Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Quản Lý Nuôi

Biện pháp xử lý khí độc khi gặp trường hợp NH3, H2S, NO2

Với mục tiêu nuôi tôm bền vững mang lại hiệu quả kinh tế cao, giảm thiểu ô nhiễm, ông Nguyễn Trường Đại (xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch) đã áp dụng quy trình biogas xử lý chất thải trong chăn nuôi heo để xử lý chất thải trong nuôi tôm siêu thâm canh.

Ông Nguyễn Trường Đại (xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch) giới thiệu hệ thống xử lý chất thải trong nuôi tôm.

Cách làm này giúp ông kiểm soát chất lượng nước, tôm lớn nhanh, ít nhiễm bệnh. Không những bảo vệ môi trường, hệ thống xử lý nước thải bằng biogas còn cung cấp nguồn khí gas phục vụ sinh hoạt hằng ngày cho gia đình.

* Làm sạch nước ao tôm

Những năm qua, nhiều hộ nuôi tôm trên địa bàn xã Vĩnh Thanh sau mỗi mùa thu hoạch đều xả nước thải trong ao trực tiếp ra môi trường mà không qua xử lý. Đến khi thả giống mới lại dùng chính nguồn nước ấy vào ao nuôi tôm. Hậu quả là tôm nhiễm bệnh, chết hàng loạt hoặc chậm lớn.

Nhận thấy điều này, ông Đại nghĩ ra cách áp dụng mô hình xử lý biogas trong nuôi heo cho nuôi tôm. Hệ thống này gồm 3 hầm phân hủy bằng composite có dung tích 18m3 chôn dưới đất được thiết kế thông nhau bằng ống nhựa đường kính 110mm, 1 túi chứa khí gas rộng 8m và dài 20m.

Ông Đại chia sẻ, xác lột của tôm nếu xả trực tiếp ra môi trường thì quá trình phân hủy sẽ gây ảnh hưởng đến nguồn nước. Áp dụng theo nguyên lý biogas xử lý chất thải trong chăn nuôi heo để xử lý chất thải trong nuôi tôm siêu thâm canh, ông Đạt cho lót bạt ở đáy, rồi dùng máy ép tấm bạt thành hình ống để làm túi chứa khí biogas. Túi được đặt dưới ao một đầu chỉ được mở khi hút chất thải, đầu còn lại đấu nối với ống nhựa dẫn đến hầm phân hủy.

Mỗi ngày 2 lần, sau khi cho tôm ăn khoảng 1 giờ, ông dùng quạt ly tâm để hút phân tôm, xác tôm lột và thức ăn dư thừa dưới đáy ao đưa vào hầm phân hủy. Chất thải sau khi đưa vào hầm khoảng 10 ngày thì sẽ có khí đốt. Khí đốt này được dẫn vào một hầm riêng phục vụ cho nấu nướng, bơm nước và chạy máy quạt làm mát, tạo oxy trong ao nuôi. Chất thải còn lại trong hầm được hút lên làm phân bón hữu cơ cho cây trồng.

* Tiết kiệm chi phí đáng kể

Từ một vuông tôm thử nghiệm, đến nay, tất cả ao tôm của ông Đại đều được lắp đặt hệ thống xử lý chất thải. “Trước đây, cứ 3 tháng nhà tôi hết một bình gas, mỗi tháng tốn khoảng 700 ngàn tiền dầu cho máy làm mát và đèn chiếu sáng ngoài ao. Giờ đây không mất bình gas nào, cũng không phải mua dầu nữa. Lượng gas nhiều quá, tôi còn cho máy phát điện thắp sáng ban đêm. Tôm được xử lý chất thải hằng ngày, có quạt làm mát liên tục nên lớn nhanh, dịch bệnh giảm đáng kể. Lợi ba bốn đường” – ông Đại vui vẻ.

Với cách xử lý này, nguồn nước ở khu vực nuôi tôm siêu thâm canh của gia đình ông Nguyễn Trường Đại luôn được đảm bảo, đồng thời còn có thêm nguồn khí gas làm chất đốt phục vụ sinh hoạt và làm nhiên liệu cho máy phát điện.

Thấy sáng kiến của ông Đại có hiệu quả, giúp tôm sinh trưởng và phát triển nhanh hơn, hạn chế dịch bệnh và giải quyết đáng kể tình trạnh ô nhiễm nguồn nước trong chăn nuôi, nhân viên của Công ty cổ phần chăn nuôi C.P. Việt Nam xuống tận nơi học hỏi kinh nghiệm rồi giới thiệu lại mô hình, quy trình kỹ thuật cho nhiều người nuôi tôm nước lợ ở các tỉnh từ Bạc Liêu, Cà Mau, Nam Định, Quảng Ninh… Mới đây, ông Đại cũng đón các đoàn khách ở Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines sang tham quan và học tập mô hình xử lý chất thải trong chăn nuôi tôm.

Độc đáo mô hình nuôi tôm càng xanh… bẻ càng

KHPTO – Hộ ông Đỗ Văn Bằng ở ấp Cồn Phụng, xã Long Hòa, huyện Châu Thành chuyên sống bằng nghề nuôi trồng thủy sản. Hiện, gia đình thả nuôi trên 25.000 con tôm càng xanh toàn đực trên diện tích 1 ha tại vùng có độ mặn thấp.

Trong quá trình sản xuất, ông đã chuẩn bị chu đáo những kỹ thuật cơ bản như: chuẩn bị ao, kiểm tra các yếu tố môi trường, thả giống trong ao ươm, sau đó sang qua ruộng nuôi. Có thể nói, mô hình nuôi tôm càng xanh toàn đực phù hợp với vùng chuyển đổi có độ mặn thấp, chi phí đầu tư thấp, ít dịch bệnh, giảm rủi ro, thu nhập khá, điều quan trọng là tôm có kích cỡ đồng đều, khỏe mạnh. Được biết, vụ năm trước cũng từ con tôm càng xanh toàn đực, gia đình ông thu về hơn 100 triệu đồng.

Điểm mới của mô hình này là áp dụng kỹ thuật bẻ càng cho tôm càng xanh. Sau khi thả nuôi từ 60 – 75 ngày có thể tiến hành bẻ càng nhằm giúp tôm sinh trưởng phát triển tốt, tỷ lệ sống cao, tôm phát triển đồng đều, giảm tỷ lệ hao hụt, đạt giá bán cao. Tuy nhiên, việc bẻ càng phải áp dụng đúng biện pháp kỹ thuật: vị trí bẻ ở khớp gần cơ thể, tạo điều kiện cho tôm tự bỏ càng một cách tự nhiên.

Việc ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào sản xuất, cùng với việc đầu tư phát triển sản xuất đúng mức sẽ tạo ra các sản phẩm có năng suất, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao hiệu quả của mô hình nuôi, tăng thu nhập cho nông dân. Từ đó, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng đa canh, khai thác tốt nguồn tài nguyên sẵn có ở địa phương, gắn sản xuất với nhu cầu thị trường.

Bạc Liêu nhân rộng mô hình nuôi tôm CPF Combine

Bạc Liêu là thủ phủ nuôi tôm của cả nước, hiện tỉnh đang tập trung xây dựng Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm, dự kiến đưa vào hoạt động ổn định năm 2020, góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu thủy sản toàn tỉnh đến năm 2020 đạt 750 triệu USD và năm 2025 đạt 1 tỷ USD.
 Người dân Bạc Liêu thường xuyên theo dõi, chăm sóc ao tôm trước thiên tai bất lợi. Ảnh: Huỳnh Sử- TTXVN

Tuy nhiên, trong những năm gần đây nghề nuôi tôm ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Bạc Liêu nói riêng đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Trước những khó khăn này, người nông dân đang dần áp dụng nhiều mô hình nuôi ứng dụng công nghệ cao như: Mô hình nuôi tôm công nghệ cao trong nhà kính; mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến; mô hình nuôi tôm siêu thâm canh; mô hình nuôi tôm bán thâm canh; mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng nước ngọt…

Đi tiên phong trong phong trào nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh là các tập đoàn, doanh nghiệp lớn như: Công ty TNHH Một thành viên Hải Nguyên, Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Trúc Anh, Chi nhánh Công ty cổ phần Việt Úc – Bạc Liêu, Công ty TNHH Một thành viên Huy Long An – Bạc Liêu, Công ty cổ phần CP Việt Nam – Chi nhánh Bạc Liêu,…

Hiện nay, tại Bạc Liêu mô hình CPF – Combine là một trong những mô hình nuôi tôm cho hiệu quả cao được nhiều người dân áp dụng. Đây là mô hình được chuyển giao từ Công ty cổ phần CP Việt Nam.

Mô hình CPF Combine khép kín từ khâu con giống có chất lượng cao tới quy trình nuôi theo hai bước áp dụng hệ thống an toàn sinh học thân thiện với môi trường đồng thời có nhà máy bao tiêu sản phẩm giúp người nuôi tôm yên tâm sản xuất kinh doanh. Theo đánh giá của nhiều hộ dân, mô hình CPF Combine đã giảm bớt sự tác động của thời tiết trong giai đoạn tôm còn nhỏ, từ đó tăng được tỷ lệ sống và tăng sức khỏe của tôm, sản lượng tôm tăng đạt hiệu quả cao, thịt tôm chất lượng…

Theo Tiến sỹ Prakan Chiarahkhongman, Trung tâm nghiên cứu Thủy sản Thái Lan, mô hình CPF Combine giúp giảm được các loại bệnh cho tôm trong quá trình nuôi; chủ động thời gian thả nuôi, ít lệ thuộc vào thời tiết mùa vụ như phương pháp nuôi truyền thống; tăng tỷ lệ sống và năng suất cao hơn.

Cùng với đó, các tiêu chuẩn của ao nuôi sẽ được kiểm tra thường xuyên mỗi ngày, như: độ kiềm, độ pH, độ cứng, calci, magnesium… cho phù hợp với sự phát triển ổn định của con tôm; đáy ao được vệ sinh sạch sẽ mỗi ngày bằng việc hút chất bẩn trong ao. Bên cạnh việc tuân thủ kỹ thuật nuôi, ngay từ khâu đầu vào như con giống, thức ăn phải đảm bảo có nguồn gốc và an toàn, đặc biệt trong suốt quá trình nuôi, người nuôi hoàn toàn không sử dụng các loại hóa chất kháng sinh. Đến giai đoạn thu hoạch, trước khi xuất bán, con tôm sẽ được kiểm tra các tiêu chuẩn về an toàn, chất lượng.

Theo quy trình kỹ thuật mới, công tác quản lý được thực hiện nghiêm ngặt, chủ yếu ứng dụng các thiết bị, máy móc trong quá trình kiểm tra chăm sóc nên mật độ nuôi cao hơn nhiều so cách nuôi truyền thống. Đối với mô hình truyền thống, với diện tích mặt nước nuôi 3.000 – 4.000 m2, năng suất bình quân đạt 5 – 6 tấn tôm/vụ, còn theo mô hình CPF Combine, ao nuôi nhỏ từ 1.000 – 1.200 m2 mặt nước nuôi, năng suất bình quân đạt 6 – 10 tấn/1.000 m2/vụ.

Ông Nguyễn Văn An (huyện Đông Hải, Bạc Liêu) cho biết, với diện tích 2.500m2 áp dụng mô hình nuôi CPF Combine, trong 118 ngày cho thu hoạch 18 con/kg, năng suất đạt 60,4 tấn/ha, lợi nhuận gần 1,7 tỷ đồng/vụ.

Ông Phạm Tiến Hải (huyện Hòa Bình, Bạc Liêu) cũng với mô hình CPF Combine áp dụng cho 2.000m2, sau 98 ngày nuôi cho sản lượng đạt 17,7 tấn, năng suất 88,5 tấn/ha. Ông thu lợi nhuận hơn 1,2 tỷ đồng/vụ.

Phó Tổng giám đốc kinh doanh miền Tây – Công ty cổ phần CP Việt Nam Nguyễn Vĩnh Phú cho biết, khi người dân áp dụng mô hình CPF Combine, công ty sẽ cung cấp đội ngũ nhân viên kỹ thuật để giúp người nuôi tôm thực hiện mô hình, cung cấp con giống chất lượng và bao tiêu sản phẩm; người nuôi chỉ đầu tư vốn xây dựng ao nuôi, sử dụng nhà lưới, lót bạt đáy ao, máy vận hành xử lý nước… đúng theo quy chuẩn của mô hình CPF Combine dưới sự giám sát và hướng dẫn của nhân viên kỹ thuật CP Việt Nam.

Theo ông Nguyễn Vĩnh Phú, mô hình nuôi tôm CPF Combine hiện đang được phát triển tại nhiều vùng nuôi tôm trong cả nước như: Quảng Ninh, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang… Công ty cũng có trại giống tại Quảng Bình, Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, Vũng Tàu, Bến Tre, Bạc Liêu, Kiên Giang đang hoạt động với công suất 15 tỷ postlarvae/năm. “Từ nay đến năm 2025, chúng tôi sẽ nhân rộng mô hình này từ 10.000 đến 25.000 ao nuôi”, ông Nguyễn Vĩnh Phú khẳng định.

Bạc Liêu có tổng diện tích nuôi tôm 140.000 ha; trong đó nuôi tôm siêu thâm canh 1.845 ha  với 1.575 ao/hồ nuôi (1.335 ao lót bạt và 240 hồ nổi tròn).

Hướng dẫn kỹ thuật nuôi tôm nước lợ thâm canh, bán thâm canh hạn chế dịch bệnh

Hướng dẫn kỹ thuật nuôi tôm nước lợ thâm canh, bán thâm canh hạn chế dịch bệnh

Quy trình kỹ thuật này ban hành kèm theo Công văn số 298/TCTS-NTTS ngày 01 tháng 02 năm 2013 của Tổng cục Thủy sản

I. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG

 

– Cơ sở nuôi tôm nước lợ phải nằm trong vùng quy hoạch nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh của địa phương.
– Vùng nuôi phải có mương cấp, mương thoát nước riêng biệt đảm bảo cung cấp đủ nước sạch cho nhu cầu nuôi.
– Mỗi cơ sở nuôi phải có hồ lắng chiếm 15-20% diện tích mặt bằng để xử lý nước cấp và diệt tạp trước khi đưa vào hồ nuôi; có trang bị dụng cụ đo môi trường: pH, oxy, NH3, NO3, độ mặn,..

 

II. HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT:

 

2.1. Chuẩn bị hồ nuôi:

2.1.1. Cải tạo ao nuôi, ao lắng:

– Bước 1: Tháo cạn nước ao nuôi và ao lắng. Loại bỏ các địch hại có trong ao từ vụ nuôi trước (tôm, cua, ốc, côn trùng, cá tạp). Vét bùn đáy ao, tu sửa bờ, các cống cấp nước, thoát nước. San đáy ao dốc về phía cống thoát. Phải đầm nén kỹ bờ ao hoặc lót bạt để chống xói lở và hạn chế rò rỉ. Rào lưới quanh ao để tránh các loài ký chủ trung gian gây bệnh từ bên ngoài như: cua, còng, rắn.

– Bước 2: Rải vôi bột (vôi nung) liều lượng 20-30 kg/1.000m2 (pH đất >4) hoặc 30-40 kg/1000m2 (pH đất ≤4) đều đáy ao.

– Bước 3: Bừa kỹ cho vôi ngấm vào đáy để diệt hết tôm, cua, còng, ốc, côn trùng, cá tạp còn sót lại, diệt khuẩn trong bùn, giải độc (kim loại nặng, H2S) và trung hòa pH. Ao lót bạt đáy chỉ cần vệ sinh khử trùng.

– Bước 4: Phơi đáy ao khoảng 5-7 ngày.

 

Đối với những ao không phơi được: bơm cạn nước, dùng máy cào chất thải về cuối góc ao, bơm chất thải vào ao chứa thải, sau đó tiến hành bón vôi với liều lượng như bước 2.

Lưu ý: Sau mỗi vụ nuôi, phải phơi khô cứng nền đáy ao lắng, ao nuôi khoảng 1-2 tháng để ngắt vụ, tiêu diệt các mầm bệnh, khoáng hóa và phục hồi môi trường nền đáy.

2.1.2. Xử lý nước và lấy nước vào ao nuôi

– Bước 1: Lấy nước vào ao lắng qua túi lọc bằng vải dày nhằm loại bỏ rác, ấu trùng, tôm, cua, còng, ốc, côn trùng, cá tạp. Để lắng 3-4 ngày.
– Bước 2: Chạy quạt nước liên tục trong 2 – 3 ngày để kích thích trứng tôm, ốc, côn trùng, cá tạp nở thành ấu trùng.
– Bước 3: Diệt tạp, diệt khuẩn nước cấp trong ao lắng vào buổi sáng (8h) hoặc buổi chiều (16h) bằng Chlorine nồng độ 30 ppm (30kg/1.000m3 nước), hoặc những chất diệt tạp có tên trong Danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam (không dùng thuốc bảo vệ thực vật và các chất cấm).
– Bước 4: Quạt nước liên tục trong 10 ngày để phân hủy dư lượng Chlorine. Kiểm tra dư lượng chlorine trong nước bằng thuốc thử.
– Bước 5: Cấp nước từ ao lắng qua ao nuôi (qua nhiều lớp túi lọc bằng vải dày) đến khi mức nước trong ao nuôi đạt từ 1,3–1,5 m. Để lắng 2 ngày.

Lưu ý:

 

– Không diệt tạp trong ao nuôi.

– Không lấy nước vào ao lắng khi: i) nước ngoài kênh/mương có nhiều váng bọt, màng nhầy, nhiều phù sa; ii) nguồn nước nằm trong vùng có dịch bệnh; iii) nước có hiện tượng phát sáng vào ban đêm.

2.1.3. Gây màu nước:

Gây màu nước giúp phát triển vi sinh vật phù du, ổn định môi trường nước, tạo môi trường thuận lợi hạn chế tôm bị sốc, tăng tỉ lệ sống.
Hai ngày sau khi cấp nước vào ao nuôi, gây màu nước bằng cách:

Cách 1: bằng cám ủ (thành phần: cám gạo, bột đậu nành, bột cá phối trộn theo tỷ lệ 2:2:1. Nấu chín, ủ trong 2 – 3 ngày).

  • Bước 1: Lúc 7-8h sáng: bón vôi đen Dolomite CaMg(CO3)2 hoặc vôi nông nghiệp CaCO3 liều lượng 100 – 150 kg/1000 m3.
  • Bước 2: Lúc 10-12h trưa: bón cám ủ liều lượng 3 – 4 kg/1000m3.
    Lặp lại 2 bước trên liên tục trong 3 – 5 ngày đến khi độ trong của nước đạt 30 – 40 cm.

Cách 2: bằng mật đường + cám gạo + bột đậu nành (tỷ lệ 3:1:3) ủ trong 12 giờ.
– Lúc 9-10 giờ sáng: bón mật đường + cám gạo + bột đậu nành đã qua ủ với liều lượng 2-3 kg/1.000m3 nước ao, tạt liên tục 3 ngày.
– Khi màu nước trong ao chuyển sang màu của tảo khuê (vàng hay nâu nhạt) hay màu xanh vỏ đậu thì tiến hành thả giống.
Đối với những ao khó gây màu nước, hay màu nước không bền nên bổ sung thêm các thành phần khoáng, Silic để giữ màu nước cho ao nuôi.
Có thể gây màu nước bằng chế phẩm vi sinh theo hướng dẫn của nhà sản xuất có uy tín để phân hủy mùn bã hữu cơ lơ lửng, xác tảo chết tích tụ do dùng hóa chất diệt khuẩn trước đó, tạo nguồn vi khuẩn có lợi giúp môi trường nuôi ổn định, tạo điều kiện cho tôm phát triển tốt ngay từ đầu.

 

Lưu ý:
– Không dùng phân vô cơ gây màu nước.
– Không diệt tạp trong hồ nuôi khi đã lấy nước.
– Kiểm tra và điều chỉnh các yếu tố môi trường nước ao nuôi đảm bảo trong ngưỡng thích hợp trước khi thả giống:

 

Yếu tố môi trường nước ao nuôi tôm Giới hạn tối ưu đối với tôm sú Giới hạn tối ưu đối với tôm chân trắng
Hàm lượng oxy hòa tan (DO) > 4 mg/l  >6 mg/l
pH  7,5 – 8,5 (dao động trong ngày không quá 0,5)  7,5 – 8,5 (dao động trong ngày không quá 0,5)
Độ mặn  15-25 ‰ 5-25 ‰
Độ kiềm 80 -120 mg/l 120-150 mg/l
Độ trong 30 – 40 cm  30 – 40 cm
NH3 < 0,1mg/l  < 0,1mg/l
H2S < 0,01 mg/l  < 0,01 mg/l

2.2. Quạt nước và thời gian chạy quạt nước

Bố trí hệ thống quạt nước và thời gian chạy quạt nước phải đảm bảo nhu cầu oxy cho tôm nuôi, đặc biệt thời điểm chiều tối/đêm/gần sáng khi hàm lượng oxy hòa tan giảm dần/xuống thấp nhất trong ngày.
Cần tăng cường thời gian chạy quạt hoặc bố trí thêm hệ thống quạt cho tôm nuôi, đặc biệt vào những thời điểm nắng nóng hoặc mưa kéo dài.

 

2.2.1. Vị trí đặt cánh quạt nước

– Cách bờ 1,5 m.
– Khoảng cách giữa 2 cách quạt nước 60 – 80 cm, lắp so le nhau.
– Tùy theo hình dạng ao mà bố trí cánh quạt nước nhằm tạo được dòng chảy tốt nhất và cung cấp đủ nhu cầu oxy cho tôm nuôi.

 

2.2.2. Số lượng máy quạt nước:
– Đối với nuôi tôm sú:

 

Diện tích ao (m2)  Mật độ: 15 – 20 con Mật độ: 20 – 25 con  Tốc độ vòng quay (vòng/phút)
2.000 20 – 25 cánh 25-30 cánh 100 – 120
5.000 50 – 60 cánh 60 – 80 cánh 100 – 120

– Đối với nuôi tôm chân trắng: Tôm chân trắng đòi hỏi oxy rất lớn. Do đó, tùy theo mật độ thả nuôi có thể thiết kế hệ thống quạt nước bằng cánh quạt nhựa hoặc kết hợp cánh quạt nhựa và cánh quạt lông nhím hoặc các cánh quạt cung cấp oxy khác để cung cấp oxy cho ao nuôi. Vòng tua của cánh quạt nhựa nên >120 vòng/phút.

 

Diện tích ao (m2) Mật độ (con/m2)  Số lượng dàn quạt cánh Số lượng dàn quạt lông nhím
2.000 – 3000 30-60 4 dàn (10 cánh quạt/dàn) 1
60-100 4 dàn (10 cánh quạt/dàn) 2
4.000 – 5.000 30 – 60 6 dàn (10 cánh quạt/dàn) 2
60 – 100 6 dàn (10 cánh quạt/dàn) 3 – 4

 

2.3. Chọn và thả giống:

2.3.1. Chọn giống:

– Chọn mua tôm giống từ các cơ sở có uy tín, có phiếu xét nghiệm âm tính về các mầm bệnh MBV, đốm trắng, đầu vàng, taura, IMNV, hoại tử gan tụy …
– Cỡ giống: tôm sú P15 – P20, tôm thẻ chân trắng P12 trở lên.
– Kiểm tra sức khỏe tôm giống bằng cách gây sốc:
+ Sốc độ mặn: Lấy 40-50 con tôm giống cho vào cốc thủy tinh chứa 300 ml nước lấy từ bao vận chuyển giống. Hạ độ mặn đột ngột xuống còn 15‰ và theo dõi trong 30 phút, nếu tỷ lệ sống 100% là đạt yêu cầu.
+ Sốc bằng formol: Thả 40-50 tôm giống vào chén, cốc thủy tinh đựng dung dịch formalin nồng độ 100 ppm và theo dõi trong 30 phút, nếu tỷ lệ sống 100% là đạt yêu cầu.

 

2.3.2. Thả giống:

– Mật độ thả:
+ Tôm sú: Nuôi thâm canh 15-20 con/m2; nuôi bán thâm canh 8-14 con/m2.
+ Tôm chân trắng: 30 – 60 con/ m2 (đối với những hộ mới chuyển đổi) và 60 – 80 con/m2 (những hộ có kinh nghiệm và đủ điều kiện).
– Cách thả:
+ Thả vào sáng sớm hoặc chiều mát.
+ Trước khi thả giống cần chạy quạt nước từ 8-12 giờ để đảm bảo lượng oxy hòa tan trong ao phải lớn hơn 4 mg/l.
+ Cân bằng nhiệt độ nước giữa bao giống và nước ao nuôi bằng cách thả nổi bao giống trên mặt hồ vài phút. Sau đó, cho nước từ từ vào đầy bao, cầm phía đáy bao từ từ dốc ngược để tôm giống theo nước ra ao nuôi.

 

2.4. Chăm sóc và quản lý:

2.4.1. Cho ăn:

Cho tôm ăn theo bảng hướng dẫn. Ngoài ra, tùy vào thực tế (sức khỏe của tôm, chu kỳ lột xác, thời tiết,…) và theo dõi sàng ăn/chài khi tôm từ 20 ngày tuổi trở lên để điều chỉnh, quản lý thức ăn cho phù hợp, tránh tình trạng cho ăn thiếu hoặc thừa thức ăn sẽ ảnh hưởng đến tốc độ phát triển và sức khỏe của tôm.
Cho ăn mỗi ngày 3 lần.

2.4.2. Lượng thức ăn

– Tháng nuôi thứ nhất: Sử dụng thức ăn cỡ nhỏ cho giai đoạn mới thả

+ Ngày thứ 10 sau khi thả giống, cho ít thức ăn vào sàng/nhá/vó để tôm làm quen, dễ cho việc kiểm tra lượng thức ăn dư sau này. Sàng ăn đặt nơi bằng phẳng, cách bờ ao 1,5- 2 m, sau cánh quạt nước 12 – 15m, không đặt ở các góc ao, khoảng 1.600 – 2.000 m2 đặt 1 sàng.
+ Sau 15 ngày có thể sử dụng các chất bổ sung cung cấp vitamin, khoáng chất theo chỉ dẫn của nhà cung cấp giúp tôm tăng cường sức khỏe.
+ Tôm sú: Ngày đầu tiên cho 1,2 – 1,5 kg/100.000 giống, cứ 2 ngày tăng 0,2-0,3 kg/100.000 giống.
+ Tôm chân trắng: Ngày đầu tiên cho 2,8-3 kg/100.000 giống. Trong 10 ngày đầu tiên, cứ 1 ngày tăng 0,4 kg/100.000 giống. Từ ngày thứ 10-20, cứ 1 ngày tăng 0,5 kg/100.000 giống.

 

– Tháng nuôi thứ hai đến khi thu hoạch:

+ Điều chỉnh thức ăn trong ngày qua theo dõi lượng thức ăn thừa trên sàng ăn.
+ Chuyển đổi loại thức ăn phù hợp theo giai đoạn phát triển, cỡ miệng tôm và nhu cầu dinh dưỡng như hướng dẫn của nhà sản xuất ghi trên bao bì. Khi chuyển đổi thức ăn, nên trộn lẫn 2 loại thức ăn cũ và mới cho ăn ít nhất 3 ngày.

 

Cách điều chỉnh lượng thức ăn:

 

Kiểm tra thức ăn trong sàng/nhá Cách xử lý cho lần ăn tiếp theo
Nếu tôm ăn hết Tăng 5% thức ăn cho lần sau
Nếu thức ăn dư khoảng 10% Giữ nguyên thức ăn cho lần sau
Nếu thức ăn dư khoảng 11 – 25% Giảm 10% thức ăn cho lần sau
Nếu thức ăn dư khoảng 26 – 50% Giảm 30% thức ăn lần sau
Nếu thức ăn còn nhiều hơn 50% Ngưng cho ăn lần sau

 

Thời gian kiểm tra thức ăn trong nhá/sàng:

 

Thời gian nuôi (ngày) Thời gian kiểm tra sàng ăn (giờ)
21 – 60 2.5 – 2.0
61 – 90 2.0 – 1.5
>90 1.5 –1.0

Lưu ý:

 

– Những ngày thay đổi thời tiết, mưa, nắng gắt chỉ cho 70 – 80% lượng thức ăn đã định, tránh dư thừa gây ô nhiễm nước. Theo dõi kỳ lột vỏ để giảm lượng thức ăn và tăng sau khi tôm lột vỏ xong.

– Đối với các cơ sở nuôi tôm dùng thức ăn có chứa Ethoxyquin

+ Với hàm lượng ≤ 90 ppm: Chuyển sang dùng các loại thức ăn không chứa Ethoxyquin 04 ngày trước khi thu hoạch; Không dùng các loại thức ăn bổ sung như: Dầu gan mực, dầu cá hồi, bột mực, bột cá FMB 60, Fish meal 66%.
+ Với hàm lượng 90-120 ppm: Chuyển sang dùng các loại thức ăn không chứa Ethoxyquin 05 ngày trước khi thu hoạch; Không dùng các loại thức ăn bổ sung như: Dầu gan mực, dầu cá hồi, bột mực, bột cá FMB 60, Fish meal 66%.
+ Với hàm lượng 120-150 ppm: Chuyển sang dùng các loại thức ăn không chứa Ethoxyquin 06 ngày trước khi thu hoạch; Không dùng các loại thức ăn bổ sung như: Dầu gan mực, dầu cá hồi, bột mực, bột cá FMB 60, Fish meal 66%.

 

2.4.3. Quản lý môi trường ao nuôi:

 

– DO, pH, độ trong (đo hằng ngày); độ kiềm và NH3 (3-5 ngày đo 1 lần).
– pH và độ kiềm là hai yếu tố quan trọng tác động đến đời sống của tôm. Khi pH và độ kiềm thay đổi ngoài khoảng thích hợp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tôm nuôi.
+ Khắc phục tình trạng pH thấp: gây tảo và giữ màu nước thích hợp đảm bảo độ trong đạt từ 30 – 40 cm. Trong quá trình nuôi nếu pH < 7,5 cần bón vôi (CaCO3, Dolomite) với liều 10 – 20 kg/1000 m3 nước.
+ Khắc phục tình trạng pH cao: sử dụng mật đường 3kg/1000 m3 kết hợp sử dụng vi sinh hoặc dùng Acid acetic 3lít/1000 m3.
+ Khắc phục độ kiềm thấp: sử dụng Dolomite 15-20kg/1000 m3 vào ban đêm cho đến khi đạt yêu cầu.
+ Khắc phục độ kiềm cao: sử dụng EDTA 2-3 kg/1000 m3 vào ban đêm.

 

Tùy vào tình hình thực tế môi trường ao nuôi mà điều chỉnh và bón lượng vôi cho phù hợp.

– Định kỳ bón vôi nông nghiệp CaCO3 10 ngày/lần vào lúc 20-21h với liều lượng dao động từ 10-20 kg/1.000 m3 tùy theo độ mặn để điều chỉnh pH thích hợp:
+ Nếu độ mặn dưới 17‰ thì điều chỉnh pH từ 8,2 – 8,4;
+ Nếu độ mặn trên 17‰ thì điều chỉnh pH giảm dần xuống 8,0 – 8,2;
+ Nếu độ mặn = 25‰ thì điều chỉnh bằng 7,7 – 7,8.

 

Đến 11-12h trưa ngày hôm sau, cấy vi sinh theo chỉ dẫn của nhà cung cấp (sản phẩm có uy tín, thương hiệu) để làm sạch môi trường.

– Nếu độ mặn giảm đột ngột do mưa thì phải điều chỉnh bằng nước ót (nước muối) hoặc bổ sung muối hột.

 

– Khi tảo trong ao phát triển mạnh, màu nước thay đổi, pH dao động trong ngày >0,5, cần:
+ Thay tối thiểu 30% lượng nước trong ao;
+ Hòa tan 2-3 kg đường cát/1000 m2 và tạt đều ao vào lúc 9 – 10 giờ sáng.
+ Chạy cánh quạt, sục khí liên tục trong vài giờ.

 

– Khi nhiệt độ nước ao tăng trên 340C:
+ Cần giảm thức ăn;
+ Bổ sung vitamine C (trộn vào thức ăn);
+ Tăng thời gian chạy quạt nước, sục khí;

 

– Khi nhiệt độ nước ao giảm xuống dưới 240C, có hiện tượng tôm vùi đầu, phải giảm thức ăn và tăng đề kháng ngay.
– Hạn chế lấy nước vào ao nuôi, khi cần thiết thì lấy nước vào ao lắng rồi xử lý Chlorine liều 30kg/1000m3 chạy quạt liên tục, đến khi hết dư lượng Chlorine thì tiến hành bơm vào ao nuôi (qua túi lọc).
– Trong quá trình sinh trưởng, tôm cần rất nhiều khoáng nên cần duy trì độ kiềm từ 120 mg/lít trở lên bằng cách sử dụng vôi CaCO3 hoặc Dolomite và thường xuyên bổ sung khoáng cho ao nuôi vào ban đêm 3 – 5 ngày/lần giúp tôm nhanh cứng vỏ và lột xác đồng loạt.
– Chỉ diệt khuẩn khi cần thiết (tránh những trường hợp như: tôm đang suy yếu, đang trong quá trình lột xác hay có các biểu hiện về bệnh gan…).

Lưu ý:

 

– Hạn chế sử dụng men vi sinh trong giai đoạn đầu (giai đoạn tôm mới thả đến 1,5 tháng tuổi).
– Tháng thứ nhất: Giữ màu nước hồ nuôi thích hợp (xanh nõn chuối) tạo sự ổn định các chỉ số môi trường pH, kiềm, nhiệt độ, oxy hoà tan,.. tránh sinh tảo đáy hoặc tảo phát triển quá mức.
– Tháng thứ 2:
+ Giữ màu nước thích hợp (xanh nâu, đục), mực nước sâu 1,2-1,8 m để sự dao động về nhiệt độ, oxy hoà tan, pH giữa ban ngày và ban đêm diễn ra chậm không gây sốc cho tôm. Duy trì các yếu tố thích hợp độ trong từ 30 – 40cm; độ kiềm 80 -120; độ mặn từ 15-25 ‰; pH từ 7,5 – 8,5; Oxy hòa tan > 4 mg/lít; H2S < 0,01 mg/l; NH3 < 0,1mg/l.
+ Định kỳ 20 – 25 ngày xử lý nước và đáy hồ bằng chế phẩm sinh học theo hướng dẫn của nhà cung cấp.
+ Quạt nước, sục khí bổ sung oxy từ 19h00 đến 05h00 sáng hôm sau.
+ Có thể bổ sung thuốc bổ, thuốc đường ruột, các loại khoáng, trộn vào thức ăn cho tôm ăn theo hướng dẫn của các nhà cung cấp có thương hiệu, uy tín để tăng cường sức đề kháng.

 

2.5. Thu hoạch:

Tùy theo giá cả mà người nuôi chọn thời điểm thu hoạch cho phù hợp khi tôm đạt kích cỡ. Trước khi thu hoạch cần theo dõi chu kỳ lột xác của tôm và hạn chế thu khi tôm còn mềm vỏ để tránh tình trạng tôm bán bị rớt giá.