Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Quản Lý Nuôi

Khắc tinh của virus gây bệnh đốm trắng ở tôm

Khắc tinh của virus gây bệnh đốm trắng ở tôm
Bệnh đốm trắng do virus là một trong các bệnh gây nên hiện tượng tôm nuôi chết hàng loạt trong các vùng nuôi tôm tại các địa phương ven biển ở nước ta từ nhiều năm qua. Để giải quyết bệnh đốm trắng cho tôm, mới đây, các nhà khoa học thuộc Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, đã chế tạo thành công chế phẩm Probiotic đề phòng virus gây bệnh đốm trắng ở tôm.
Bài toán nan giải

Việt Nam có bờ biển chạy dài từ Bắc xuống Nam, có hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ tạo nên một lợi thế lớn cho hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Thực tế thì ngành thủy sản đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, tuy nhiên, để phát triển bền vững cần có sự vào cuộc của các nhà khoa học với những đề tài mang tính ứng dụng cao.

Chưa kiểm soát tốt dịch bệnh là một hạn chế lớn của ngành thủy sản Việt Nam hiện nay. Có thời điểm, ngành thủy sản điêu đứng trước những dịch bệnh xảy ra trên tôm, cá vì bị nhiễm nấm, virut do thời tiết nóng, độ ẩm cao.

Do thời tiết bất thường, vùng nuôi ô nhiễm là nguyên nhân chính gây nên bệnh đốm trắng trên tôm. Khi ao nuôi xuất hiện dịch bệnh này người nuôi cần có phương án xử lý thích hợp để tiêu diệt mầm bệnh, tránh lây lan. Theo các nhà khoa học, tác nhân gây ra bệnh đốm trắng trên tôm do virus hoặc vi khuẩn gây ra, bệnh thường có tốc độ lây lan rất nhanh và mức độ gây hại rất lớn. Thời gian gây bệnh thường từ tháng nuôi thứ hai trở đi, khi mà lượng chất thải nuôi tôm bắt đầu xuất hiện nhiều, môi trường nước ao bị ô nhiễm, gây stress cho tôm; mầm bệnh có thể đã ủ trong tôm hoặc xâm nhập từ bên ngoài vào qua nguồn nước hoặc các loại ký chủ trung gian (cua, còng, cáy, chim…). Khi gặp thời thiết thay đổi sẽ tạo điều kiện cho các loại virus, vi khuẩn bùng phát gây ra dịch bệnh cho tôm.

Bệnh đốm trắng do virus là một trong các bệnh gây nên hiện tượng tôm nuôi chết hàng loạt trong các vùng nuôi tôm tại các địa phương ven biển ở nước ta từ nhiều năm qua.

Riêng năm 2014, theo số liệu của Cục Thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, bệnh đốm trắng đã xảy ra tại 250 xã, 68 huyện thuộc 22 tỉnh, thành phố trong cả nước, trải dọc theo chiều dài đất nước từ Quảng Ninh đến Cà Mau. So với năm trước, tuy số các địa phương để xảy ra bệnh đốm trắng giảm nhưng diện tích nuôi tôm bị bệnh lại tăng gần gấp đôi, lên tới hơn 22.600 ha, chiếm 3,33% tổng diện tích nuôi tôm của cả nước – trong đó có hơn 13.300 ha nuôi thâm canh và bán thâm canh, cùng với hơn 9.200 ha nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến.

Qua theo dõi, nhận thấy bệnh đốm trắng xảy ra trong năm qua ở cả 2 loài tôm nuôi chính là tôm chân trắng và tôm sú, với độ tuổi từ 10 đến 110 ngày sau khi thả giống. Diện tích nuôi tôm sú bị bệnh này nhiều hơn, chiếm khoảng 60% số diện tích nuôi tôm bị bệnh đốm trắng.

Giải pháp hữu hiệu

Để giải quyết bài toán bệnh bệnh đốm trắng cho tôm, mới đây, các nhà khoa học thuộc Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, đã chế tạo thành công chế phẩm Probiotic đề phòng virut gây bệnh đốm trắng ở tôm.

Thông qua việc thực hiện đề tài Nghiên cứu sản xuất chế phẩm probiotic dạng bào tử Bacillus tái tổ hợp để phòng chống virus gây bệnh đốm trắng ở tôm, mã số KC04.09/11-15, PGS.TS Phan Tuấn Nghĩa và các cộng sự Trường Đại học Khoa học Tự nhiên đã nghiên cứu sản xuất thành công dưới dạng vaccine và thử nghiệm ở quy mô pilot chế phẩm probiotic bào tử Bacillus subtilis biểu hiện kháng nguyên của virus gây bệnh đốm trắng ở tôm (tôm sú và tôm thẻ chân trắng).

Cụ thể là đã sản xuất được ở quy mô pilot 20 kg nồng độ lớn hơn hoặc tương đương 5×109/g probiotic bào tử Bacillus subtilis biểu hiện VP28 dạng CotB-VP28 và 10kg chế phẩm probiotic bào tử Bacillus subtilis biểu hiện VP28 có khả năng kích thích đáp ứng miễn dịch và bảo vệ 70% tôm không bị nhiễm bệnh đốm trắng…

“Phòng trừ bệnh cho tôm bằng phương pháp sử dụng công nghệ gen nhằm tạo ra vắc xin thế hệ mới mang kháng nguyên của tác nhân gây bệnh rồi sau đó đưa vào tôm. Điều này cho phép kích thích hệ thống miễn dịch của tôm, nhờ vậy tôm sẽ có khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh”, PGS. TS Phan Tuấn Nghĩa cho biết.

Nghiên cứu của các nhà khoa học đã thu được kết quả ban đầu khá tốt. Khi có nguy cơ lây nhiễm virus đốm trắng ở trong đầm nuôi thì tôm có khả năng phòng bệnh cao. Kết quả thu được đối với tôm thẻ chân trắng đạt trên 75%, còn tôm sú là trên 70%. Nhóm nghiên cứu cũng đã phối hợp với viện nuôi trồng thủy sản 1 và 2 thuộc Trường ĐH Cần Thơ để thử nghiệm cho thấy kết quả đạt được trên tôm sú và tôm thẻchân trắng rất khả quan. Quy trình nuôi này cũng có tác dụng ban đầu trên thực tế.

Việc sử dụng chế phẩm sinh học nhằm hạn chế tối đa khả năng sử dụng kháng sinh trong việc phòng và trị bệnh thủy sản là khuynh hướng đúng nhằm tránh khả năng tạo ra các dòng vi khuẩn kháng thuốc ảnh hưởng đến sức khỏe vật nuôi và con người.

 Đức Minh – VNU Media

Australia: Xử lý bệnh đốm trắng và IHHNV

Công ty CSIRO vừa phát triển công nghệ mới chẩn đoán bệnh chính xác, giúp người nuôi tôm tại Australia có thể tăng doanh thu tới 67.000 USD/ha.

Công nghệ Shrimp MultiPath được phát triển cho ngành tôm nuôi tại Australia đang phải đối mặt tổn thất lớn từ dịch bệnh suốt hơn 3 năm qua. Shrimp MultiPath có thể phát hiện chính xác 13 loại dịch bệnh trên tôm, trong đó có cả dịch bệnh đốm trắng từng khiến ngành tôm Australia bị thiệt hại nặng nề vào năm 2016 và  bệnh hoại tử vỏ và cơ quan tạo máu (IHHNV).

Theo CSIRO, Shrimp MultiPath đã được sử dụng thí điểm tại một số trại nuôi tôm như một công cụ quản lý dịch bệnh IHHNV. Kết quả cho thấy, Shrimp MultiPath giúp trại nuôi tăng sản lượng tới 3,7 tấn/ha, tương đương 67.000 USD. Điều này đồng nghĩa, một trại nuôi tôm rộng 50 ha có thể tăng doanh thu tới hơn 3 triệu USD/vụ nếu sử dụng công nghệ chẩn đoán bệnh này.

Tổng diện tích ao nuôi thuộc các trang trại tôm tập trung dọc phía Bắc New South Wales và Queensland lên tới 750 ha. Do đó, nếu có thể tăng sản lượng 3,7 tấn/ha thì năng suất nuôi tôm toàn vùng này có thể tăng thêm 50%. Giám đốc CSIRO, Tiến sĩ Larry Marshall chia sẻ: Genics – đơn vị chịu trách nhiệm kinh doanh cho CSIRO đã đưa các kết quả nghiên mang tính đột phá của Cơ quan khoa học quốc gia Australia vào ứng dụng thực tiễn trên thị trường. Các xét nghiệm nhanh của Genics giúp người nuôi tôm đưa ra quyết định quản lý trại nuôi tốt hơn, giảm thiểu tổn thất do tôm chết, bệnh; tăng sản lượng và giảm phụ thuộc vào nguồn tôm nhập khẩu. Từ đó mang lại các sản phẩm tôm nuôi chất lượng cao tại nội địa tới người tiêu dùng tại Australia.

Shrimp MultiPath phát hiện được bệnh đốm trắng và nhiều mầm bệnh nước ngoài chưa từng xuất hiện tại Australia. Công nghệ này cũng được các cơ quan an toàn sinh học sử dụng như một hệ thống phát hiện sớm nhằm ngăn chặn lây lan dịch bệnh có thể gây tổn hại ngành tôm trong tương lai.

Tuấn Anh
Theo Fisnews

NGUYÊN NHÂN CHẬM LỚN TRÊN TÔM VÀ CÁCH PHÒNG TRỊ

 

Môi trường biến động là một trong những nguyên nhân gây stress và làm tôm chậm

trăng trưởng.  Ảnh: Naresh Kumar Dewangan và Ayyaru Gopalakrishnan 2016

 

Bài viết cung cấp những nguyên nhân làm tôm nuôi chậm lớn để bà con phòng tránh và nâng

cao hiệu quả vụ nuôi.

 

  1. Tôm giống chất lượng kém

 

Do tôm bố mẹ cho đẻ nhiều lần, quá trình chăm sóc, vận chuyển chưa đúng cách, tôm nhiễm mầm bệnh.

Giải pháp

->Lựa chọn con giống của nhà sản xuất có uy tín.

->Kiểm tra bệnh trên tôm trước khi thả nuôi, hoặc đưa mẫu tôm tới trung tâm kiểm dịch tôm giống.

 

  1. Thức ăn chất lượng kém:

 

Thức ăn là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển của tôm nuôi, thức ăn có đầy đủ dinh dưỡng giúp tôm nuôi tăng trưởng tốt, lớn nhanh và có sức đề kháng với mầm bệnh. Tuy nhiên vì chưa có nhiều thông tin về sản phẩm thức ăn nên vẫn còn tình trạng thức ăn giả, thức ăn kém chất lượng trên thị trường. Người nuôi vô tình mua phải những loại thức ăn này do đó cung cấp dinh dưỡng không đầy đủ cho tôm, từ đó làm tôm chậm lớn.

Ngoài ra thức ăn nuôi tôm cần được bảo quản đúng cách, tránh đặt dưới sàn nhà ẩm ướt hoặc ánh nắng trực tiếp chiếu vào sẽ làm giảm chất lượng của thức ăn. Việc cho ăn không đúng cách cũng làm tôm phân đàn, chậm lớn, không đồng đều, năng suất giảm.

 

  1. Mật độ quá dày, sinh khối lớn

 

Khi nuôi tôm mật độ quá dày, nhưng không cung cấp đủ chất dinh dưỡng và khoáng chất cần thiết cho tôm phát triển làm tôm chậm lớn.

Khuyến cáo: nuôi tôm mật độ phù hợp với mô hình nuôi để đảm bảo tôm sinh trưởng và phát triển tốt. Định kỳ chài lưới kiểm tra đánh giá số lượng tôm có trong ao và thường xuyên kiểm tra nhá cho tôm ăn để canh lượng thức ăn cho phù hợp. Định kỳ bổ sung khoáng vào thức ăn tôm và khoáng tạt vào ao nuôi. Nếu đánh khoáng nên đánh vào buổi tối.

 

  1. Bệnh phân trắng mãn tính

 

Sau khi tôm bị mắc bệnh phân trắng nếu không kịp thời chữa trị tôm yếu dần khả năng hấp thu chất dinh dưỡng kém làm cho tôm bị chậm lớn.

Do đó, khi phát hiện tôm bị bệnh phân trắng cần có biện pháp điều trị kịp thời và trị dứt điểm. Sau đó bổ sung men đường ruột Lactozyme ( liều lượng 5g/kg thức ăn) + acid hữu cơ Organic (liều lượng 10g/kg thức ăn)vào thức ăn cho tôm để cải thiện hệ vi sinh vật, giúp tôm hấp thụ chất dinh dưỡng.

 

  1. Tôm mắc các bệnh gây chậm lớn

 

– Hội chứng chậm tăng trưởng (MSGS)

 

 

Tôm sú (Penaeus monodon) bị ảnh hưởng bởi hội chứng tăng trưởng chậm (MSGS).

 

Dấu hiệu bệnh lý: màu tối khác thường, đánh dấu màu vàng sáng bất thường, râu giòn, tương quan khác biệt về kích thước. Không có dấu hiệu bệnh lý vi mô rõ ràng.

Nguyên nhân không chắc chắn nhưng có sự hiện diện của virus Laem-Singh (LSNV).

 

– Bệnh còi ở tôm sú (Monodon Baculovirus – MBV)

 

Dấu hiệu bệnh lý tôm có màu tối hoặc xanh tái, xanh xẫm. Tôm kém ăn, hoạt động yếu và sinh trưởng chậm (chậm lớn). Các phần phụ và vỏ kitin có hiện tượng hoại tử, có nhiều sinh vật bám (ký sinh trùng đơn bào, tảo bám và vi khuẩn dạng sợi). Gan tuỵ teo lại có màu trắng hơi vàng, thối rất nhanh. Tỷ lệ chết tích lũy có thể cao tới 70%.

Nguyên nhân: virus MBV (Monodon baculovirus) và virus HPV (Hepatopancreatie parvovirus)

 

– Bệnh vi bào tử trùng 

 

Tôm chậm lớn do EHP ký sinh trong hệ thống ống gan tụy và làm cho tôm không hấp thụ được chất dinh dưỡng. Dấu hiệu bệnh ở ao nuôi: không có dấu hiệu đặc biệt của bệnh chỉ nghi ngờ với sự xuất hiện của sự tăng trưởng chậm bất thường trong ao;

  • Nhiễm trùng phải được xác nhận bằng kính hiển vi hoặc phương pháp phân tử.

Nguyên nhân do: ký sinh trùng Enterocytozoon hepatopenaei ( EHP)

Biện pháp phòng:

+ Không dùng tôm giống có nhiễm mầm bệnh EHP, BMV, HPV… Xét nghiệm con giống, tuyệt đối không để cua còng vào ao, diệt giáp xác thật kỹ khi thả nuôi.

+ Tẩy dọn ao, bể nuôi như phương pháp phòng chung. Thường xuyên diệt khuẩn môi trường ao nuôi. Sử dụng vôi nóng (CaO) xử lý ao để có thể đạt độ pH đáy ao trong quá trình cải tạo cao hơn 11 – 12 để làm chết mầm bệnh EHP.

+ Nuôi tôm đúng mùa vụ, quản lý chăm sóc tốt, cung cấp đầy đủ thức ăn về chất và lượng. Không để tôm sock trong quá trình nuôi.

 

  1. Lạm dụng kháng sinh để phòng bệnh cho tôm

 

Việc sử dụng kháng sinh để phòng bệnh cho tôm và dùng quá liều kháng sinh khi trị bệnh giảm khả năng chuyển hóa thức ăn của tôm làm tôm chậm lớn.

Lưu ý khi sử dụng kháng sinh trị bệnh cho tôm: dùng đúng liều đúng chu trình 5-7 ngày tránh lờn thuốc. Sau đó cần bổ sung sorbitol 2g/1kg thức ăn nhằm giúp tôm đào thải kháng sinh hoặc thay thế bằng Kat- taurine ( liều dùng 1-2ml/kg thức ăn) sau khi dùng kháng sinh 3 ngày phải cho tôm ăn men đường ruột để khôi phục hệ vi khuẩn có lợi trong đường ruột tôm.

**không sử dụng kháng sinh phòng bệnh cho tôm giống và tôm nuôi, vì sẽ gây lờn thuốc và giảm khả năng chuyển hóa thức ăn của tôm.

 

  1. Căng thẳng do môi trường nuôi

 

Tôm biểu thị sự căng thẳng có sắc tố cao hơn và nguyên nhân gây ra bởi sự biến động của thông số môi trường trong ao nuôi tôm. Tôm trên bình thường, tôm dưới tôm bệnh. Ảnh: Naresh Kumar Dewangan và Ayyaru Gopalakrishnan 2016

 

Chất lượng nước là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong nuôi tôm. pH là một trong những thông số môi trường quan trọng quyết định quá trình sinh lý của tôm. Phạm vi từ 6,8 đến 8,7 cho tôm trong môi trường ao để tăng trưởng tối ưu. Theo nghiên cứu của Naresh Kumar Dewangan và Ayyaru Gopalakrishnan 2016 thấy rằng trong ao tôm phát triển bình thường độ pH tối đa chỉ xấp xỉ 7.7 trong khi đó ao tôm bệnh chậm lớn có độ pH tối đa lại ở mức 8.9. Sự xuất hiện của DO thấp trong môi trường ven biển đang gia tăng, và nó có tác động tiêu cực đến tăng trưởng và sinh sản thường xảy ra ở tôm ở nồng độ DO tức thời từ 3 – 5 mg/l. Đây có thể là một trong những nguyên nhân gây stress và làm tôm chậm trăng trưởng.

 

Với nuôi tôm trong nước có độ mặn thấp việc thiếu khoáng chất trong nước gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tôm làm tôm mềm vỏ khó lột xác, tăng trưởng chậm và thậm chí là tỉ lệ sống thấp. Thả nuôi tôm trong mùa nghịch khi nhiệt độ thấp sẽ làm tôm chậm tăng trưởng bởi khi nhiệt độ thấp trao đổi chất của tôm giảm theo làm tôm ăn yếu.

 

  • Bổ sung khoáng tạt( 1kg/1000m3)đầy đủ cho tôm nuôi ở độ mặn thấp.
  • Khi nhiệt độ giảm cần nâng mực nước trong ao giảm chênh lệch nhiệt độ, cho tôm ăn vào lúc trời ấm, lúc có nắng, tăng cường quạt nước, nâng mực nước của ao. Ương nuôi tôm trong ao lót bạt có che lưới từ 20 – 30 ngày trước khi san ra ngoài ao nuôi.
  • Đồng thời quản lý các yếu tố môi trường khác như để giảm stress cho tôm: độ kiềm, độ pH, khí độc ở ngưỡng phù hợp với sự tăng trưởng của tôm.

 

Nguồn tham khảo: http://tepbac.com

Nghiên cứu men vi sinh mới phù hợp cho nuôi thủy sản mặn lợ

Phân lập vi khuẩn
Phân lập bọt biển.

Các nhà khoa học đã nghiên cứu phân lập bọt biển để tìm ra chủng vi sinh phù hợp với nuôi trồng thủy sản nước mặn – lợ, nhằm khắc phục hạn chế của men vi sinh có nguồn gốc trên cạn khi dùng ở độ mặn và nhiệt độ cao.

Một số loài vi khuẩn làm tăng tỷ lệ tử vong ở tôm và gây thiệt hại kinh tế lớn. Nghiêm trọng nhất là Hội chứng hoại tử gan tụy cấp (AHPND) do vi khuẩn Vibrio (V. parahaemolyticus) gây ra tỷ lệ chết đáng kể, có thể lên đến 100% trên tôm nuôi bị nhiễm bệnh tại nhiều quốc gia. Trong đó hiệu quả kiểm soát các dòng Vibrio spp. của kháng sinh và chất khử trùng khá hạn chế. Dẫn đến việc sử dụng men vi sinh làm công cụ kiểm soát dịch bệnh ngày càng được quan tâm và phổ biến.

Hiện tại, có rất nhiều men vi sinh thương mại, chủ yếu dựa trên các chủng vi khuẩn Lactobacillus và Bacillus. Thông qua việc thay đổi hệ vi sinh đường ruột trong tôm bằng cách tiết ra các chất kháng khuẩn, nhằm cạnh tranh chống lại mầm bệnh, ngăn chặn sự bám dính của chúng vào biểu mô ruột, cạnh tranh các chất dinh dưỡng cần thiết và chống độc.

Ở môi trường biển, dòng Vibrio spp. thuận lợi phát triển trong độ mặn và nhiệt độ cao, trong khi hầu hết các chủng men vi sinh thương mại hiện nay lại có nguồn gốc trên cạn, vì thế hiệu quả của chúng bị hạn chế. Theo Zhang et al. (2016), độ mặn làm thay đổi hệ vi sinh vật trong tôm, độ mặn càng cao thì Vibrio càng chiếm ưu thế, trong khi theo Vezzulli et al. (2013), nhiệt độ dưới 370C ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của Lactobacillus.

Cho nên, khám phá sinh học biển để phân lập vi khuẩn dùng làm chế phẩm sinh học trong nuôi thủy sản nước mặn – lợ là một giải pháp đầy hứa hẹn.


Men  vi sinh phân lập từ bọt biển là một giải pháp đầy hứa hẹn cho nuôi trồng thủy sản.

Pseudovibrio chiết xuất từ bọt biển

Động vật không xương sống dưới biển, đặc biệt là bọt biển, chứa các cộng đồng vi sinh vật rất đa dạng. Trong số các vi khuẩn biển có thể nuôi cấy thì nổi bật là chi Pseudovibrio nhờ tính linh hoạt có thể tạo ra hoạt tính sinh học chống lại đa dạng các vi khuẩn Gram âm và Gram dương như: E. coli, Bacillus subtilis, Kluyveromyces marxianus, Salmonella enterica, Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA) và Clostridium difficile.

Thiết lập nghiên cứu

Tổng cộng có chín mẫu bọt biển A. geradogreeni đã thu thập trong bốn môi trường sống ở độ sâu khác nhau từ 10-30 m ở vùng nước ven biển của tỉnh Santa Elena (Ecuador). Phân loại của các phân lập biểu hiện hoạt tính sinh học xác định dựa trên trình tự nucleotide của gen 16 rRNA. Với việc nuôi cấy Pseudovibrio thuần túy, các dịch độc dược được thực hiện trong môi trường Luria-Bertani với NSW và 20% glycerol, được lưu trữ ở -800C cho các thử nghiệm tiếp theo.

Kết quả và thảo luận

Các nhà nghiên cứu đã phân tách một số chủng P.denitrificans, thử nghiệm thử thách trong phòng thí nghiệm và trong ao nuôi.


Hiệu quả có lợi của chủng Pseudovibrio đối với tôm thẻ chân trắng (thời gian theo dõi: 108 ngày).

Hoạt tính kháng khuẩn của các chủng Pseudovibrio liên quan với quá trình chuyển hóa acid sulfuric và acid tropodithietic có thể tiêu diệt hoặc ức chế mầm bệnh Vibrio spp. ở ấu trùng cá biển. Ngoài ra, nhiệt độ và độ mặn là ưu thế để Pseudovibrio cạnh tranh với Vibrio spp. Vì Pseudovibrio là một loại vi khuẩn điển hình trong môi trường biển, có mức tăng trưởng tối ưu khoảng từ 25-310C.

Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy hoạt tính sinh học chống lại V. parahaemolyticus, V. campbellii, V. Vulnificus và V. harveyi và chống lại chủng gây bệnh có độc tính cao của V. parahaemolyticus BA94C2 dương tính với PirA/PirB, độc tố liên quan đến bệnh lý AHPND trong nuôi tôm. Ngoài ra, các xét nghiệm được tiến hành ở giai đoạn ấu trùng tôm Postlarvae 3 ngày đã bị nhiễm V. harveyi cho thấy khả năng cạnh tranh của của P. denitrificans với mầm bệnh, giúp cải thiện tỷ lệ sống của PL.


A) Tỷ lệ sống của PL tôm thẻ nhiễm V. campbellii sau 5 ngày điều trị với Pseudovibrio.
B) Tỷ lệ sống của PL tôm thẻ nhiễm V. parahaemolyticus sau 5 ngày điều trị với Pseudovibrio.

Tác dụng của P. denitrificans đối với bệnh phát sáng ở tôm giống do các chủng Vibrio gây ra đã được chứng minh thông qua thí nghiệm thực tế trong sản xuất giống. Ngoài ra, P. denitrificans còn giúp tăng sản lượng, tỷ lệ sống, trọng lượng và năng suất thu hoạch tôm bình quân ở nuôi tôm thương phẩm.


Hiệu quả của các chủng P. denitrificans xâm chiếm và thay thế các chủng Vibrio trong tôm 48 giờ sau khi sử dụng P. denitrificans 

Hoạt tính sinh học của Pseudovibrio denitrificans qua các thí nghiệm invitro đã được khẳng định khả năng kháng khuẩn, ức chế mầm bệnh, nâng cao tỷ lệ sống của tôm cá nhiễm bệnh trong nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, trong tương lai vẫn còn cần thực hiện nhiều nghiên cứu hơn để đánh giá nồng độ thực tế để áp dụng ở quy mô thương mại.

 

Theo CRISTÓBAL DOMÍNGUEZ-BORBOR và cộng sự.

Thanh An

Chia sẻ của chuyên gia đi đầu trong lĩnh vực di truyền của tôm

Di truyền tôm
Nghiên cứu di truyền trên tôm là một công việc thú vị nhưng cũng gặp phải nhiều thách thức.

Chuyên gia Marcela Salazar, một trong những người đi tiên phong về việc nghiên cứu di truyền trên tôm đã nói về các chương trình nhân giống tôm cùng với thuận lợi và thử thách khi bà thực hiện.

Cảm hứng để đến với nghiên cứu di truyền trên tôm của chuyên gia

Bà là một bác sĩ y khoa đam mê nghiên cứu. Khi làm việc trong các dự án về việc kiểm tra tính tương hợp trong cấy ghép tủy xương, bà đã được tiếp cận sâu hơn với miễn dịch học. Sau đó, bà làm tại một cbà ty tiên phong về nghiên cứu sinh học phân tử  và theo bà một sự tình cờ đã đưa bà vào thế giới của tôm. Năm 1999, virus WSSV xuất hiện và gây hại cho tôm ở bờ biển Thái Bình Dương. Do đó, Trung tâm nghiên cứu nuôi trồng thủy sản ở Colombia đã yêu cầu công ty của bà thực hiện xét nghiệm PCR để chẩn đoán mầm bệnh để giúp ngăn ngừa và kiểm soát virus này. Bà theo suốt dự án từ lúc đầu và cũng từ đó bắt đầu suy nghĩ về một lĩnh vực mới cho bản thân mình.

Tác động để chuyên gia hiện thực hóa các chương trình nhân giống tôm

Bà tìm đến sự hỗ trợ của nhiều bộ phận khác nhau, từ những đội ngũ đang làm nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực có liên quan, để tiếp cận được với những cbà nghệ và cơ sở vật chất hiện đại. Bà tạo ra một sức mạnh tổng hợp giữa di truyền và dinh dưỡng. Họ cũng tìm được tiếng nói chung, cùng học hỏi kinh nghiệm từ các chương trình nhân giống khác.

Ở Colombia, phòng nghiên cứu của bà và các cộng sự gần như là cách ly với các cơ sở nuôi trồng khác trong nước. Khí hậu vô cùng thuận lợi cho sự phát triển của tôm thẻ chân trắng (P. vannamei). Họ có nhiều không gian để mở rộng và sản xuất số lượng tôm bố mẹ theo nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó là một phòng thí nghiệm được lập ra để thực hiện công việc nghiên cứu.

Những vấn đề mà chuyên gia đang tập trung nghiên cứu cũng như thành tựu đã đạt được

Phòng nghiên cứu của bà đã giới thiệu về những bộ gen tôm có khả năng kháng vius đốm trắng (WSSV) và hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND). Ưu tiên của bà là sản xuất những con tôm sạch, an toàn, không có mầm bệnh, có tiềm năng phát triển cao, nhưng phải chống lại được mầm bệnh và điều kiện môi trường khắc nghiệt.

Viện nghiên cứu đã đạt được một số thành tựu như đã mô tả được ảnh hưởng của việc tăng thân nhiệt của tôm trong nhiễm WSSV. Đồng thời cũng chỉ ra rằng những tế bào chết  trong cơ thể là một phần trong phản ứng chống lại virus của tôm. Hơn nửa viện nghiên cứu đã xác định được sự tỷ lệ ngược của giữa tăng trưởng và kháng WSSV ở tôm thẻ chân trắng và tự hào rằng đã sản xuất được dòng tôm khỏe mạnh với tốc độ tăng trưởng cao.

Cũng như các loài thủy sản khác, thị trường tôm bố mẹ cũng đang tăng trưởng đều đặn. Nổi bật là lượng tôm bố mẹ xuất khẩu từ Hawaii, quê hương của các chương trình nhân giống ở Mỹ tăng trưởng rõ rệt. Năm 2003 đạt gần 100.000 lên tới 800.000 trong năm 2015. Năm 2017, giá trị xuất khẩu đạt gần 30 triệu USD. Một số chương trình nhân giống ở Châu Á cũng phát triển tốt hằng năm.

Sự khác biệt giữa tôm SPR, SPF, SPT và APE

Tôm SPF là những con tôm được thử nghiệm và xác định là không có mầm bệnh. Theo hướng dẫn được thiết lập bởi USMFSP, tôm được thử nghiệm phải xuất phát từ một quần thể đã được kiểm tra âm tính với các mầm bệnh cụ thể trong ít nhất 24 tháng. Phải được nuôi trong các cơ sở có an toàn sinh học cao, tuân theo các biện pháp quản lý an toàn sinh học cùng với chương trình giám sát phù hợp sử dụng các xét nghiệm phân tử và mô bệnh học.

Tôm APE là thuật ngữ mô tả các con tôm nuôi trong ao hay bể , nơi chúng đã tiếp xúc với một hoặc nhiều mầm bệnh thông qua các thử nghiệm trong điều kiện nuôi cấy hoặc trong các môi trường nuôi khắc nghiệt. Thuật ngữ này cũng dễ gây hiểu lầm bởi vì tôm sẽ không bao giờ tiếp xúc với tất cả các mầm bệnh. Những con tôm này có thể mang mầm bệnh và có nguy cơ lây truyền.

Tôm SPR là dòng tôm kháng mầm bệnh cụ thể nào đó khác với SPT là khả năng chống chịu được một mầm bệnh nào đó. Kháng thể là khả năng chống lại mầm bệnh của tôm, chống lại vật lạ xâm nhập vào cơ thể chúng. Sức chịu đựng là giới hạn mà tôm có thể chịu được với mầm bệnh, hay nói cách khác là khả năng “sống chung với kẻ thù” của tôm. Hai loại phòng vệ trên có cả ở thực vật, động vật không xương sống và động vật có xương sống.

Một quan niệm sai lầm khi nói về kháng thể của tôm là một đặc điểm định tính và tôm có khả năng đề kháng hoặc mẫn cảm cao. Còn sức chịu đựng là một đặc điểm định lượng với nhiều mức độ khác nhau và chịu ảnh hưởng bởi môi trường. Nhưng trên thực tế cả hai đều là định tính và đều bị ảnh hưởng bởi môi trường. Do đó, khó phân biệt giữa dòng SPR và SPT

Những thách thứ mà ngành tôm phải vượt qua trong tương lai

Thách thức chính là làm sao có thể sản xuất một con tôm khỏe mạnh, tăng trưởng nhanh, không chỉ chống lại được mầm bệnh và còn có khả năng phục hồi trong điều kiện nuôi thương phẩm. Tuy nhiên môi trường biến động là một ảnh hưởng không nhỏ đối với các nhà nghiên cứu, chẳng hạn như nồng độ oxy thấp. Đặt ra một câu hỏi lớn là làm thế nào để tăng trưởng nhanh mà không làm tăng mức độ tử vong của tôm.

Hà Tử

Theo Rob Fletcher

 

Sự đa dạng vi sinh vật trong ruột tôm

Tôm thẻ chân trắng
Tôm có đường ruột nhạy cảm và dễ bị tổn thương.

Đường ruột của tôm có cấu tạo khá đơn giản nhưng là nơi nhạy cảm và dễ tổn thương nhất trên tôm. Các bệnh phổ biến thường gặp trên tôm hiện nay đa phần xuất phát từ đường ruột là chủ yếu như: đường ruột đứt khúc, phân trắng, viêm đường ruột…

Để ngăn chặn các mầm bệnh này, chúng ta cần hiểu rõ cấu tạo và phân loại các hệ vi sinh vật có trong đường ruột của tôm. Những tác nhân nào gây biến động hệ vi sinh vật ở đường ruột và làm sao để điều khiển được hệ vi khuẩn cộng sinh nhằm tăng khả năng kháng bệnh, tối ưu hóa tốc độ tăng trưởng và giảm chi phí thức ăn trong quá trình nuôi.

Nhằm giải đáp những vấn đề trên, Angela Landsman cùng các cộng sự ở Mỹ đã tiến hành nghiên cứu đánh giá  và làm rõ những vấn đề này qua các thí nghiệm và khảo sát của mình.

Phương pháp thí nghiệm

Thí nghiệm được thực hiện tại Balaton, MN của Mỹ, các mẫu tôm được lấy từ 3 môi trường khác nhau: môi trường tự nhiên, môi trường ao nuôi và môi trường được nuôi trong phòng thí nghiệm. Các chỉ tiêu môi trường của mẫu tôm ở phòng thí nghiệm và ao nuôi gần giống như nhau gồm:

+ Tổng mức nitơ amoniac (TAN) được duy trì ở mức dưới 3,0 mg / mL, nồng độ nitrite dưới 4,5 mg / mL và nồng độ nitrat nhỏ hơn 100 mg / mL

+ Độ mặn ở mức 28 ppt.

+ Mật độ thả 30 – 60 con /m3

+ Các hỗn hợp vi sinh có lợi như Pediococcus acidilacticiP. pentosaceus ,Lactobacillus plantarum và Bacillus subtilis được bổ sung hằng ngày.

Riêng ở tôm tự nhiên rất khó để xác định được các thông số cần thiết, vì vậy các mẫu tôm tự nhiên chỉ được sử dụng làm mẫu đối chứng do các thông số về độ tuổi, thức ăn gần như không chính xác.

Sau khi thu hoạch tiến hành loại bỏ các cơ quan và tách lấy ruột. Mẫu sẽ được đem đi chiết xuất DNA và phân tích PCR.

Kết quả thí nghiệm

Qua 699.259 lượt đọc và phân tích kết quả thí nghiệm các mẫu ruột tôm ở 3 môi trường sống cho thấy sự khác biệt lớn về số lượng vi sinh vật ở 3 môi trường. Trong đó chủng vi khuẩn được nuôi trong phòng thí nghiệm chiếm ưu thế hơn các môi trường còn lại như  ProteobacteriaBacteroidetesSaccharibacteria và vi khuẩn Actinobacteria. Nhưng riêng vi khuẩn VibrionaceaeFirmicutesFusobacteria và khuẩn lam được tìm thấy nhiều nhất ở mẫu tôm ao nuôi.


Các vi khuẩn được tìm thấy trong mẫu ruột tôm từ 3 loại môi trường.

Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ vi sinh vật ở ruột tôm rất phong phú, tôm được nuôi trong môi trường khác nhau thì các chủng loại vi khuẩn có trong ruột khác nhau. Bên cạnh đó các giai đoạn phát triển và nguồn thức ăn khác nhau cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hệ sinh thái này. Các yếu tố như điều kiện môi trường sống của tôm thay đổi, độ mặn, stress, phản ứng miễn dịch của tôm, thay đổi chế độ ăn uống hoặc tôm tiếp xúc với kháng sinh … cũng khiến vi khuẩn ở đường ruột tôm biến động và mất cân bằng.

Bằng cách phân tích PcoA và thống kê số lượng OTU, tác giả cũng chỉ ra rằng tôm được nuôi trong điều kiện phòng thí nghiệm có sự đồng nhất về số lượng hệ vi sinh vật trong đường ruột của tôm. Qua đó cho thấy quy trình nuôi ảnh hưởng rất lớn đến hệ vi sinh vật ở ruột tôm.

Khi hệ vi sinh vật trong ruột tôm bị mất cân bằng do các tác nhân tiêu cực có thể dẫn đến rối loạn sinh lý ở tôm, tạo điều kiện cho các vi khuẩn có hại gây bệnh phát triển mạnh, đặc biệt khi mà khuẩn Vibrio luôn tồn tại sẵn trong ruột tôm. Để hạn chế bệnh trên tôm do các vi khuẩn đường ruột gây ra, cần hiểu rõ nguyên nhân gây biến động và hệ vi sinh trong đường ruột tôm đang thiếu những chủng vi sinh nào, dựa vào đó để lựa chọn đúng những chủng vi sinh cần thiết để bổ sung.

Theo Angela Landsman và cộng sự.

YẾN QUYÊN Lược Dịch

Giải pháp phòng trừ dịch bệnh trên tôm

Hiện nay, tình hình dịch bệnh thủy sản nói chung nhất là với con tôm ngày một diễn biến phức tạp, nhiều bệnh chưa có giải pháp chữa trị dứt diểm, chính vì vậy, công tác phòng bệnh là hết sức quan trọng và người nuôi cần thực hiện nghiêm ngặt quy trình nuôi tôm được khuyến cáo.

Chuẩn bị ao nuôi: Cần phải chuẩn bị ao trước khi thả giống theo quy trình từ khâu tẩy dọn ao, diệt tạp, phơi đáy, khử trùng nền đáy và đảm bảo môi trường nước phù hợp cho sự sinh trưởng, phát triển của tôm. Chất lượng nước cấp vào ao nuôi bảo đảm giá trị của các thông số như sau: Ôxy hòa tan > 3,5 mg/l, pH từ 7 – 9 và giao động trong ngày không quá 0,5, độ mặn 5 – 35‰, độ kiềm từ 60 – 180 mg/l, độ trọng 20 – 50 cm, NH3 < 0,3 mg/l, H2S < 0,05 mg/l, nhiệt độ 18 – 33oC. Nước cần được xỷ lý kỹ và khử trùng trước khi đưa vào ao nuôi.

Chọn và thả giống: Tôm giống sạch bệnh là điều kiện quan trọng quyết định đến sự thành công của vụ nuôi. Người nuôi cần chọn mua con giống ở những cơ sở sản xuất giống có uy tín, có giấy tờ đảm bảo chất lượng giống, có giấy chứng nhận kiểm dịch (nếu mua từ tỉnh khác). Tôm giống phải đáp ứng TCVN 10257: 2014 (TTCT – tôm giống – yêu cầu kỹ thuật. Thả giống đúng lịch thời vụ theo khuyến cáo của cơ quan quản lý. Tôm giống cần được kiểm tra bệnh trước khi thả nuôi để đảm bảo tôm giống không bị nhiễm các bệnh theo quy định. Tôm giống cần đáp ứng được các phản ứng gây sốc bằng formalin 100 ppm và hạ độ mặn đột ngột xuống 0‰ trong 30 phút nhưng tôm có tỷ lệ sống 100%.

Cho ăn: Cho tôm ăn các loại thức ăn nằm trong danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam, có nhãn hàng hóa đầy đủ theo quy định về ghi nhãn hàng hóa và được bảo quản theo hướng dẫn ghi trên nhãn hàng hóa. Sử dụng loại thức ăn tùy thuộc cỡ tôm, tỷ lệ cho ăn và số lần cho ăn trong ngày thực hiện theo hướng dẫn của nhà sản xuất hoặc cơ quan quản lý nhà nước. Không sử dụng thức ăn đã hết hạn sử dụng.

Quản lý tốt và theo dõi các yếu tố môi trường: Dinh dưỡng được tích tụ trong ao từ thức ăn thừa, chất thải của tôm nuôi là nguyên nhân gây ra giảm chất lượng nước, ô nhiễm môi trường và dẫn tới bùng phát dịch bệnh. Do đó, hàng ngày kiểm tra các chỉ tiêu môi trường gồm oxy hòa tan, pH, độ mặn, độ trong, nhiệt độ và kiểm tra 3 – 5 ngày/lần đối với các chỉ tiêu độ kiềm, NH3, H2S bảo đảm giá trị nằm trong ngưỡng cho phép. Cần đặc biệt chú ý đến việc duy trì ổn định môi trường nuôi bằng các biện pháp cơ học như: quạt nước, sục khí đáy; các biện pháp sử dụng hóa chất và chế phẩm sinh học để cải tạo và ổn định môi trường ao nuôi. Tránh gây biến động môi trường đột ngột, dẫn đến sốc môi trường cho tôm làm cho tôm dễ mẫn cảm với tác nhân gây bệnh và cũng là điều kiện tốt cho bệnh bùng phát.

Sử dụng hợp lý thuốc, vi sinh vật, chế phẩm sinh học, hóa chất và chất xử lý cải tạo môi trường: Chỉ sử dụng các loại thuốc, hóa chất, chế phẩm sinh học có trong danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam trong NTTS để xử lý môi trường, phòng, chữa bệnh, quản lý sức khỏe tôm nuôi. Sản phẩm sử dụng phải có nhãn hàng hóa đầy đủ theo quy định về ghi nhãn hàng hóa và được bảo quản theo hướng dẫn ghi trên nhãn hàng hóa. Cách dùng thuốc, vi sinh vật, chế phẩm sinh học, hóa chất và chất xử lý cải tạo môi trường thực hành theo hướng dẫn của nhà sản xuất hoặc cơ quan quản lý nhà nước. Không sử dụng thuốc, vi sinh vật, chế phẩm sinh học, hóa chất và chất xử lý cải tạo môi trường đã hết hạn sử dụng hoặc nằm trong danh mục cấm.

Tăng sức đề kháng cho tôm: Cần bổ sung thêm các chất bổ sung thức ăn như: Vitamin, khoáng, men tiêu hóa, chế phẩm sinh học trong suốt quá trình nuôi giúp tăng cường khả năng tiêu hóa, tăng cường sự miễn dịch cho tôm giúp phòng bệnh. Liều lượng và cách sử dụng phải tuân thủ theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Hệ thống xử lý nước cấp và nước thải: Khu vực nuôi cần có hệ thống cấp thoát nước riêng biệt. Nước trước khi lấy vào ao nuôi, cơ sở sản xuất giống phải được kiểm tra chất lượng. Phải xử lý nước trước khi xả thải ra môi trường. Nước thảichỉ được xả ra môi trường xung quanh khi bảo đảm giá trị như sau: pH từ 5,5 – 9, BOD5 (200C) < 50 mg/l, COD < 150 mg/l, chất rắn lơ lửng < 100 mg/l, Coliform < 5.000 MPN/100 ml. Không xả nước thải sinh hoạt vào các ao. Rác thải trong sinh hoạt, bao bì của các sản phẩm sử dụng trong cơ sở nuôi phải được cho vào thùng chứa có nắp đậy. Thùng chứa không được đặt trên bờ ao nuôi và ao chứa/lắng.

Quản lý lao động: Công nhân làm việc tại cơ sở nuôi phải được tập huấn về an toàn lao động, bảo vệ môi trường; được hướng dẫn và biết cách bảo quản và sử dụng thức ăn, thuốc, vi sinh vật, chế phẩm sinh học, hóa chất và chất xử lý cải tạo môi trường. Công nhân phải vệ sinh sạch sẽ trước khi tiếp xúc với ao nuôi và khi chăm sóc quản lý tôm. Công nhân cần nghiêm túc khử trùng dụng cụ trước khi sử dụng và sử dụng dụng cụ như sàng, thuyền, chài và dụng cụ chăm sóc riêng cho từng ao để tránh lây lan dịch bệnh.

Đảm bảo an toàn sinh học trong quá trình nuôi bằng các công nghệ mới: Vấn đề then chốt và quyết định nhất để nuôi tôm thành công là tạo ra môi trường kín, biệt lập, ngăn chặn tuyệt đối sự ảnh hưởng của mầm bệnh, chất hữu cơ và các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến ao nuôi. Nên nuôi tôm theo quy trình khép kín theo phương pháp ít thay nước, nguồn nước đưa vào ao phải được lọc kỹ và diệt mầm bệnh, cần có ao chứa lắng lọc và xử lý trước khi sử dụng cho nuôi tôm. Tùy vào điều kiện kinh tế, kỹ thuật, kinh nghiệm và cơ sở hạ tầng, người nuôi có thể áp dụng các công nghệ nuôi tiên tiến trên thế giới như công nghệ nuôi sử dụng hệ thống tuần hoàn nước (RAS), công nghệ biofloc, công nghệ nuôi tôm siêu thâm canh trong hệ thống nước chảy (Raceway). Ở Việt Nam đã có nhiều mô hình nuôi tôm thành công bằng công nghệ nuôi kết hợp như nuôi tôm với cá rô phi, nuôi tôm với cá điêu hồng… với mục đích sử dụng cá để xử lý nước ao nuôi tôm. Khi ao nuôi xuất hiện dịch bệnh người nuôi cần có phương án xử lý thích hợp để tiêu diệt mầm bệnh, tránh lây lan sang khu vực khác.