóm thí nghiệm 2, tôm dần phục hồi theo từng ngày và hoàn toàn bình thường vào ngày thứ 8 sau khi cho lây nhiễm; các dấu hiệu nhiễm bệnh đạt tỷ lệ tối đa 100% trong ngày đầu tiên gây nhiễm. Không có dấu hiệu nhiễm bệnh AHPND ở nhóm đối chứng âm.

Khả năng tiêu thụ thức ăn cũng được sử dụng là chỉ số để đánh giá về tình trạng sức khỏe cũng như mức độ stress của tôm. Trong nhóm thí nghiệm 1, tôm duy trì tiêu thụ thức ăn ở mức tối đa. Trong nhóm thí nghiệm 2 có sự giảm nhẹ về việc tiêu thụ thức ăn xảy ra đồng thời với việc xuất hiện các dấu hiệu bệnh AHPND. Việc tiêu thụ thức ăn trong nhóm đối chứng dương giảm mạnh. Điều này cho thấy trong nhóm thí nghiệm có dùng sản phẩm Pondguard, tôm không xuất hiện bệnh AHPND.

Phân tích RT – PCR: Phản ứng RT – PCR được thực hiện để phân tích mẫu gộp (dạ dày, gan tụy và ruột được cắt nhỏ lẫn với nhau). Nhóm đối chứng dương có giá trị Ct (Threshold cycle) thấp có nghĩa là số lượng mầm bệnh có mặt cao. Sự có mặt của mầm bệnh thấp đồng nghĩa với giá trị Ct cao, trong ngày đầu tiên và ngày thứ 3 của nhóm thí nghiệm 1. Tôm trong nhóm thí nghiệm được phục hồi sau 3 ngày và tất cả các mẫu sau đó đều cho kết quả âm tính với AHPND.

Tổng số khuẩn lạc Vibrio màu xanh từ mẫu tôm: Gan tụy, dạ dày và ruột được lấy và nghiền lẫn từ mẫu tôm sống. Mẫu lấy từ nhóm đối chứng dương có số khuẩn lạc xanh cao nhất. Tôm trong nhóm thí nghiệm có số khuẩn lạc thấp hơn 103 – 102 lần, đây là con số được coi là ở mức độ không nhiễm bệnh.


Hình 2: Từ trái qua phải: đối chứng âm, đối chứng dương, thí nghiệm 1 và thí nghiệm 2. Các dấu hiệu đặc trưng của AHPND gồm ruột rỗng, gan tụy nhợt nhạt được thấy rõ trong nhóm đối chứng dương.

Mẫu nước được lấy hàng ngày trong suốt thời gian thí nghiệm để kiểm tra lượng Vibrio tổng số có trong môi trường nuôi tôm, cấy trên môi trường TCBS và đếm khuẩn lạc sau 20 giờ.

Kết quả cho thấy tổng số khuẩn lạc VP trong mẫu nước của nhóm đối chứng dương cao hơn so với các nhóm khác.

 

Kết luận

Chủng VP gây chết trên tôm với các biểu hiện đặc trưng của AHPND. Pondguard có khả năng kìm hãm sự phát triển của VP trên tôm, vì vậy mà không có tôm bị chết và cũng không có các đặc điểm của AHPND xuất hiện trên tôm. Trong nhóm thí nghiệm sử dụng sản phẩm Pondguard, kết quả RT-PCR âm tính cho thấy sự phát triển của VP đã bị ức chế hoàn toàn. Pondguard có khả năng tiêu diệt vi khuẩn VP trong nước nuôi tôm.

Nguồn : http://www.thuysanvietnam.com.vn/

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. FAO, 2013. Early Mortality Syndrome (EMS) or Acute Hepatopancreatic Necrosis Syndrome (AHPNS) of Cultured Shrimp, FAO Fisheries and Aquaculture Report No. 1053. Rome. 54 pp.

2. George C. Chamberlain, Donald V. Lightner, Le Van Khoa, Nguyen Van Hao, Hoang Tung, Tran Huu Loc and Melba Reantso, 2014. Case study II: The shrimp Acute Hepatopancreatic Necrosis Syndrome outbreak in Vietnam in Aquaculture and Environmental Services Discussion Paper 09, Chapter 3; pp. 33-46.

3. Hong X P, D Xu, Y Zhuo, H Q Liu and L Q Lu., 2016. Identification and pathogenicity of Vibrio parahaemolyticus isolates and immune responses of Penaeus (Litopenaeus) vannamei (Boone) Journal of Fish Diseases. 39(9):1085-97

4. Leaío & Mohan 2012. Early Mortality Syndrome threatens Asia’s shrimp farms.

5. Pinoargote G, Ravishankar S (2018) Evaluation of the Efficacy of Probiotics in vitro Against Vibrio parahaemolyticus, Causative Agent of Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease in Shrimp. J Prob Health 6:193.

6. Rajeev Kumar Jha, Haig Yousep Babikian, Le Van Khoa, Daniel Wisoyo, Sarayut Srisombat and Benjamin Jiaravanon, 2016. Efficacy of Natural Herbal Formulation against Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease (AHPND) causing Vibrio parahaemolyticus in Penaeus vannamei. Veterinary Medicine Open Journal, 2(1): 1-6.

7. Sirikharin, S., 2014. Taengchaiyaphum, K. Sritunyalucksana, S. Thitamadee, T. Flegel, R. Mavichak, P. Proespraiwong. A new and improved PCR method for detection of AHPND bacteria.

8. Trần Minh Long và Phạm Thị Hoa, 2018. Bước đầu đánh giá khả năng loại trừ vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp (AHPND) Vibrio parahaemolyticus bằng phương pháp sử dụng hệ sợi nấm trong hệ thống nuôi tôm. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 54 (2): 83-90.

9. Tran L, Nunan L, Redman RM, Mohney LL, Pantoja CR, Fitzsimmons K, Lightner DV (2013) Determination of the infectious nature of the agent of acute hepatopancreatic necrosis syndrome affecting penaeid shrimp. Diseases of Aquatic Organisms. 105:45–55.

Xử lý tôm lỏng ruột, phân trắng, phân đứt khúc bằng acid hữu cơ

tôm lỏng ruột
Xử lý hiệu quả tôm lỏng ruột, phân trắng, phân đứt khúc.

Phương pháp thay thế kháng sinh trong nuôi tôm thâm canh tuy quen mà lạ.

Đường ruột là một bộ phận rất quan trọng trên cơ thể tôm và có cấu tạo rất đơn giản nên dễ mẫn cảm với các vi khuẩn gây bệnh. Nhất là khi vibrio phát triển mạnh do môi trường bị ô nhiễm, thức ăn vào đường ruột tôm mà không tiêu hóa được nên đã gây ra các hiện tượng lỏng ruột, phân trắng hay phân đứt khúc. Để cải thiện hiệu suất làm việc của các enzyme và hệ vi sinh vật có lợi trong đường ruột thì acid hữu cơ kết hợp với thảo dược là phương pháp tuyệt vời dành cho tôm nuôi thâm canh.

Vị trí của acid hữu cơ trong nuôi tôm thâm canh

Như chúng ta đã biết, việc sử dụng kháng sinh trong trị bệnh và bổ sung vào trong thức ăn để kích thích tăng trưởng đã làm gia tăng các tác động có hại đến sức khỏe con người, động vật cũng như môi trường thủy sinh và nhất là gây ra sự kháng kháng sinh của các dòng vi khuẩn có hại. Do nhiều tác động tiêu cực như vậy, mà các chất được nghiên cứu với tác dụng thay thế kháng sinh không phải là ít trong nghề nuôi tôm hiện nay. Và acid hữu cơ là một trong số đó.

Acid hữu cơ là hợp chất hóa học có chứa nhóm carboxyl, sản xuất thông qua các quá trình trao đổi chất của vi khuẩn ở những điều kiện khác nhau, hoặc có thể được hình thành trong ruột già của người và động vật nhờ cộng đồng vi sinh vật kỵ khí. Acid hữu cơ tác động đến vi khuẩn bằng cách acid hóa tế bào chất, từ đó cản trở sự phát triển của chúng. Acid hữu cơ được nhiều nghiên cứu chứng minh giúp gia tăng khả năng đề kháng với các bệnh truyền nhiễm trên tôm. Đồng thời cải thiện việc sử dụng khoáng chất nên giảm sự bài tiết phospho và nitơ, giảm lượng vi sinh vật thải ra trong phân khi thức ăn có bổ sung vào đó acid hữu cơ.

Nutric với công thức đặc trưng, đã tốt nay lại tốt hơn

Đây là một sự kết hợp nhiều loại acid hữu cơ chuỗi ngắn bao gồm acid formic, acid citric, acid lactic,… và mỗi loại acid có những tác dụng khác nhau, cùng dung hợp để tạo ra hiệu quả cao đối với sức khỏe của tôm. Ngoài các loại acid hữu cơ với nhiều chức năng vượt trội thì trong Nutric còn được bổ sung một số loại thảo dược tự nhiên và các loại prebiotic cộng thêm nhiều tác dụng tuyệt vời được tích hợp vào sản phẩm. Đó cũng là yếu tố vượt trội của Nutric với các dòng acid hữu cơ khác trên thị trường.

Acid formic, acid citric từ lâu được đánh giá là tác động tích cực đến sự tăng trưởng, sức kháng khuẩn của tôm mà nhất là đối với nhóm vibrio. Acid citric là nguồn bổ sung khoáng chất đặc biệt là Phospho, góp phần gia tăng thêm về giá trị dinh dưỡng, là thành phần của nhiều quá trình sinh lý và tham gia vào quá trình cân bằng áp suất thẩm thấu rất quan trọng trong cơ thể tôm. Với acid hữu cơ, khi vào trong ruột sẽ tạo nên môi trường có pH thấp, không thuận lợi cho vi khuẩn có hại phát triển nên có thể  hạn chế được một số loài không có tác dụng tốt trong đường ruột.

Cùng với đó, thảo dược tự nhiên được kết hợp để gia tăng tính kháng khuẩn của tôm, do có chứa các thành phần có hoạt tính chống oxy hoá, chống stress. Thêm nữa, Prebiotic cũng được thêm vào với tác dụng như một chất xơ hòa tan, giống như nguồn thức ăn cho hệ vi sinh vật có lợi trong đường ruột để chúng hoạt động tốt hơn, thúc đẩy hệ tiêu hóa làm việc một cách tích cực.

Do sự cộng hưởng của các loại acid hữu cơ, thảo dược tự nhiên và prebiotic thì ngoài tác dụng kháng khuẩn, loại bỏ các tác nhân gây bệnh, Nutric còn có thể làm phục hồi các mô tổn thương trong đường ruột, kích thích sự phát triển của hệ vi sinh vật có lợi, cạnh tranh tốt hơn về thức ăn và chỗ bám với vi khuẩn có hại. Nhờ đó mà điều trị hiệu quả hơn những bệnh về đường ruột như phân lỏng, phân đứt khúc, phân trắng do vibrio lên men thối thức ăn không tiêu hóa được tạo nên.

Để trị bệnh phân lỏng một cách an toàn thì Nutric nên được kết hợp với tinh dầu tỏi Licin garlic. Với cách dùng thảo dược kết hợp này sẽ phù hợp cho ao nuôi biết chắc nguyên nhân gây bệnh là do vi khuẩn và ký sinh trùng, khi mà dùng nhiều loại kháng sinh vẫn không khỏi. Cách này cũng đã được nhiều người tin dùng và đánh giá là mang lại hiệu quả trên 90%. Với tác dụng nhanh hơn nhưng vẫn đảm bảo an toàn sau khi điều trị, thì đây là một giải pháp thay thế kháng sinh hiệu quả. Tôm vẫn lớn bình thường nếu trước đó không dùng quá nhiều kháng sinh.

Với tác dụng đẩy lùi được bệnh phân lỏng thì Nutric sẽ đảm bảo sự khỏe mạnh của đường ruột tôm. Từ đó cải thiện sức khỏe tôm, an toàn và hiệu quả trong việc phòng và trị các bệnh về đường ruột. Đồng thời Nutric hoàn toàn không chứa kháng sinh, chất cấm trong thủy sản và khi sử dụng lâu dài thì không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của tôm. Tin chắc rằng Nutric sẽ không làm bạn thất vọng ngay trong lần đầu sử dụng.

Phòng kỹ thuật An Bình