Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Quản Lý Nuôi

Công nghệ mới trong sản xuất tôm giống

Chất lượng tôm giống là yếu tố tiên quyết cho một vụ nuôi thành công. Các công ty sản xuất giống tôm thẻ chân trắng vừa và nhỏ ở Việt Nam đều nhập tôm bố mẹ sạch bệnh của Công ty Shrimp Improvement Systems (SIS) hay Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam đã qua chọn lọc nhiều thế hệ. Vì thế quy trình công nghệ nuôi vỗ, sinh sản, ương nuôi ấu trùng, quản lý an toàn sinh học… của trại giống sẽ quyết định chất lượng tôm giống.

Ở khâu nuôi vỗ, các loại thức ăn cần thiết để tôm tái thành thục cần phải đảm bảo sạch bệnh. Do thức ăn nuôi vỗ tôm bố mẹ chủ yếu là mực, ốc mượn hồn, rươi, và moi nên cần thiết phải khử trùng virus trong các loại thức ăn tươi sống này trước khi cho ăn. Công nghệ vi bọt khí và ozone có thể giảm nồng độ vi khuẩn và virus trong thức ăn tươi sống.

Lắp đặt hệ thống nuôi tảo thu tự động (ví dụ: Tisochrysis lutea, tên cũ là Isochrysis galbana) nhằm cung cấp “nguồn sữa mẹ” chất lượng tốt với sản lượng ổn định cho ấu trùng Nauplius. Tảo được nuôi trong hệ thống kín và thu liên tục nên đảm bảo tinh sạch và mật độ cao. Việc bổ sung tảo chất lượng mật độ cao cũng sẽ giúp giảm tác động đến môi trường bể nuôi do ảnh hưởng của nước nuôi tảo.

Artemia mới nở sẽ không có nhiều dinh dưỡng nên để đủ dinh dưỡng, ấu trùng tôm phải bắt được nhiều Artemia, đồng nghĩa chúng sử dụng nhiều năng lượng hơn cho hoạt động bắt mồi. Vì thế cần phải cường hóa artemia với tảo, acid béo cần thiết hoặc một số nucleotide trước khi cho ấu trùng tôm ăn để đảm bảo thức ăn đủ dinh dưỡng với lượng ít nhất. Thức ăn công nghiệp cho các giai đoạn sau nên phối trộn một số loại thức ăn của các hãng uy tín. Bột moi (krill meal) là thức ăn bổ sung bắt buộc cho giai đoạn này để tôm có sức khỏe tốt nhất. Chế phẩm vi sinh và các vitamin cần thiết cũng có thể được bổ sung vào cả thức ăn công nghiệp và Artemia để tăng cường sức khỏe cho tôm giống. Chất lượng nước được kiểm soát bằng chế phẩm EM hoặc chế phẩm vi sinh khác. Mật độ vi sinh có lợi trong hệ thống cao giúp duy trì ổn định chất lượng nước và kìm hãm sự phát triển của các vi khuẩn gây bệnh. Nước đầu vào thay vì được diệt khuẩn bằng hóa chất như chlorine hay axit hữu cơ có thể được xử lý bằng công nghệ vi bọt khí và ozone. Ưu điểm của công nghệ vi bọt khí và ozone là hạn chế tồn dư những tạp chất trong hóa chất xử lý nước. Ngoài ra, hàm lượng ôxy hòa tan trong bể ương có thể được nâng lên 9 – 10 ppm nhờ hệ thống vi bọt khí thay vì mức 4 – 6 ppm của hệ thống thổi khí. Khi ôxy được đưa vào trong nước dưới dạng vi bọt khí ở mức micromét và nanomét thì chúng có thể tồn tại trong nước rất lâu, thay vì bay lên không khí như sục khí thông thường.

Khi đóng gói và vận chuyển tôm, ngoài việc giữ nhiệt độ 20 – 240C, hàm lượng ôxy cao hơn mức bão hòa trong nước sẽ giúp tôm post khỏe hơn và đi xa hơn. Ngoài ra, các khâu sản xuất cần được phân tích và tuân thủ theo hướng dẫn an toàn sinh học trong trại giống do Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) hướng dẫn. Mẫu tôm cần được gửi tới các đơn vị có phòng lab đủ điều kiện để phân tích xét nghiệm PCR cho virus, vi khuẩn, và ký sinh trùng cho các giai đoạn.

Tóm lại, các trại tôm hoàn toàn có thể nâng cao sức khỏe tôm giống của mình khi áp dụng phù hợp các công nghệ vi bọt khí, ozone, vi sinh và nuôi tảo thu liên tục với quản lý an toàn sinh học chặt chẽ.

Tôm giống vụ nuôi mới: Giá tăng, chất lượng phải tăng

Giá tôm tăng đã khiến người nuôi bớt nhọc nhằn. Tranh thủ giá cao, nhiều địa phương bắt đầu thả nuôi vụ mới. Vấn đề con giống lại tiếp tục được đặt ra cả về số lượng và chất lượng.

Tại nhiều địa phương, giá tôm giống đang tăng do nhu cầu tăng cao khi tôm nguyên liệu đang khan. Tại Bạc Liêu, giá tôm thẻ chân trắng (TTCT) ở mức 40 – 70 đồng/con, có nơi giá 80 – 90 đồng/con.

Trong khi đó, ở Cà Mau, giá tôm giống cũng tăng nhẹ. Toàn tỉnh hiện có hơn 600 trại sản xuất tôm sú giống, mỗi năm sản xuất được 8 – 9 tỷ con tôm post, đáp ứng 50% nhu cầu sản xuất trong tỉnh, còn lại phải nhập từ Bạc Liêu, Bến Tre, Phú Yên… Ông Quách Nhật Bình, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Cà Mau cho biết: Mỗi năm, tỉnh cần khoảng 2,5 tỷ con TTCT giống. Nhu cầu tôm giống đang tăng trong vụ nuôi mới. Tôm giống được mua tại Công ty TNHH Việt – Úc tăng 4 – 5 đồng/con. Giá tôm giống của Công ty CP Chăn nuôi C.P. Việt Nam 86 – 90 đồng/con. Ngoài ra, do doanh nghiệp phải tăng chi phí đầu vào, bỏ thêm tiền mua ghe chở nước ngọt về trại giống, khiến giá tôm giống tăng 2 – 3 đồng/con. Chất lượng con giống sản xuất trong tỉnh được kiểm tra theo nơi sản xuất, xét nghiệm cụ thể… Nhưng, lượng tôm giống nhập từ ngoài tỉnh về chất lượng kém vẫn chiếm gần 30%.

Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Sóc Trăng, ông Nguyễn Văn Khởi, cho biết: Tỉnh còn thiếu nguồn tôm giống đảm bảo chất lượng; người nuôi mua tôm giống bên ngoài về, tỷ lệ đạt chất lượng chỉ gần 20%, nhiều tôm giống chưa được kiểm soát, dẫn đến dịch bệnh trong quá trình nuôi. Còn tại Bến Tre, theo Chi cục NTTS tỉnh, diện tích nuôi TTCT tăng gần 3 lần nhưng giá tôm cơ bản vẫn tương đương vụ nuôi trước. Giá tôm sú giống 70 – 80 đồng/con, TTCT 80 – 100 đồng/con. Toàn tỉnh có 8 trại sản xuất tôm giống, đáp ứng 30% nhu cầu trong tỉnh; mỗi năm tỉnh cần nhập 5 tỷ con tôm giống (tôm sú và TTCT). Lượng giống nhập về không đạt chất lượng chiếm 10 – 15%.

 

Trong khi đó, theo Công ty TNHH Việt – Úc, nhu cầu TTCT giống tăng 20% so với năm 2013. Hiện, Công ty thiếu khoảng 500 triệu con TTCT giống. Nhiều đơn hàng đã được đặt trước hàng tháng, tuy nhiên, trong 1,5 – 2 tháng, nhà cung cấp tôm bố mẹ mới có hàng.

Nếu thiếu giống TTCT sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy như một số doanh nghiêp, trại không có nguồn tôm bố mẹ sẽ cho tôm đẻ quá thời gian và số lần quy định hoặc một số cơ sở tự gia hóa tôm bố mẹ và phát tán, vi phạm quy định quản lý của Nhà nước… Mỗi năm nước ta phải nhập khẩu hàng vạn cặp tôm bố mẹ, giá mỗi cặp 20 – 60 USD, nhưng chất lượng gần như không kiểm tra được.

Về lâu dài, cần chủ động tôm bố mẹ giống, nhưng phải tuân thủ nguyên tắc chọn tôm có nguồn gốc rõ ràng, tôm bố mẹ sau 2 lần đẻ không nên sử dụng tiếp để gây giống. Trước mắt, người nuôi tôm nên có hợp đồng với các doanh nghiệp, trại giống, đại lý cung cấp tôm giống đạt yêu cầu chất lượng; được xét nghiệm bệnh và qua kiểm dịch để đảm bảo chất lượng trước khi thả nuôi.

Phương tiện mới đo lường tôm bố mẹ

Một dự án phát triển công nghệ tầm nhìn dưới nước để đo lường tôm bố mẹ đã được đưa ra, sau khi ký thỏa thuận giữa Hendrix Genetic và Plant & Food Research được thực hiện.

Để chọn chính xác động vật phù hợp làm bố mẹ sinh sản, các nhà di truyền học cần theo dõi các đặc điểm chính, bao gồm trọng lượng cơ thể và hình thái học (kích thước và hình dạng). Tuy nhiên, trong NTTS, việc thu thập dữ liệu trên từng động vật mang lại những thách thức đáng kể. Các phương pháp thông thường như cân nặng tốn nhiều công sức và có thể ảnh hưởng đến phúc lợi động vật. Công nghệ tầm nhìn dưới nước cung cấp một giải pháp để xác định, đo lường và chọn lọc giống chính xác và hiệu quả.

Plant & Food Research đã phát triển các quy trình dựa trên hình ảnh mới để tự động đo lường một loạt các tính trạng ở thủy sản. Hệ thống thông lượng cao sử dụng các đặc điểm phân biệt đặc trưng của loài, chẳng hạn như tạo hình trực quan gần giống với dấu vân tay, để xác định các cá nhân và theo dõi sự phát triển của chúng theo thời gian. Thông tin này có thể được sử dụng để xác định các cá nhân có những đặc điểm phù hợp nhằm cung cấp tiềm năng là cha mẹ trong các chương trình nhân giống NTTS. Dự án phát triển sẽ đánh giá khả năng tồn tại của công nghệ này trong môi trường thương mại bằng cách thực hiện một số trường hợp thử nghiệm trong cá hồi.

TS Robbert Blonk, Giám đốc R&D NTTS của Hendrix Genetic nói: “Thu thập dữ liệu chính xác và theo dõi các cá nhân trong NTTS là chìa khóa. Chúng tôi mong muốn được hợp tác với Plant & Food Research để triển khai công nghệ tiên tiến của họ để tiếp tục phát triển các chương trình nhân giống của chúng tôi”.

TS Maren Wellenreuther, Trưởng nhóm khoa học sản xuất thủy sản cho Plant & Food Research thông tin thêm, công nghệ tầm nhìn dưới nước có tiềm năng cho một bước nhảy vọt lớn về độ chính xác trong chăn nuôi và cải thiện gen hơn nữa. “Chúng tôi mong muốn tiếp tục phát triển công nghệ này và thấy nó được các đối tác trong ngành như Hendrix Genetic áp dụng” – ông nói.

Với chuyên môn kết hợp trong chăn nuôi, di truyền và công nghệ, các đối tác sẽ phát triển hơn nữa các kỹ thuật có khả năng cải thiện tần số và độ chính xác trong các phép đo tính trạng theo kết quả phúc lợi động vật được nâng cao. Dự án này sẽ tăng độ chính xác của lựa chọn trong chăn nuôi, trong đó chuyển thành các sản phẩm lành mạnh, hiệu quả cho toàn bộ ngành NTTS.

Hendrix Geneticcó trụ sở tại Hà Lan, là một công ty chăn nuôi đa loài hàng đầu với các hoạt động chính ở gà tây, gia cầm truyền thống, lợn, cá hồi Đại Tây Dương, cá hồi coho, cá hồi cầu vồng và nuôi tôm. Được hỗ trợ bởi danh mục đầu tư mạnh mẽ của các thương hiệu hàng đầu, Hendrix Genetic cung cấp chuyên môn và nguồn lực cho các nhà sản xuất tại hơn 100 quốc gia, với các hoạt động và liên doanh tại 25 quốc gia và hơn 3.400 nhân viên trên toàn thế giới.

Những dự báo về ngành nuôi tôm

Những dự báo về ngành nuôi tôm

Tôm thẻ chân trắng
Ngành nuôi tôm đang trải qua sự thay đổi lớn về kỹ thuật cũng như thương mại.

Theo nhà phân tích thủy sản cao cấp của Rabobank, Gorjan Nikolik, các nhà sản xuất tôm sẽ phải nắm bắt các công nghệ và kỹ thuật sản xuất mới để tồn tại.

Phát biểu tại hội nghị AllTech về Aqua InDepth, diễn ra tại Eindhoven, Nikolik đã trình bày một quan điểm của nhà đầu tư về khả năng tồn tại lâu dài của ngành và làm thế nào để phát triển mạnh trong một ngành công nghiệp thay đổi nhanh chóng. Trong bài thuyết trình của mình, Nikolik đã khám phá chuỗi giá trị tôm và cách thức các nhà sản xuất tôm có thể tận dụng các cơ hội mới.

Sau khi sụt giảm sản lượng giữa năm 2013 và 2014 do dịch bệnh hội chứng chết sớm (EMS), nguồn cung tôm đã phục hồi. Sự phục hồi chủ yếu là do người nuôi tôm chuyển sang nuôi thông minh hoặc bioflocs. Tuy nhiên, những người nuôi không thể mua được công nghệ mới đã gặp khó khăn trong việc kinh doanh. Do đó, sự gia tăng trong sản xuất và tăng trưởng của ngành không đều – mô hình sản xuất hiện tại có thể không ổn định.

Ngoài sự bất ổn này, ngành nuôi tôm hiện đang tiếp cận tình trạng thừa cung trên thị trường toàn cầu. Theo quan điểm của Nikolik, giá tôm có thể sẽ thay đổi.

Thay đổi mô hình thương mại

Ngành nuôi tôm đang trải qua sự thay đổi dòng chảy thương mại lớn. Bắt đầu từ đầu những năm 2010, con đường giao dịch chính của tôm là giữa Thái Lan và Hoa Kỳ. Theo Rabobank, nhập khẩu tôm được tập trung vào 3 khối thương mại lớn: Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản. Tuy nhiên, năm 2019, Trung Quốc đã nổi lên là nhà nhập khẩu lớn nhất và Nhật Bản đứng thứ tư về tổng nhập khẩu tôm.

Hiện tại, dòng chảy thương mại lớn nhất trong tôm nuôi là từ Ecuador đến Trung Quốc, trong khi nhập khẩu tôm Thái Lan của Mỹ đã giảm và Ấn Độ đã nổi lên như một nhà xuất khẩu chính. Theo số liệu của Rabobank, năm 2019 là một năm hoạt động kém của ngành tôm; giá vẫn ở mức thấp, mặc dù nhu cầu đã tăng. Người nuôi tôm có thể cảm nhận sâu sắc khó khăn này.

Các mô hình thương mại thay đổi có thể là do áp lực dịch bệnh và người nuôi tôm áp dụng các mô hình kinh doanh khác nhau để tự bảo vệ mình khỏi những cú sốc thị trường. Nikolik giải thích: Đây là lý do tại sao Ecuador đã nổi lên như một nhà sản xuất tôm lớn. Khi so sánh thành công mới của Ecuador với sự suy giảm gần đây của Thái Lan, Nikolik lưu ý rằng người nuôi tôm ở châu Á phải vượt qua những thách thức đáng kể để cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

Thay đổi mô hình kinh doanh

Nhìn về tương lai, Nikolik cho rằng mô hình kinh doanh hiện tại của sản xuất tôm sẽ thay đổi. Do sự đổi mới đóng vai trò mạnh mẽ trong ngành nuôi tôm, ông dự đoán rằng người nuôi tôm sẽ hiểu biết hơn về loài mà họ nuôi và sẽ chuyển sang các hệ thống sản xuất mới như siêu thâm canh và hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn RAS để duy trì tính cạnh tranh. Ông cũng dự đoán rằng để quản lý tốt hơn áp lực từ dịch bệnh, người nuôi tôm sẽ bắt đầu cách ly trang trại khỏi môi trường xung quanh (tương tự như chăn nuôi gà).

Từ góc độ loài, Nikolik cho rằng các nhà sản xuất cần nắm bắt tiến bộ di truyền của tôm và các chủng mới sẽ có thể phát triển mạnh trong các hệ thống sản xuất mới.

Nikolik nhấn mạnh rằng nuôi trồng thủy sản có thể đem lại lợi ích thực chất cho hành tinh. Mặc dù lĩnh vực này có thể có rủi ro, nuôi trồng thủy sản có thể sản xuất thực phẩm sạch và giàu giá trị dinh dưỡng cho thế giới và mang lại lợi nhuận trong dài hạn.

Theo The Fishsite

HNN Tổng cục thủy sản
Đăng ngày: 26/11/2019

Tổng quan một số quy trình công nghệ nuôi tôm tiên tiến nhất hiện nay

Tổng quan một số quy trình công nghệ nuôi tôm tiên tiến nhất hiện nay

Công nghệ nuôi tôm không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Bên cạnh những công nghệ nuôi tôm siêu thâm canh mật độ cao, một số công nghệ nuôi tôm mới dựa vào nguồn thức ăn tự nhiên hoặc sử dụng hoàn toàn thức ăn có nguồn gốc từ thực vật đang được ứng dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Bài viết này trình bày tổng quan về một số đặc điểm kỹ thuật cơ bản của các công nghệ nuôi tôm tiến tiến nhất hiện nay.

Copefloc: Công nghệ nuôi tôm mới sử dụng hoàn toàn thức ăn tự nhiên

Copefloc là một thuật ngữ dùng để chỉ một công nghệ nuôi tôm mới đang phát triển mạnh tại Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam và nhiều quốc gia khác. Copefloc = Copepods + Biofloc là một công nghệ nuôi tôm sử dụng copepods (giáp xác chân chèo), các hạt biofloc và các động vật thân mềm sống đáy (giun nhiều tơ,…) như là một nguồn thức ăn chính yếu cho tôm nuôi và hoàn toàn không sử dụng thức ăn chế biến (thức ăn viên công nghiệp). Hệ thống nuôi tôm theo công nghệ copefloc có nhiều thuận lợi như: thiết kế vận hành đơn giản, ít rủi ro, chi phí nuôi thấp do không tốn tiền thức ăn cho tôm, tốc độ tăng trưởng của tôm rất cao, lợi nhuận thu được cao, không gây ô nhiễm môi trường. Một số đặc điểm nổi bật của hệ thống này là: ao nuôi không cần lót bạt, không cần cống trung tâm để siphon đáy ao, hoàn toàn khép kín và không thay nước, không sử dụng bất kỳ loại hóa chất diệt khuẩn và xử lý nước nào, không sử dụng kháng sinh, không cần bổ sung khoáng chất, không cần ương tôm 30 ngày trước khi thả xuống ao nuôi, và đặc biệt là không sử dụng thức ăn công nghiệp, tôm sử dụng hoàn toàn thức ăn tự nhiên có trong ao nuôi.

Sau khi lấy nước vào ao nuôi từ ao lắng (nước được xử lý, lắng lọc ở ao lắng trong một thời gian dài) đến khi đạt độ sâu từ 1.2 – 1.5 m, tiến hành gây nuôi copepods, các loài phiêu sinh động vật, giáp xác nhỏ khác (krill) và động vật thân mềm sống đáy (barnacle, giun nhiều tơ, các loài hai mảnh vỏ, và các loài động vật thân mềm sống đáy khác) bằng cách dùng cám gạo lên men với chế phẩm sinh học (probiotics). Tuyệt đối không cung cấp nguồn copepods hay các sinh vật khác từ bên ngoài vào ao nuôi để tránh trường hợp chúng mang mầm bệnh vào ao nuôi, tất cả các loài thức ăn tự nhiên có trong hệ thống nuôi tự nó sẽ phát triển khi có các điều kiện thích hợp. Cám gạo được cho vào trong chậu (bể) lớn để tiến hành lên men bằng cách cho nước ao nuôi và chế phẩm sinh học vào và sụt khí mạnh trong 24 – 48 giờ. Sau đó cho hỗn hợp cám gạo lên men vào trong túi vải dài (dạng giống như ống bơm nước), chuyển xuống ao nuôi và thường xuyên đảo túi vải để dịch cám gạo lên men với probiotic lan tỏa khắp ao nuôi. Ao nuôi được sụt khí liên tục trong thời gian từ 7 – 10 ngày trước khi thả giống tôm. Sử dụng cám gạo lên men ban đầu với liều lượng khoảng 300 kg hoặc 30 ppm trên 1 hecta để gây tạo thức ăn tự nhiên trong ao. Cám gạo lên men sẽ là nguồn thức ăn cho copepod, động vật thân mềm và các loài sinh vật khác trong ao. Khuyến cáo mật độ tôm nuôi trong mô hình này là dưới 50 con/m2. Ở mật độ nuôi này, tôm có thể phát triển tốt, hạn chế cạnh tranh về thức ăn tự nhiên. Thả nuôi với mật độ cao hơn sẽ dẫn đến việc cạnh tranh về thức ăn, dẫn đến thiếu thức ăn, chất lượng nước ao nuôi bị biến động, chất thải (phân tôm) nhiều có thể dẫn đến hình thành khí độc và phát sinh mầm bệnh.

Nuôi tôm sử dụng thức ăn có nguồn gốc từ thực vật lên men

Đây là quy trình nuôi tôm dựa trên công nghệ copefloc, nhưng trong quá trình nuôi có bổ sung thêm các loại thức ăn lên men có nguồn gốc thực vật hoặc bổ sung thức ăn chế biến (thức ăn công nghiệp). Ưu điểm của công nghệ nuôi này là tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên có trong ao, bổ sung các loại thức ăn lên men có nguồn gốc thực vật như cám gạo hay đậu nành lên men với chế phẩm sinh học hoặc có bổ sung thêm thức ăn công nghiệp giúp giảm giá thành sản xuất (giảm chi phí thức ăn), tôm tăng trọng nhanh, nuôi được mật độ cao hơn mô hình copefloc.

                                    Cho tôm ăn đậu nành lên men (Ảnh: Aquamimicry Vietnam)
Trong mô hình này, ao nuôi thường có diện tích lớn khoảng từ 0,5 đến 1 ha/ao. Mật độ nuôi từ 30-100 con/m2. Sau khi cải tạo ao nuôi đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật, sử dụng cám gạo nghiền mịn với liều lượng 400-500 kg (50 ppm) lên men với chế phẩm sinh học sau 24-48 giờ bổ sung vào ao nuôi (giống như đã trình bày trong mục nuôi tôm theo công nghệ copefloc) và sụt khí liên tục để kích thích sự phát triển của phiêu sinh động vật, động vật đáy… trong ao tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm. Tiếp tục bổ sung cám gạo lên men hàng ngày với liều lượng 30-50 kg/ha đến khi độ trong đạt 30-50 cm. Tiếp tục sụt khí và duy trì hàm lượng oxy hòa tan >5 ppm, pH từ 7.5-8.0 cho đến khi thả giống.

Tiếp tục duy trì bổ sung cám gạo lên men hàng ngày với liều lượng như trên trong suốt quá trình nuôi. Sau khi thả giống được khoảng 5 ngày, bổ sung đậu nành lên men với liều lượng 1-3 kg/100.000 tôm post. Cho tôm ăn đậu nành lên men theo trọng lượng cơ thể tôm (từ 1-5%, tùy theo trọng lượng tôm) 3 lần/ngày, kết hợp với bổ sung cám gạo lên men trong suốt quá trình nuôi. Có thể bổ sung thức ăn công nghiệp 1-2 lần/ngày, tùy theo mật độ nuôi và nhu cầu của tôm. Nếu bổ sung thêm thức ăn công nghiệp, phải giảm số lần cho tôm ăn đậu nành lên men và liều lượng cám gạo lên men bổ sung hàng ngày.

Nuôi tôm theo qui trình 3 pha (three-phase) trong ao

Hệ thống nuôi tôm 3 pha được phát triển bởi công ty Công ty Grupo Granjas Marinas, Honduras. Điểm nhấn trong quy trình công nghệ này là hệ thống nuôi luân trùng (rotifer) và giáp xác chân chèo (copepod) với qui mô lớn kết hợp với ao ương tôm và ao nuôi thương phẩm để giúp rút ngắn chu kỳ nuôi và gia tăng năng suất tôm lên đáng kể mà không phụ thuộc vào các nguồn protein khác từ thức ăn nhân tạo.

                                   Phiêu sinh động vật-nguồn dinh dưỡng tự nhiên tốt nhất cho tôm nuôi
Hệ thống nuôi tôm 3 pha của họ bao gồm một ao ương nuôi tôm trung tâm, hệ thống raceway (hệ thống thông dòng nước, hệ thống nuôi nước chảy) nuôi rotifer và copepod, và tôm sau khi ương sẽ được chuyển sang ao nuôi thương phẩm có diện tích lớn hơn. Hệ thống này có thể sản xuất tôm đạt trọng lượng 15-16 g/con trong thời gian 8 tuần, tốc độ tăng trưởng hàng tuần đạt 4.2 g/con, với tỷ lệ sống trung bình đạt 74%. Trước mắt, công ty đã đưa vào hoạt động 400 ha ao nuôi cũ và đang có kế hoạch xây dựng thêm 700 ha vào năm 2015.

Hệ thống nuôi nhiều pha này không những làm gia tăng hiệu quả sản xuất mà còn mở ra một cơ hội mới góp phần bảo vệ môi trường nhờ vào việc sử dụng thức ăn tự nhiên. Một lượng sinh khối rất lớn của phiêu sinh động vật giàu dinh dưỡng có thể được sản xuất trong thời gian ngắn dùng làm thức ăn thay thế thức ăn nhân tạo cho tôm, góp phần gia tăng tính bền vững và lợi nhuận cho người nuôi tôm.

Công nghệ nuôi tôm raceway siêu thâm canh nhiều tầng (super-intensive stacked raceway) 

Đối với công nghệ nuôi tôm siêu thâm canh trong hệ thống raceway truyền thống, tôm được nuôi trong những bể nước hình chữ nhật,  các bể được bố trí nằm kề liền nhau và chúng được bố trí trong phòng lớn. Hệ thống này có nhược điểm là cần một không gian rất lớn để có thể sản xuất ra lượng tôm lớn và giá thành sản phẩm cao hơn so với tôm nhập khẩu. Để khắc phục những nhược điểm của hệ thống raceway truyền thống, tiến sỹ Addison L. Lawrence, một nhà khoa học tại Phòng Thí Nghiệm Nghiên Cứu Nuôi Trồng Hải Sản Texas AgriLife đã có một ý tưởng tuyệt vời là xếp chồng các bể raceway lên với nhau. Hệ thống này được gọi là nuôi tôm raceway siêu thâm canh nhiều tầng (super-intensive stacked raceway).

                Tiến sỹ Lawrence (người bên trái) bên hệ thống raceway nhiều tầng (Ảnh: nytimes.com)
Hiện nay, Royal Caridea, một công ty sản xuất thủy sản mới thành lập đã mua bản quyền cấp phép hệ thống này trên toàn thế giới và đã khởi công xây dựng một cơ sở sản xuất ứng dụng công nghệ nuôi này vào năm 2012. Tiến sĩ Lawrence dự đoán rằng, trong thời gian tới, mỗi khu vực đô thị lớn “sẽ có một trang trại nuôi tôm giống với mô hình này” và sẽ không còn nhiều lý do để dựa vào nguồn tôm nhập khẩu nữa.

Công nghệ semi-biofloc trong nuôi tôm thâm canh

Hệ thống nuôi tôm thay nước nhiều thường duy trì được chất lượng nước tốt, tuy nhiên do vấn đề an toàn sinh học và môi trường nên người nuôi đã quan tâm nhiều hơn đến việc ứng dụng các công nghệ nuôi tôm không thay nước như biofloc. Để ứng dụng thành công công nghệ biofloc, người nuôi cần phải đáp ứng cùng lúc rất nhiều yếu tố như thả tôm với mật độ cao, hệ thống sục khí và đảo nước thích hợp và đủ công suất (25-30 hp/ha), điều chỉnh đúng tỉ lệ C:N (>15), hệ thống kiểm soát ao nuôi đúng và chặt chẽ. Từ những khó khan trên, nhiều người nuôi tôm ở Indonesia đã chuyển sang công nghệ nuôi đơn giản hơn biofloc gọi là semi-biofloc hay còn gọi là hệ thống lai (hybrid) kết hợp giữa sinh vật tự dưỡng và dị dưỡng (autotrophic and heterotrophic organism).

Đặc điểm của hệ thống này là tạo ra môi trường cân bằng, với khoảng 30-40% sinh vật tự dưỡng chủ yếu là tảo Chlorella (autotrophs) và 60-70% sinh vật dị dưỡng (heterotrophs) chủ yếu là các chủng Bacillus. Sinh khối floc sẽ được duy trì kiểm soát thông qua việc bón định kỳ chế phẩm sinh học (probiotic), CaCO3, MgCO3 và chất hữu cơ. Mật độ tảo được kiểm soát bằng cách điều chỉnh và duy trì tỷ lệ N:P = 25:1, điều chỉnh hệ vi sinh vật dị dưỡng bằng cách bổ sung chế phẩm sinh học (Bacillus) và các nguồn carbohydrate. Ao nuôi được cải tạo trước khi thả giống 20 ngày nhằm thiết lập ổn định hệ sinh vật tự dưỡng và dị dưỡng (tảo và vi khuẩn có lợi). Các yếu tố chất lượng nước cần quan tâm bao gồm màu nước, pH, độ kiềm, thành phần tảo và vi khuẩn trong ao. Hệ thống sụt khí hiệu quả, đảm bảo duy trì hàm lượng oxy hòa tan >4 ppm, định kỳ siphon đáy ao để loại bỏ chất thải. Độ trong duy trì từ 25-30 cm.

Công nghệ biofloc trong nuôi tôm thâm canh

Công nghệ biofloc được Giáo sư Yoram Avnimelech khởi xướng ở Israel và do Robins McIntosh thực hiện đầu tiên trong nuôi tôm thương phẩm ở Belize, Indonesia.

Hệ thống biofloc được phát triển để nâng cao khả năng kiểm soát môi trường trong nuôi trồng thủy sản. Thông thường, nuôi tôm với mật độ cao cần phải có một hệ thống xử lý chất thải. Hệ thống biofloc cho phép các chất thải hữu cơ và quần thể vi sinh vật tồn tại trong ao nuôi. Thông qua quá trình xáo trộn nước và sụt khí để duy trì sự hiện diện của các hạt floc, chất lượng nước được đảm bảo. Công nghệ BFT là giải pháp giải quyết 2 vấn đề: (1) Loại bỏ các chất dinh dưỡng chuyển hóa vào sinh khối vi khuẩn dị dưỡng xử lý nước ao nuôi, (2) Sử dụng Biofloc làm thức ăn bổ sung tại chỗ cho đối tượng nuôi. Do đó, BFT làm giảm chi phí thức ăn và được coi là giải pháp để phát triển bền vững ngành nuôi trồng thủy sản quy mô công nghiệp.

Yêu cầu về năng lượng điện cho sụt khí và đảo nước của hệ thống biofloc vượt xa các hệ thống nuôi thông thường và hầu hết các hệ thống nuôi tuần hoàn. Hệ thống ao nuôi tôm sử dụng công nghệ biofloc cần cung cấp sụt khí với công suất khoảng 25-30 hp/ha. Tỷ lệ sụt khí cao như thế không thể áp dụng cho các ao đất không lót bạt vì sẽ gây nên xói mòn đất, do đó hầu hết các ao nuôi theo công nghệ biofloc đều có lót bạt hoặc đáy bằng bê-tông. Công nghệ biofloc không khuyến cáo cho những khu vực nuôi có nguồn điện không ổn định và giá điện cao.

Trong hệ thống biofloc, yếu tố quan trọng trong kiểm soát ammonia là tỷ lệ C:N thêm vào thông qua thức ăn hay các nguồn khác. Một loại thức ăn có hàm lượng protein khoảng 30-35% có tỷ lệ C:N tương ứng thấp, chỉ khoảng 9-10:1. Gia tăng tỷ lệ C:N thêm vào khoảng 12-15:1 để kiểm soát hàm lượng ammonia thông qua các vi sinh vật dị dưỡng. Tỷ lệ C:N thấp có thể được kiểm soát bằng cách bổ sung các nguồn nguyên liệu có tỷ lệ C:N cao hoặc gia tăng tỷ lệ C:N bằng cách dùng thức ăn có hàm lượng protein thấp. Ammonia được hấp thụ nhanh chóng bởi vi khuẩn sau khi bổ sung carbohydrate. Kiểm soát ammonia bằng vi khuẩn dị dưỡng thường ổn định và bền vững hơn so với tảo hay quá trình tritrate hóa.

Có rất nhiều nguồn nguyên vật liệu có thể dùng để cung cấp carbohydrate vào hệ thống biofloc, bao gồm bột ngũ cốc, mật đường, bã mía, cỏ khô băm nhỏ (chopped hay) hay các nguồn khác. Để kiểm soát nồng độ ammonia thông qua con đường vi khuẩn dị dưỡng, carbohydrate bổ sung phải thực hiện theo tỷ lệ cho ăn. Đối với mỗi kg thức ăn có hàm lượng protein 30-38% thêm vào hệ thống, cần cung cấp 0.5-1 kg carbohydrate.

Quản lý hệ thống nuôi theo công nghệ biofloc không đơn giản, đòi hỏi những kỹ thuật tương đối phức tạp cần thiết để đảm bảo cho hệ thống hoạt động tốt và đạt năng suất cao.

Công nghệ ương nuôi tôm siêu thâm canh trong hệ thống nước chảy (raceway)

Kỹ thuật raceway xuất phát từ các quốc gia Nam Mỹ (Mexico, Ecuador, Honduras, Mỹ, Guatemala…), phát triển mạnh từ năm 2008 khi dịch bệnh EMS/AHPND bùng phát mạnh tại các quốc gia này. Công nghệ này được ứng dụng rộng rãi trong nuôi tôm, đặc biệt là phổ biến trên nuôi tôm thẻ chân trắng. Mục tiêu quan trọng của công nghệ nuôi raceway là giúp gia tăng lợi nhuận trên cùng đơn vị diện tích và trên cùng khoảng thời gian nhờ vào khả năng xoay vòng ngắn; tận dụng tối đa đặc tính sinh học vượt trội của tôm thẻ chân trắng, đặc biệt là khả năng tăng trưởng bù; tính an toàn sinh học cao giúp giảm thấp rủi ro và gia tăng khả năng thành công của vụ nuôi.

Theo kết quả nghiên cứu của tiến sỹ Tzachi Samocha và cộng sự tại Phòng thí nghiệm Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản AgriLife ở Corpus Christi, Texas; hệ thống nuôi raceway có thể sản xuất được hơn 9 kg tôm thẻ chân trắng trên mỗi mét khối nước với mật độ nuôi lên đến 530 con/m3 nước. Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) trung bình thấp, khoảng 1-1,2; tốc độ tang trưởng hàng tuần của tôm nuôi đạt 1,3 g/tuần. Ngoài ra, hệ thống này giúp giảm chi phí sản xuất tôm từ 5 USD/pound xuống còn khoảng 2 USD/pound. Thời gian nuôi thương phẩm chỉ mất 3 tháng, cho phép sản xuất được 4 vụ/bể/năm. Hệ thống nuôi khép kín đã ngăn chặn thành công sự bộc phát của virus, và tỷ lệ chết được giữ dưới 0,5% mỗi tuần.

Công nghệ nuôi này yêu cầu trình độ quản lý kỹ thuật cao, đặc biệt là phải đảm bảo hàm lượng oxy hòa tan (DO) của hệ thống phải ở mức tốt nhất. Do không thay nước (chỉ bổ sung khoảng 1% tổng lượng nước mỗi ngày để bù đắp cho lượng nước bay hơi), hệ thống raceway chứa dày đặc các hạt biofloc chứa vi khuẩn và vi tảo trong môi trường hạn chế thay nước. Đây cũng là nguồn dinh dưỡng quan trọng làm thức ăn cho tôm.

Đây là hệ thống cần đầu tư ban đầu lớn, cần trình độ quản lý, kỹ thuật cao để có thể nuôi đạt kết quả tốt nhất.

Công nghệ nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kính

Hiện nay, mô hình nuôi tôm trong nhà kính đang lan rộng ở ĐBSCL do kiểm soát được vấn đề dịch bệnh, ô nhiễm môi trường và ít rũi ro hơn các mô hình nuôi khác. Nuôi tôm trong nhà kính chi phí đầu tư ban đầu khá cao. Tổng chi phí đầu tư cho 1 ha khoảng 10 tỉ đồng, gồm xây nhà bao phủ các ao nuôi tôm, xây tường xung quanh ao nuôi, lót bạt dưới đáy ao, lắp đặt hệ thống quạt, oxy đáy, hệ thống cho tôm ăn tự động, …

Nhờ mô hình đầu tư khá hiện đại và khép kín nên có thể thả nuôi thâm canh với mật độ khá cao. Trung bình mật độ thả nuôi từ 200 – 290 con/m2, tôm sau 100 – 105 ngày thả nuôi là có thể thu hoạch, tôm đạt kích cỡ từ 30 – 33 con/kg, năng suất đạt khoảng 60-90 tấn/ha. Tôm nuôi trong nhà kính có nhiều ưu điểm như dễ kiểm soát các yếu tố môi trường (nhiệt độ), tôm nuôi tăng trưởng khá nhanh, đặc biệt là tôm thương phẩm sau thu hoạch bóng và đẹp nên được các công ty chế biến tôm xuất khẩu thu mua với giá cao so với thị trường.

                        Hệ thống ao nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kính (Ảnh: Aquanetviet.com)
Do tôm thả nuôi với mật độ cao nên hệ thống dàn quạt và ô xy đáy phải hoạt động liên tục 24/24 giờ. Theo đó, định kỳ 5 ngày phải cấy vi sinh một lần và hàng tuần phải kiểm tra sự tăng trưởng của tôm để điều chỉnh lượng thức ăn, môi trường nước kịp thời. Điều đặc biệt là nuôi tôm trong nhà kính không cần thay nước, nguồn nước có thể được tận dụng để thả tôm nuôi những vụ tiếp theo. Do đó, người dân sẽ chủ động được khâu xử lý nước thải trong môi trường nuôi tôm – một vấn đề bức thiết lâu nay mà không có giải pháp khắc phục. Ngoài ra, để quản lý tốt môi trường ao nuôi định kỳ 3 – 4 ngày phải siphon đáy ao một lần, làm sạch môi trường nuôi tạo ra sản phẩm nuôi sạch đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường xuất khẩu.

Tóm lại, hiện nay có rất nhiều quy trình công nghệ nuôi tô khác nhau; mỗi công nghệ có ưu điểm, nhược điểm và mức độ đầu tư khác nhau. Tuỳ theo điều kiện thực tế mà người nuôi có thể cân nhắc lựa chọn công nghệ nuôi phù hợp để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.

Nguồn: aquanetviet.com

Làm sạch môi trường nuôi tôm bằng quy trình biogas

Với mục tiêu nuôi tôm bền vững mang lại hiệu quả kinh tế cao, giảm thiểu ô nhiễm, ông Nguyễn Trường Đại (xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch) đã áp dụng quy trình biogas xử lý chất thải trong chăn nuôi heo để xử lý chất thải trong nuôi tôm siêu thâm canh.

Ông Nguyễn Trường Đại (xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch) giới thiệu hệ thống xử lý chất thải trong nuôi tôm.

Cách làm này giúp ông kiểm soát chất lượng nước, tôm lớn nhanh, ít nhiễm bệnh. Không những bảo vệ môi trường, hệ thống xử lý nước thải bằng biogas còn cung cấp nguồn khí gas phục vụ sinh hoạt hằng ngày cho gia đình.

* Làm sạch nước ao tôm

Những năm qua, nhiều hộ nuôi tôm trên địa bàn xã Vĩnh Thanh sau mỗi mùa thu hoạch đều xả nước thải trong ao trực tiếp ra môi trường mà không qua xử lý. Đến khi thả giống mới lại dùng chính nguồn nước ấy vào ao nuôi tôm. Hậu quả là tôm nhiễm bệnh, chết hàng loạt hoặc chậm lớn.

Nhận thấy điều này, ông Đại nghĩ ra cách áp dụng mô hình xử lý biogas trong nuôi heo cho nuôi tôm. Hệ thống này gồm 3 hầm phân hủy bằng composite có dung tích 18m3 chôn dưới đất được thiết kế thông nhau bằng ống nhựa đường kính 110mm, 1 túi chứa khí gas rộng 8m và dài 20m.

Ông Đại chia sẻ, xác lột của tôm nếu xả trực tiếp ra môi trường thì quá trình phân hủy sẽ gây ảnh hưởng đến nguồn nước. Áp dụng theo nguyên lý biogas xử lý chất thải trong chăn nuôi heo để xử lý chất thải trong nuôi tôm siêu thâm canh, ông Đạt cho lót bạt ở đáy, rồi dùng máy ép tấm bạt thành hình ống để làm túi chứa khí biogas. Túi được đặt dưới ao một đầu chỉ được mở khi hút chất thải, đầu còn lại đấu nối với ống nhựa dẫn đến hầm phân hủy.

Mỗi ngày 2 lần, sau khi cho tôm ăn khoảng 1 giờ, ông dùng quạt ly tâm để hút phân tôm, xác tôm lột và thức ăn dư thừa dưới đáy ao đưa vào hầm phân hủy. Chất thải sau khi đưa vào hầm khoảng 10 ngày thì sẽ có khí đốt. Khí đốt này được dẫn vào một hầm riêng phục vụ cho nấu nướng, bơm nước và chạy máy quạt làm mát, tạo oxy trong ao nuôi. Chất thải còn lại trong hầm được hút lên làm phân bón hữu cơ cho cây trồng.

* Tiết kiệm chi phí đáng kể

Từ một vuông tôm thử nghiệm, đến nay, tất cả ao tôm của ông Đại đều được lắp đặt hệ thống xử lý chất thải. “Trước đây, cứ 3 tháng nhà tôi hết một bình gas, mỗi tháng tốn khoảng 700 ngàn tiền dầu cho máy làm mát và đèn chiếu sáng ngoài ao. Giờ đây không mất bình gas nào, cũng không phải mua dầu nữa. Lượng gas nhiều quá, tôi còn cho máy phát điện thắp sáng ban đêm. Tôm được xử lý chất thải hằng ngày, có quạt làm mát liên tục nên lớn nhanh, dịch bệnh giảm đáng kể. Lợi ba bốn đường” – ông Đại vui vẻ.

Với cách xử lý này, nguồn nước ở khu vực nuôi tôm siêu thâm canh của gia đình ông Nguyễn Trường Đại luôn được đảm bảo, đồng thời còn có thêm nguồn khí gas làm chất đốt phục vụ sinh hoạt và làm nhiên liệu cho máy phát điện.

Thấy sáng kiến của ông Đại có hiệu quả, giúp tôm sinh trưởng và phát triển nhanh hơn, hạn chế dịch bệnh và giải quyết đáng kể tình trạnh ô nhiễm nguồn nước trong chăn nuôi, nhân viên của Công ty cổ phần chăn nuôi C.P. Việt Nam xuống tận nơi học hỏi kinh nghiệm rồi giới thiệu lại mô hình, quy trình kỹ thuật cho nhiều người nuôi tôm nước lợ ở các tỉnh từ Bạc Liêu, Cà Mau, Nam Định, Quảng Ninh… Mới đây, ông Đại cũng đón các đoàn khách ở Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines sang tham quan và học tập mô hình xử lý chất thải trong chăn nuôi tôm.