Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Quản Lý Nuôi

Ảnh hưởng của độ mặn lên hiệu quả sử dụng thức ăn và tiêu hao oxy của tôm sú

Tôm sú
Tôm sú.

Nghiên cứu tìm hiểu ảnh hưởng của độ mặn lên thời gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn, độ tiêu hóa (thức ăn, đạm, năng lượng) và tiêu hao oxy cơ sở của tôm sú cần thiết.

Tôm sú (Penaeus monodon) là đối tượng nuôi quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam thì tôm nuôi chủ yếu ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tôm sú được xác định là đối tượng quan trọng trong cơ cấu các đối tượng nuôi thủy sản ở vùng nước lợ.

Theo nhiều tác giả thì độ mặn thích hợp cho nuôi tôm sú từ 15-25‰ (Padlan, 1982). Tuy nhiên, trong quá trình mở rộng diện tích nuôi thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long một số nơi người dân đã tiến hành nuôi tôm sú trong những vùng nhiễm mặn theo mùa với mô hình phổ biến là luân canh tôm sú (mùa khô) và lúa (mùa mưa) đạt hiệu quả được khá cao. Ngược lại, một số nơi khác người nuôi tôm sú phải gặp trở ngại do sự gia tăng cao độ mặn trong suốt mùa khô.

Độ mặn có vai trò khá quan trọng đối với sự phát triển của nghề nuôi tôm sú nói chung, Tuy nhiên, sống trong môi trường nước cơ thể tôm còn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi điều kiện môi trường thông qua sự tác động lên các phản ứng sinh lý, làm ảnh hưởng đến sự phát triển và tỷ lệ sống của tôm nuôi.

Nghiên cứu về ảnh hưởng của độ mặn lên các chỉ tiêu sinh lý về tiêu hóa và hô hấp được nghiên cứu (Rosas et al., 2001). Các nghiên cứu của Carefoot (1990) cho thấy quá trình tiêu hóa thức ăn có ảnh hưởng đến các thông số trao đổi chất, đặc biệt là khả năng tiêu hao oxy. Mặt khác, Cho et al. (1994) có nhận xét là khả năng tiêu hóa thức ăn của đối tượng nuôi có liên quan mật thiết đến hiệu quả kinh tế và việc kiểm soát ô nhiễm môi trường. Vì vậy, việc tìm hiểu ảnh hưởng của độ mặn lên thời gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn, độ tiêu hóa (thức ăn, đạm, năng lượng) và tiêu hao oxy cơ sở của tôm sú cần thiết.

Phương pháp thí nghiệm

Các thí nghiệm được thực hiện trên tôm sú giống (10±2 g) ở các độ mặn 3‰, 15‰, 25‰ và 35‰. Thời gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn của tôm sú được tiến hành trên bể nhựa 1 m3 , dạ dày tôm được thu sau khi cho tôm ăn lúc 20 và 40 phút và 1, 2, 3, 4 và 5 giờ, mỗi nhịp thu 10 tôm ở mỗi độ mặn để xác định lượng thức ăn, thời gian tôm sử dụng và tiêu hóa hết thức ăn trong dạ dày.

Độ tiêu hóa thức ăn, đạm và năng lượng của tôm được tiến hành trên bể composite 0,5m3 với phương pháp bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên và lặp lại ba lần. Xác định độ tiêu hóa được thực hiện thông qua thức ăn có chất đánh dấu o-xit crom (Cr2O3).

Tiêu hao oxy của tôm được xác định bằng hệ thống hô hấp kế với 10 cá thể tôm được đo riêng biệt ở mỗi độ mặn trong 24 giờ

Kết quả

Độ mặn có ảnh hưởng đến thời gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn và tiêu hao oxy cơ sở của tôm sú. Ở độ mặn 3‰, sau khi cho ăn 20 phút khối lượng thức ăn trong dạ dày tôm đạt giá trị lớn nhất là 0,028 g. Khi tôm sống ở độ mặn mà cơ thể phải điều hòa áp suất thẩm thấu (3‰ và 35‰) thì lượng thức ăn tôm sử dụng nhiều hơn khi sống ở độ mặn mà tôm ít phải điều hòa áp suất thẩm thấu (15‰ và 25‰). Lượng thức ăn lớn nhất trong dạ dày tôm ở độ mặn 3‰ và 35‰ tương ứng là 0,028 g và 0,025 g, trong khi đó lượng thức ăn lớn nhất trong dạ dày của tôm ở các độ mặn 15‰ và 25‰ là 0,023 g và 0,021 g.

Tổng thời gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn ở dạ dày tôm ở độ mặn 3‰ từ 3-4 giờ sau cho ăn và ở các độ mặn 15, 25 và 35‰ là tương đương nhau từ 4-5 giờ sau cho ăn.

Độ tiêu hóa (thức ăn, đạm và năng lượng) của tôm sống trong môi trường có độ mặn 3‰ thấp hơn có ý nghĩa so với các độ mặn 15, 25 và 35‰

Tiêu hao oxy cơ sở của tôm ở độ mặn 3‰ là thấp nhất so với các độ mặn còn lại 15, 25 và 35‰) và thấp có ý nghĩa so với ở độ mặn 25‰.

Tôm sú có khả năng điều chỉnh hoạt động sinh lý của cơ thể để thích nghi với độ mặn thấp tới 3‰, khi nuôi tôm ở độ mặn thấp cần tăng tần suất cho tôm ăn trong ngày nhiều hơn ở độ mặn cao.

Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tôm sú có khả năng điều chỉnh hoạt động sinh lý cơ thể nhằm hạn chế sự mất năng lượng để thích nghi với độ mặn thấp. Khi nuôi tôm ở độ mặn thấp thì cần tăng tần suất cho tôm ăn trong ngày nhiều hơn ở độ mặn cao.

Theo Đoàn Xuân Diệp , Đỗ Thị Thanh Hương  và Nguyễn Thanh Phương.

Nguồn :https://tepbac.com/

Hai nữ tiến sỹ theo đuổi nuôi tôm vi sinh

Nuôi tôm bằng chế phẩm sinh học (chất vi sinh) đảm bảo an toàn sinh học là xu hướng hiện đại đang lan rộng ở nước ta.

vi-sinh175612967
Tiến sỹ Mai Thi với tôm nuôi bằng chế phẩm sinh học.

NNVN giới thiệu hai gương mặt điển hình nghiên cứu và thực hiện nuôi tôm bằng chế phẩm sinh học cần được phổ biến rộng.

Sản xuất vi sinh bản địa

Từ ngày 11/11/2019, chế phẩm sinh học của Tập đoàn Thủy sản Minh Phú được lưu hành toàn quốc, sau gần một năm sử dụng thành công trên mấy trăm héc-ta nuôi tôm của Tập đoàn.

Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất Chế phẩm Sinh học của Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, Tiến sỹ Mai Thi cho biết: “Chế phẩm của chúng tôi đạt 1012 CFU/ml, tức là trong một mi-li-lít có nghìn tỷ con vi khuẩn có lợi, không thua các nước tiên tiến”.

Tiến sỹ Mai Thi giải thích: Nuôi tôm bằng chế phẩm sinh học là phương thức nuôi tôm an toàn sinh học, không dùng kháng sinh, không sử dụng thuốc hóa học, con tôm có chất lượng như tôm sinh thái (tôm – rừng, tôm – lúa). Bởi vì trong tự nhiên có rất nhiều loài vi khuẩn, có lợi lẫn có hại và thường tồn tại cân bằng, nhưng nếu loài có hại vượt trội sẽ gây ô nhiễm môi trường, sinh ra dịch bệnh.

Thời gian qua, quá trình phát triển nuôi tôm đã đưa ra môi trường nhiều chất thải cùng biến đổi khí hậu làm chất lượng nước suy giảm, dịch bệnh xảy ra và khi tôm bị bệnh, lại sử dụng kháng sinh kéo dài gây thêm bất lợi cho môi trường, còn tăng mức độ kháng thuốc của vi khuẩn có hại trong hệ tiêu hóa của con tôm, kết quả là dịch bệnh lan tràn.

Còn dùng chế phẩm sinh học trong xử lý ô nhiễm môi trường, cũng theo Tiến sỹ Mai Thi là tăng các loài vi khuẩn có lợi để đưa môi trường trở về trạng thái cân bằng. Tiến sỹ Mai Thi và cộng sự nghiên cứu ruột nhiều con vật như sùng đất, giun… để tuyển chọn vi khuẩn có lợi làm chế phẩm. Những vi khuẩn này là vi khuẩn bản địa nên khỏe hơn vi khuẩn trong chế phẩm nhập ngoại, vòng đời dài và còn có thể phục tráng khi bị thoái hóa.

Tiến sỹ Mai Thi trước đây ở một cơ quan của tỉnh Sóc Trăng từng chủ trì nghiên cứu chế phẩm sinh học được nhiều giải thưởng và từ tháng 4/2019, về Tập đoàn Thủy sản Minh Phú xây dựng Công ty TNHH Sản xuất Chế phẩm Sinh học. Vừa xây dựng cơ sở vật chất vừa tuyển chọn nhân sự, sau 3 tháng, sản xuất được mẻ chế phẩm đầu tiên, sử dụng nuôi 3ha tôm sú ở xã Thạnh Thới Thuận (Trần Đề, Sóc Trăng) đạt kết quả tốt.

Lập tức, công suất nâng lên để sử dụng cho 700ha nuôi tôm thẻ chân trắng của Tập đoàn ở tỉnh Kiên Giang. Vì nhà máy sản xuất ở tỉnh Hậu Giang, cứ được 500kg chế phẩm sinh học là Tiến sỹ Mai Thi đem lên xe chở về Kiên Giang, đưa vào phòng thí nghiệm pha chế theo yêu cầu sử dụng cho từng ao nuôi và từng lứa tôm. Kết quả nâng cao được chất lượng tôm, hạ giá thành sản xuất.

Khi được lưu hành toàn quốc, Công ty TNHH Sản xuất Chế phẩm Sinh học Minh Phú có 12 chế phẩm, gồm 4 chế phẩm xử lý ô nhiễm môi trường và 8 chế phẩm nuôi tôm.

Hiện nay, việc sử dụng chế phẩm sinh học nuôi tôm trên diện tích của Tập đoàn Thủy sản Minh Phú đã có đội ngũ kỹ sư thành thạo, còn Tiến sỹ Mai Thi tập trung đưa đến ao tôm của đông đảo nông dân đang liên kết xây dựng vùng nguyên liệu với Tập đoàn. Tiến sỹ Mai Thi tâm sự: “Tôi sẽ đồng hành cùng nông dân làm giàu”.

Nghiên cứu sử dụng vi sinh

Tiến sỹ Lê Thị Hải Yến ở Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển của TCty Cổ phần Sản xuất Kinh doanh Vật tư và Thuốc thú y (Vemedim) lại có nhiều nghiên cứu về sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm.

23-46-49-3112192175621665
Tôm nuôi bằng chế phẩm sinh học, khi chế biến có màu đỏ đẹp.

Tiến sỹ Hải Yến giải thích, chế phẩm sinh học dùng trong nuôi tôm có hai nhóm: Chế phẩm sinh học cho xử lý môi trường và chế phẩm sinh học hỗ trợ hệ tiêu hóa tôm. Các chế phẩm sinh học có thể ở dạng lỏng hoặc hạt, bột mịn có chứa các thể vi sinh vật hữu ích.

Vai trò của chế phẩm sinh học trong hỗ trợ hệ tiêu hóa cho tôm, theo Tiến sỹ Hải Yến, có kích thích miễn dịch đường tiêu hóa của tôm, tiết ra các hợp chất chống lại vi khuẩn gây bệnh và còn cạnh tranh dinh dưỡng, cạnh tranh nơi cư trú với vi khuẩn có hại khiến vi khuẩn có hại không phát triển được. Sử dụng chế phẩm sinh học bằng cách đưa vào cơ thể tôm như bổ sung thức ăn, ngâm, bổ sung vào ao nuôi; sử dụng thường xuyên hoặc định kỳ đều là những quy trình chặt chẽ có tính quyết định thành công nuôi tôm an toàn sinh học.

Đặc biệt, các chế phẩm sinh học được sản xuất từ các lợi khuẩn bản địa luôn có ưu thế về sự thích nghi và là ưu tiên lựa chọn của người nuôi tôm. Tiến sỹ Hải Yến giải thích cụ thể: “Trong nhiều trường hợp, các lợi khuẩn trong chế phẩm sinh học không thích nghi với môi trường bản địa, cho nên dù sản phẩm được chứng minh là hiệu quả tại quốc gia đã sản xuất ra chúng nhưng lại phát triển chậm hoặc chết ngay khi đưa vào môi trường ao nuôi tại Việt Nam nên không tạo được tác dụng như mong muốn”. Do đó, trong sử dụng chế phẩm sinh học để nuôi tôm, ngoài thời điểm, liều lượng và thời hạn thì sự thích nghi đóng vai trò quyết định thành công.

“Tóm lại, chế phẩm sinh học chỉ có kết quả tốt và đạt được như kỳ vọng trong trường hợp ao nuôi được quản lý tốt và dùng các chủng vi sinh vật đã thông qua chọn lọc kỹ lưỡng, phù hợp với môi trường bản địa”, Tiến sỹ Hải Yến nhấn mạnh.

SÁU NGHỆ

Nguồn :https://nongnghiep.vn/

Quyết liệt với dư lượng Ethoxyquin trong thức ăn thủy sản

Sau ngày 31/3/2020, thủy sản nhập khẩu vào EU sẽ không được có dư lượng Ethoxyquin.

14-54-53_ethoxyquin_trong_thuc_n_thuy_sn
Nuôi cá tra ở ĐBSCL.

Trước tình hình đó, Tổng cục Thủy sản  (Bộ NN-PTNT) vừa họp cùng các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp thủy sản và doanh nghiệp thức ăn chăn nuôi về vấn đề này.

Mẫu vi phạm Ethoxyquin chiếm tỷ lệ cao

Theo Tổng cục Thủy sản, ngày 7/6/2017, EU đã ban hành quy định số 2017/962 về sử dụng Ethoxyquin trong thức ăn chăn nuôi. Theo đó, sau ngày 31/3/2020, EU quy định Ethoxyquin không được phép sử dụng trong tất cả các loại thức ăn chăn nuôi (bao gồm thức ăn thủy sản).

Phản ánh từ nhiều doanh nghiệp xuất khẩu tôm, cá tra… sang EU, tháng 9, tháng 10 năm 2019, nhiều nhà nhập khẩu EU đã gửi thư nhắc nhở về thời gian áp dụng quy định nói trên của EU và yêu cầu các lô hàng tôm, cá tra… bán cho họ phải đảm bảo không được nuôi bằng thức ăn có Ethoxyquin.

Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), cho biết, Ethoxyquin không phải là vấn đề mới. Năm 2012, Nhật Bản đã tiến hành kiểm tra dư lượng Ethoxyquin trong thủy sản nhập khẩu, đặc biệt là tôm, với quy định về ngưỡng giới hạn cho phép Ethoxyquin trong sản phẩm thủy sản là 0,01ppm.

Sau đó, từ các kiến nghị của Việt Nam và Ấn Độ, đến 21/1/2014, Nhật Bản đã tăng ngưỡng cho phép với Ethoxyquin trong sản phẩm tôm lên 0,2ppm. Sau Nhật Bản, Hàn Quốc cũng tiến hành kiểm soát Ethoxyquin từ năm 2013 đối với tôm đông lạnh nhập khẩu, ngưỡng giới hạn cho phép là 0,01ppm.

Ở Mỹ, từ năm 1997, FDA đã bắt đầu khuyến cáo sử dụng Ethoxyquin từ 150ppm xuống 75ppm trong thức ăn thủy sản và bắt buộc tối đa 0,5ppm trong sản phẩm động vật và thủy sản chưa nấu chín. Theo các nhà nghiên cứu Mỹ, đến nay, ngưỡng cho phép này vẫn tương đối an toàn với người tiêu dùng.

Ở Việt Nam, không cấm sử dụng Ethoxyquin trong sản xuất thức ăn chăn nuôi và thủy sản, với ngưỡng giới hạn cho phép trong thức ăn thủy sản là 150ppm.

Tuy nhiên, quy định của EU khác với quy định của các thị trường khác về Ethoxyquin trong thủy sản. Chẳng hạn, trong khi Nhật Bản, Hàn Quốc chỉ kiểm tra dư lượng Ethoxyquin trên sản phẩm thủy sản nhập khẩu, thì EU lại cấm sử dụng Ethoxyquin trong thức ăn chăn nuôi. Điều này đồng nghĩa với việc, EU không chấp nhận các sản phẩm chăn nuôi, thủy sản nhập khẩu có dư lượng Ethoxyquin, dù là ở hàm lượng rất thấp.

Đây chính là nỗi lo lớn đối với ngành thủy sản cũng như từng doanh nghiệp. Bởi theo ông Hòe, EU đang là thị trường lớn và có tính định hướng của thủy sản Việt Nam. Năm 2019, EU là thị trường lớn nhất của tôm Việt Nam với giá trị gần 700 triệu USD (chiếm gần 21%), thị trường lớn thứ 3 của cá tra (đạt 227 triệu USD, chiếm 115), thị trường thứ 2 của cá ngừ (chiếm 19%), thị trường thứ 3 về mực và bạch tuộc (chiếm 12%)…

Chính vì vậy, sau khi nhận được công văn 2786/TCTS-NTTS của Tổng cục Thủy sản về việc thực hiện nghiêm các quy định sử dụng Ethoxyquin trong thức ăn thủy sản, VASEP đã tổ chức cuộc họp với các doanh nghiệp thủy sản để thông báo quy định của EU, cập nhật tình hình kiểm soát Ethoxyquin tại nhà máy thủy sản cũng như các bất cập của doanh nghiệp trong kiểm soát Ethoxyquin trong thủy sản xuất khẩu.

Đặc biệt, các doanh nghiệp đã phối hợp tổ chức lấy mẫu nguyên liệu tôm để kiểm tra. Tổng cộng đã lấy 152 mẫu tôm. Điều đáng lo ngại là sau khi kiểm tra, có tới 83 mẫu tôm (gần 55%) không đạt quy định về Ethoxyquin, trong đó có những mẫu dư lượng lên tới 258ppm.

Cũng theo ông Hòe, hiện nay trên thị trường có các hãng thức ăn thủy sản lớn như C.P Việt Nam, Thăng Long, Grobest, Uni Prisident, Tong Wei… Những hãng này chiếm hơn 70% thị trường thức ăn thủy sản. Sau khi kiểm tra nguồn tôm nguyên liệu sử dụng các loại thức ăn này, thì thấy rằng, chỉ có nguồn tôm sử dụng thức ăn của C.P Việt Nam gần như không phát hiện dư lượng Ethoxyquin, còn các loại thức ăn khác đều có tồn dư.

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến yêu cầu các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi phải rà soát lại toàn bộ nguồn nguyên liệu, phụ gia về dư lượng Ethoxyquin. Sao cho thức ăn thành phẩm phải đáp ứng được yêu cầu về Ethoxyquin của các thị trường xuất khẩu thủy sản. Thứ trưởng nhấn mạnh, nếu hành động quyết liệt, chúng ta hoàn toàn có thể đáp ứng được quy định của EU về Ethoxyquin.

Trước thông tin nói trên, đại diện nhiều doanh nghiệp sản xuất thức ăn thủy sản, đều khẳng định họ không hề bỏ Ethoxyquin vào thức ăn trong quá trình sản xuất. Mà Ethoxyquin đã có sẵn trong nguồn nguyên liệu sản xuất thức ăn, nhất là bột cá nhập khẩu từ Peru, Chile, bởi Ethoxyquin sẽ giúp chống ô xy hóa trong quá trình vận chuyển. Đại diện của công ty Cargill, cho biết, trong bột cá nhập khẩu, dư lượng Ethoxyquin thường ở mức 20 – 30ppm.

Do Việt Nam chỉ chiếm một lượng nhỏ bột cá xuất khẩu của Peru và Chile, nên các doanh nghiệp thức ăn chăn nuôi Việt Nam khó có thể yêu cầu các nhà cung cấp bột cá từ những nước nói trên đảm bảo yêu cầu không có Ethoxyquin trong bột cá bán cho Việt Nam.

Phải hành động quyết liệt

Tuy nhiên, việc đảm bảo nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi không có Ethoxyquin vẫn có thể làm được, nếu doanh nghiệp có quyết tâm. Theo chia sẻ từ đại diện C.P Việt Nam, từ sau khi Nhật Bản kiểm soát Ethoxyquin trong sản phẩm thủy sản nhập khẩu vào nước này, C.P Việt Nam đã khuyến cáo các nhà cung cấp bột cá, dầu cá cho C.P Việt Nam, không sử dụng Ethoxyquin trong những nguyên liệu này.

Bên cạnh đó, C.P Việt Nam tiến hành kiểm tra chặt chẽ dư lượng Ethoxyquin trong các lô nguyên liệu trước khi đưa vào sản xuất. Đó chính là lý do vì sao vừa qua các doanh nghiệp chế biến thủy sản tiến hành kiểm tra tôm sử dụng các loại thức ăn, thì tôm dùng thức ăn của C.P Việt Nam không phát hiện dư lượng Ethoxyquin.

Theo ông Trương Đình Hòe, để hỗ trợ doanh nghiệp và chuỗi sản xuất, cung ứng tôm có thể kiểm soát được dư lượng Ethoxyquin trong sản phẩm xuất khẩu vào các thị trường, nhất là thị trường EU, VASEP đề nghị Bộ NN-PTNT có văn bản yêu cầu các nhà máy chế biến thức ăn công bố rõ hàm lượng Ethoxyquin trên bao bì sản phẩm: đưa chỉ tiêu Ethoxyquin và việc ghi nhãn Ethoxyquin vào danh mục thanh, kiểm tra định kỳ và tăng cường của Tổng cục Thủy sản; xem xét, có ý kiến đến cơ quan thẩm quyền của EU về việc quy định ngưỡng giới hạn cho phép tồn dư Ethoxyquin trong sản phẩm thủy sản như các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ…

Ông Trần Đình Luân, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, cho hay, do nhiều thị trường vẫn chưa cấm Ethoxyquin giống như EU, nên hiện tại không thể cấm dư lượng Ethoxyquin trong thức ăn thủy sản. Vì vậy, giải pháp tốt nhất hiện nay là các doanh nghiệp thức ăn phải ghi rõ trên nhãn về dư lượng Ethoxyquin, để người nuôi thủy sản biết mà lựa chọn sản phẩm phù hợp nếu muốn xuất khẩu sang EU. Các doanh nghiệp tự ghi nhãn và chịu trách nhiệm với công bố của mình.

Từ nay đến 31/3, Tổng cục và các địa phương sẽ ra quân, kiểm tra việc ghi nhãn trên các sản phẩm thức ăn thủy sản với Ethoxyquin. Nếu phát hiện vi phạm giữa dư lượng ghi trên nhãn với dư lượng thực tế, doanh nghiệp sẽ bị xử phạt và công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.

THANH SƠN
Nguồn: https://nongnghiep.vn/

Ứng dụng công nghệ sinh học trong nuôi tôm VietGAP

(Thủy sản Việt Nam) – Nuôi tôm hiện đang gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh bùng phát khắp nơi, giá thành cao, hiệu quả kinh tế thấp, chất lượng sản phẩm kém, thị trường xuất khẩu có nhiều rào cản. Trước thực trạng trên đã có nhiều giải pháp đưa ra để nghề nuôi tôm phát triển bền vững trong đó có việc áp dụng công nghệ sinh học (CNSH). Sau đây là một vài mô hình điển hình.

Nuôi tôm công nghiệp

Hiện nay ứng dụng CNSH được coi là một giải pháp hỗ trợ mang tính tất yếu để ngành nuôi tôm công nghiệp tại nhiều nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng ổn định và phát triển bền vững. Khi, việc lạm dụng hóa chất, kháng sinh trong nuôi tôm thâm canh hiện nay đã phá vỡ cân bằng sinh thái và tác động xấu đến môi trường, chất lượng sản phẩm kém và tồn lưu các hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng đang tạo nên rào cản trong việc xuất khẩu tôm Việt Nam ra thị trường thế giới.

Nuôi tôm theo mô hình VietGAP hướng đến an toàn dịch bệnh, an toàn sinh học và vệ sinh thực phẩm nên CNSH cần được ứng dụng trong tất cả các khâu của quá trình nuôi tôm và có thể chia thành 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Trước khi thả giống

Cải tạo ao nuôi: Đối với ao đất có thể tháo cạn nước trong ao, dọn bùn đáy ao và sử dụng chế phẩm vi sinh để xử lý bùn đen ở đáy ao. Phơi đáy 10 – 15 ngày. Cày xới đáy ao để các khí độc NH3, H2S thoát ra khỏi đáy ao về tạo điều kiện thuận lợi cho hệ vi sinh vật phân giải ở đáy ao phát triển mạnh. Bón vôi cải tạo đáy và bờ ao. Cấp nước và diệt khuẩn với các sản phẩm không độc cho tôm như Vikon hoặc ít độc cho tôm như Isodine. Chỉ diệt khuẩn bằng Chlorine chỉ khi thực sự cần thiết với những ao nuôi khi vụ trước bị bệnh hoặc ao nuôi nằm trong vùng có dịch bệnh. Sau 5 – 6 ngày, tiến hành diệt tạp và bón phân gây màu nước. Đối với những ao nuôi khó gây màu nước có thể sử dụng chế phẩm vi sinh probio để gây màu nước. Với những ao nuôi có đáy bị nhiễm phèn nặng dùng chế phẩm vi sinh chuyên xử lý phèn có chủng vi sinh Thiobacillus spp. để xử lý phèn. Sử dụng chế phẩm vi sinh để gia tăng hàm lượng vi sinh vật có lợi trong ao nuôi. Kiểm tra thành phần vi sinh trong ao khi đạt yêu cầu thì tiến hành thả giống.

Đối với ao nuôi lót bạt HPDE, sau khi cải tạo ao xong tiến hành cấp nước đã xử lý vào ao nuôi, sau đó sử dụng chế phẩm vi sinh theo hướng dẫn của nhà sản xuất để nâng cao mật số vi khuẩn có lợi và kìm hãm sự tăng sinh vi khuẩn có hại trong ao nuôi.

Giai đoạn 2: Trong quá trình nuôi

Sử dụng chế phẩm vi sinh xử lý môi trường nước định kỳ trong suốt vụ nuôi để ổn định mật số vi khuẩn có lợi trong ao nuôi nhằm duy trì chất lượng nước trong suốt vụ nuôi và phòng trừ dịch bệnh. Sử dụng chế phẩm vi sinh trộn vào thức ăn trong suốt quá trình nuôi để ổn định hệ vi sinh vật trong đường ruột của tôm nhằm tăng cường sự bắt mồi của tôm, tăng khả năng tiêu hóa và hấp thu thức ăn, nâng cao hiệu suất sử dụng thức ăn đồng thời giúp phòng trị các bệnh về đường ruột của tôm.

Giai đoạn 3: Sau khi thu hoạch tôm thương phẩm

Sử dụng chế phẩm vi sinh để xử lý nước thải trước khi thải ra môi trường. Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều loại chế phẩm vi sinh với nhiều thương hiệu khác nhau;  tuy nhiên chế phẩm vi sinh được dùng phổ biến nhất, giá thành thấp, hiệu quả sử dụng cao và dễ áp dụng cho các hộ nuôi tôm theo mô hình VietGAP là chế phẩm EM (Efective Microorganism: Vi sinh vật hữu hiệu). Sử dụng theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất.

 

Công nghệ Biofloc nuôi TTCT

Biofloc đã trở thành công nghệ phổ biến trong các trại nuôi TTCT. Kỹ thuật Biofloc cơ bản được phát triển bởi TS Yoram Avnimelech ở Israel và được áp dụng ở quy mô thương mại lần đầu tiên bởi Công ty Belize Aquaculture ở Belize. Sau đó, đã được ứng dụng thành công trong các trang trại nuôi tôm ở Indonesia và Australia. Tại Việt Nam, công nghệ Biofloc cũng đã được ứng dụng thành công ở một số trang trại nuôi tôm; tuy nhiên hiện nay vẫn chưa được triển khai rộng rãi.

Tiếp cận công nghệ Biofloc nhằm nâng cao sinh khối của vi sinh vật làm thức ăn cho tôm bằng cách bổ sung thêm C để vi khuẩn sử dụng triệt để hơn nguồn N thải chuyển thành sinh khối trong Biofloc. Sử dụng công nghệ Biofloc sẽ nâng cao hiệu quả quản lý môi trường ao nuôi, giảm dịch bệnh, giảm lượng thức ăn thông qua việc sử dụng hiệu quả nguồn dinh dưỡng của thức ăn.

Biofloc (kết tủa sinh học/kết dính sinh học), hoặc Activated sludge (bùn hoặc tính) là tập họp các loại vi sinh vật khác nhau, chủ yếu là vi khuẩn, kết lại thành khối bông, xốp, màu vàng nâu, với trung tâm là  hạt chất rắn lơ lửng trong nước.

Thành phần Biofloc bao gồm: Hỗn hợp các vi sinh vật dị dưỡng (vi khuẩn tạo floc và vi khuẩn sợi), mảnh vụn, keo, polymer sinh học, cation, tế bào chết, muối tinh thể… Bám vào Biofloc còn có vi tảo (tảo sợi, tảo silic), nấm, động vật nguyên sinh, động vật phù du (luân trùng), giun tròn…

Trong Biofloc, vật chất hữu cơ chiếm 60 – 70%, vật chất vô cơ chiếm 30 – 40%; trong vật chất hữu cơ, vi khuẩn sống chiếm khoảng 2 – 20%. Biofloc có cấu trúc rỗng, xốp (99% thể tích là khoảng không); kích thước không nhất định, có thể biến đổi: 0,1 – 2 mm. Tốc độ chìm lắng chậm: 1 – 3 m/giờ.

Vấn đề mấu chốt trong công nghệ Biofloc là tạo điều kiện tối ưu để vi sinh vật dị dưỡng phát triển, hấp thụ Amonium, tạo sinh khối làm thức ăn cho vật nuôi. VSV dị dưỡng sử dụng C hữu cơ (từ carbohydrate như tinh bột, rỉ đường…) và nguồn nitơ vô cơ (chủ yếu là Amonium) để tổng hợp nên protein. Nếu bổ sung C với tỷ lệ thích hợp sẽ tăng cường quá trình chuyển hóa nitơ vô cơ thành protein trong sinh khối vi sinh vật. Sau đó, Biofloc làm thức ăn cho tôm nuôi và sẽ giảm lượng thức ăn 20% so quy trình nuôi thông thường.

Công nghệ này không chỉ được áp dụng trong các trang trại nuôi tôm thương phẩm, mà còn được ứng dụng trong hệ thống Raceway siêu thâm canh với sản lượng hơn 9 kg tôm/m3. Hệ thống Raceway đã được ứng dụng cho việc ương nuôi và chọn lọc các dòng tôm bố mẹ. Hiện nay, nhiều nghiên cứu ở các trường đại học lớn và các công ty tư nhân đang sử dụng Biofloc như là một nguồn protein trong thức ăn tôm và cá.

Lợi ích thương mại trong công nghệ Biofloc gồm 3 yếu tố: Biofloc cho năng suất cao, hệ số chuyển đổi thức ăn thấp (FCR) và môi trường nuôi bền vững. Hơn nữa, với những rủi ro về dịch bệnh do virus và sự gia tăng chi phí năng lượng trong các hệ thống nuôi truyền thống, Biofloc dường như là một lời giải đáp cho việc sản xuất bền vững với chí phí thấp hơn. Lợi thế của công nghệ Biofloc là an toàn sinh học cao. Cho đến nay, bệnh đốm trắng (WSSV) không còn đáng lo ngại trong hệ thống nuôi này; năng suất và sản lượng cao hơn từ 5 – 10% so hệ thống nuôi thông thường, không thay nước trong quá trình nuôi. Tôm tăng trưởng nhanh và tương ứng với hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) khoảng 1.0 – 1.3. Chi phí sản xuất có thể thấp hơn 15 – 20%.

Khó khăn của nuôi tôm theo công nghệ Biofloc là cần nguồn năng lượng lớn để vận hành hệ thống sục khí; việc mất điện trong khoảng thời gian 1 giờ cũng có thể gây ra tình trạng nghiêm trọng. Các ao nuôi theo công nghệ này phải được lót bạt hoặc làm bằng xi măng, ngoài ra, cần phải huấn luyện kỹ thuật cao hơn cho kỹ thuật viên.

>> Nhìn chung áp dụng CNSH trong nuôi tôm thương phẩm có thể quản lý được chất lượng nước trong suốt vụ nuôi, hạn chế được dịch bệnh, giảm thiểu rủi ro, tăng hiệu quả sử dụng thức ăn, hạ giá thành sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.

TS Nguyễn Tấn Sỹ – Phó Viện trưởng Viện NTTS, Đại học Nha Trang

Nguồn :Thủy sản Việt Nam

Hiệu quả nuôi tôm thẻ bằng thức ăn có B-Glucan

(Thủy sản Việt Nam) – Sử dụng chế phẩm sinh học B-Glucan trong nuôi TTCT là rất cần thiết trong tình trạng dịch bệnh, tỷ lệ sống thấp gây thiệt hại nặng cho người nuôi và rủi ro cho sản xuất; chính vì vậy, Bộ Công thương đã giao cho Viện Nghiên cứu NTTS II thực hiện đề tài “Nghiên cứu công nghệ sản xuất B-Glucan kích thước phân tử lượng lớn bổ sung trong thức ăn NTTS”.

Đề tài này được thực hiện từ tháng từ 1/2017 – 6/2019. ThS Phạm Duy Hải, Chủ nhiệm đề tài chia sẻ, nhóm nghiên cứu đặt mục tiêu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất thức ăn có B-Glucan phân tử lượng lớn, từ 1.000 – 5.000 kDa, từ bã men bia đảm bảo các chỉ tiêu ATTP quy định cho thức ăn chăn nuôi, đồng thời tăng cường miễn dịch, tăng trưởng, tăng tỷ lệ sống cho TTCT.

Sử dụng chế phẩm sinh học B-Glucan trong nuôi TTCT là rất cần thiết

Nguyên liệu đầu vào được sử dụng là bã men bia tươi và men khô được thu thập từ 5 nhà máy do Công ty TNHH Thương mại Đại Hùng Sáng cung cấp; các enzym thương mại protease PA 3000 và a-amylase Licuamind được cung cấp bởi Dyadic International (Mỹ). Xây dựng quy trình sản xuất thức ăn nuôi TTCT có bổ sung B-Glucan dựa vào quy trình công nghệ và trang thiết bị hiện có của nhà máy Công ty CP Thức ăn Thủy sản Tomking; địa điểm nuôi khảo nghiệm đánh giá hiệu quả ở quy mô công nghiệp được thực hiện tại ấp Giồng Cha, xã Vĩnh Hậu A, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu.

Kết quả, đã xây dựng thành công quy trình sản xuất B-Glucan và mô hình thiết bị với công suất 100 kg nguyên liệu/ngày, giúp sản xuất được 50,4 tấn thức ăn nuôi TTCT. Tỷ lệ sống của tôm đạt 65%, tăng 11%, giúp tăng năng suất lên 10,74 tấn/ha/vụ, tăng 1,9 tấn. “Đặc biệt, dựa trên tính ứng dụng rộng rãi cũng như khả năng sản xuất quy mô công nghiệp, nhóm nghiên cứu đã mạnh dạn đăng ký bản quyền sở hữu trí tuệ quy trình công nghệ để có thể đưa vào sản xuất quy mô lớn trong một ngày không xa”, ThS Hải thông tin.

An An
Nguồn:Thủy sản Việt Nam

Cà Mau: Cung ứng gần 4 triệu con giống tôm càng xanh toàn đực cho vùng lúa – tôm

(Thủy sản Việt Nam) – Năm 2019, Trung tâm Giống nông nghiệp Cà Mau đã cung ứng số lượng rất lớn giống tôm càng xanh toàn đực cho vùng nuôi tôm – lúa, đáp ứng đủ nhu cầu của người dân.

Cụ thể, năm qua, Trung tâm Giống nông nghiệp Cà Mau đã chủ động phối hợp với Trung tâm Giống thủy sản An Giang sản xuất, cung giống tôm càng xanh toàn đực có nguồn gốc từ Israel ra thị trường 3.689.000 Postlarva 12, tăng trên 300% so với năm 2018 (1.187.000 con).

Để có được kết quả này, ngay từ đầu năm, Trung tâm đã xây dựng 5 vệ tinh cung ứng tôm càng xanh toàn đực trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Mục tiêu nhằm giúp người dân dễ tiếp cận nguồn tôm giống chất lượng, truy xuất được nguồn gốc, góp phần nâng cao năng suất tôm nuôi và thu nhập của người nông dân trong mô hình lúa – tôm của tỉnh.

Thu hoạch tôm càng xanh tại huyện Thới Bình

Theo báo cáo của Sở NN&PTNT Cà Mau, năm 2019, diện tích sản xuất lúa – tôm toàn tỉnh là 37.436 ha; tập trung nhiều ở các huyện Thới Bình, U Minh, Trần Văn Thời… Đối tượng được lựa chọn thả xen ghép vào mô hình lúa – tôm chủ yếu là tôm sú, tôm thẻ, cá rô phi, tôm càng xanh, đặc biệt là tôm càng xanh toàn đực. Tại Thới Bình, trong những năm gần đây, con tôm càng xanh toàn đực được người nông dân trên địa bàn huyện ưu tiên lựa chọn xen canh với lúa vì ít dịch bệnh, ít rủi ro hơn tôm sú, tôm thẻ, phù hợp với các hộ nông dân không có vốn đầu tư lớn. Sau 6 tháng nuôi, tôm đạt trọng lượng 15 – 20 con/kg, năng suất từ 300 – 400 kg/ha, mang về nguồn thu bình quân 40 – 50 triệu đồng/ha/năm.

Hồ Hoàng Thi
Nguồn :Thủy sản Việt Nam

Ba công nghệ nuôi tôm nổi bật năm 2019: Chất lượng tốt, hiệu quả cao

Mạnh dạn thay đổi cách làm mới, đầu tư vào công nghệ mới đang mang đến những thay đổi tích cực đối với hoạt động nuôi tôm của bà con nông dân Việt.

Theo xu thế phát triển nhanh chóng của ngành nuôi tôm nói riêng và ngành nuôi trồng thủy sản trên thế giới nói chung, mô hình nuôi ao đất truyền thống tại Việt Nam bộc lộ nhiều điểm yếu kém và không còn phù hợp. Theo đánh giá chung của người nuôi tôm, nuôi tôm ao đất không được thuận lợi như trước, rất khó thành công.

Nguyên nhân lý giải đó là qua các vụ nuôi, trầm tích tích tụ trong ao nhiều, thời tiết diễn biến thất thường kết hợp với việc xử lý môi trường nước nuôi chưa triệt tạo ra cơ hội thuận lợi cho các mầm bệnh xâm nhập vào ao nuôi tôm. Đặc biệt, hai dịch bệnh nghiêm trọng và phổ biến nhất trên tôm nuôi là hoại tử gan cấp tính và bệnh đốm trắng thường gây ra những thiệt hại lớn cho ao tôm.

Nhận thấy những bất cập còn tồn tại, những năm gần đây, theo chủ chương đổi mới phương pháp nuôi trồng, áp dụng công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động nuôi tôm, nhiều hộ nuôi trên cả nước tiếp thu và mạnh dạn ứng dụng, đầu tư. Nổi bật nhất là ba công nghệ: Micro-nano Oxygen, Semi Biofloc và công nghệ CPF Combine mang đến kết quả ấn tượng.

CÔNG NGHỆ SEMI BIOFLOC – TIẾT KIỆM CHI PHÍ

Nuôi tôm theo công nghệ sinh học Semi Biofloc là sử dụng các hạt biofloc phức hợp, có giá trị dinh dưỡng cao để làm thức ăn cho cả tôm con và tôm trưởng thành. Từ đó lượng thức ăn sử dụng cho tôm nuôi công nghệ này có thể giảm tới 30% và đồng thời tiết kiệm được rất nhiều chi phí khác (như điện, nước, thời gian, thuốc thú y,..).

Nuôi tôm sạch, an toàn theo công nghệ Semi Biofloc

Công nghệ Semi Biofloc đã có mặt tại Việt Nam từ nhiều năm trước, nhờ vào tính khả thi và hiệu quả được kiểm chứng tại các ao nuôi thực tế mà trong năm 2019, phạm vi và diện tích ứng dụng công nghệ ngày càng trở nên rộng rãi, phổ biến.

Tại tỉnh Khánh Hòa, theo Chi cục Thủy sản, hiện trên địa bàn tỉnh có một số cơ sở nuôi tôm thẻ chân trắng đã đầu tư cơ sở vật chất và ứng dụng nuôi theo công nghệ Semi Biofloc. Người nuôi tôm tại đây cho hay, để ứng dụng công nghệ này, các ao đều phải lót bạt nền đáy và bờ ao; có hố thu chất thải, kết hợp với hệ thống xi phông tự động. Mô hình có thể nuôi được 3 – 4 vụ/ năm theo hình thức nuôi 3 pha.

Ở pha 1, ương nuôi tôm giống trên bể nổi có lưới lan áp dụng theo công nghệ Biofloc. Tiếp đến pha 2 (sau 20 ngày nuôi), toàn bộ tôm ương được chuyển xuống ao nuôi ngoài trời, áp dụng công nghệ Semi Biofloc. Tại pha 2, tôm sẽ được nuôi 30  ngày đến khi đạt kích cỡ 200 con/ kg, mật độ 500 con/ m2 trước khi chuyển sang pha 3. Cuối cùng là pha 3, mật độ nuôi sẽ được giảm xuống một nửa, mỗi ao sẽ chỉ thả từ 200 – 250 con/ m2 để nuôi tôm đến khi đạt kích cỡ thu hoạch.

Với công nghệ Biofloc, người nuôi tôm giảm được nỗi lo tôm mắc bệnh do khả năng duy trì chất lượng môi trường nước tốt, hạn chế hạn chế mầm bệnh, từ đó giúp không chỉ nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế mà còn tạo ra sản phẩm đảm bảo an toàn thực phẩm (ATTP) phục vụ cho người tiêu dùng trong nước và chế biến xuất khẩu.

Trên thị trường, đầu ra của con tôm nuôi Semi Biofloc cũng rất tiềm năng và giá cả cũng luôn được duy trì ở mức ổn định hơn. Các cơ quan chức năng nhận định công nghệ Semi Biofloc sẽ tiếp tục được nhân rộng trong năm 2020.

CÔNG NGHỆ MỚI MICRO – NANO OXYGEN – KẾT QUẢ KHẢ QUAN

Trước thực trạng nghề nuôi tôm ở Việt Nam chủ yếu vẫn mang tính tự phát, quy mô nhỏ lẻ, người dân chưa nắm rõ được kỹ thuật,.. dẫn đến tình trạng tôm nuôi thường hay bị nhiễm bệnh và tiềm ẩn nhiều rủi ro, công ty QNTEK đã tạo ra một chương trình nghiên cứu riêng và phát triển công nghệ Mico – Nano Oxygen mới, lần đầu tiên được ứng dụng tại Việt Nam.

Công nghệ Micro – Nano Oxygen đảm bảo nuôi tôm sạch

Công nghệ Mico – Nano Oxygen được triển khai cuối năm 2018 tại các vùng nuôi tôm tỉnh Quảng Nam và bước đầu thu hoạch được kết quả khả quan. Công nghệ được đánh giá tích cực trong vấn đề xử lý môi trường, đặc biệt là xử lý nước thải. Nước sau khi được xử lý qua Micro – Nano Oxygen đảm bảo sạch, giàu oxy và có khả năng ứng dụng vào rất nhiều lĩnh vực khác nhau.

Ông Trần Bá Cương, giám đốc kỹ thuật của QNTEK, trực tiếp triển khai chương trình nghiên cứu cho biết, máy Micro – Nano Oxygen tạo ra rất nhiều oxy,  tôm được nuôi trong nguồn nước giàu oxy sẽ làm cho các vi khuẩn gây bệnh đường ruột chết đi đồng thời làm cho men tiêu hóa trong ruột chúng hoạt động mạnh hơn, chất dinh dưỡng trong thức ăn được hấp thu nhanh hơn, tốt hơn nên mau lớn và có sức đề kháng tốt.

Đồng thời, khi nước trong ao nuôi được xử lý hiệu quả, có nhiều oxy thì các vi khuẩn có hại trong nước sẽ giảm đáng kể. Do đó, người nuôi có thể hạn chế được việc sử dụng kháng sinh, giúp giảm chi phí đảm yếu tố an toàn sinh học cho con tôm. Bên cạnh đó, trong mô hình này còn sử dụng thêm các loại khoáng vi sinh dược liệu như đinh lăng, tỏi, ổi để tăng cường khả năng kháng thể tự nhiên, giúp tôm hấp thụ và tiêu hóa tốt thức ăn.

Được biết, với công nghệ này, chi phí đầu tư cho mỗi hạ tầng nuôi tôm hết khoảng 6 tỷ đồng. So với cách nuôi truyền thống thì tương đối cao nhưng bù lại chi phí nuôi ít hơn. Nếu như bình thường, người nuôi sẽ mất từ 70.000 – 75.000 đồng chi phí cho 1kg tôm thương phẩm thì công nghệ này chỉ mất khoảng 60.000 đồng/ kg. Bên cạnh đó, nuôi tôm sạch không sử dụng kháng sinh nên giá bán cũng cao hơn từ 20.000 – 30.000 đồng/ kg.

Mô hình thực hiện tương đối hiệu quả vì mới trong thời gian bắt đầu. Để nâng cao hiệu quả thì ngoài công nghệ cần phải trang bị kỹ thuật nuôi tôm. Trong thời gian tới, phía QNTEK sẽ tiếp tục mở rộng, triển khai mô hình tới bà con nông dân.

CÔNG NGHỆ CPF – COMBINE – NĂNG SUẤT CAO, ĐẢM BẢO AN TOÀN.

Đây là mô hình nuôi tôm công nghệ cao được chuyển gia từ Công ty Cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam. Nhờ hiệu quả tốt, trong năm 2019 mô hình được phát triển rộng khắp các vùng nuôi tôm trên cả nước như Quảng Ninh, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang,…

Mô hình ao ương CPF – Green house

CPF – Combine là sự kết hợp giữa mô hình nhà ương CPF – Green House và mô hình ao nuôi CPF – Turbo Program. Giai đoạn đầu, tôm giống sẽ được nuôi trong nhà ương khoảng 25 – 30 ngày đến khi có sức khỏe tốt, tỷ lệ sống cao mới được chuyển qua ao nuôi. Tôm được tiếp tục nuôi trong ao nuôi với khoảng thời gian 2 tháng để sẽ đạt kích cỡ từ 25 – 40 con/ kg.

Áp dụng thành công mô hình nuôi công nghệ cao CPF – Combine, các hộ nuôi tôm sẽ giảm bớt được sự tác động của thời tiết trong giai đoạn tôm còn nhỏ, giảm được các bệnh cho tôm trong quá trình nuôi, chủ động được thời gian thả nuôi. Nhiệt độ với môi trường không quá chênh lệch, giúp người nuôi ít lệ thuộc vào thời tiết mùa vụ như phương pháp nuôi trồng truyền thống. Tỷ lệ sống và năng suất tôm cao hơn hẳn.

Theo thống kê, nuôi trong mô hình ao đất truyền thống với diện tích mặt nước nuôi từ 3000 – 4000 m2, năng suất bình quân đạt từ 5 – 6 tấn tôm/ vụ. Trong khi đó, với mô hình CPF – Combine, ao nuôi nhỏ từ 1000 – 1200m2 mặt nước nuôi đã cho năng suất bình quân từ 6 – 10 tấn tôm/vụ.

Ứng dụng theo công nghệ nuôi CPF – Combine, chủ yếu ứng dụng các thiết bị máy móc trong quá trình kiểm tra, chăm sóc nên mật độ nuôi cao hơn. So với mật độ nuôi thông thường từ 70 – 100 con/ m2 thì nuôi 2 giai đoạn bằng công nghệ CPF – Combine cho phép tăng mật độ từ 200 – 400 con/ m2. Tôm được cho ăn bằng máy, các tiêu chuẩn ao nuôi được kiểm tra mỗi ngày: độ pH, độ cứng, calci,…Bên cạnh việc tuân thủ kỹ thuật nuôi, ngay từ khâu đầu vào như con giống, thức ăn phải đảm bảo có nguồn gốc an toàn.

Đặc biệt, trong suốt quá trình nuôi, người nuôi hoàn toàn không sử dụng các loại hóa chất kháng sinh. Đến giai đoạn thu hoạch, trước khi xuất bán, con tôm sẽ được kiểm tra tiêu chuẩn về an toàn, chất lượng.

Hiện nay, CPF – Combine được nhân rộng tại nhiều địa phương: tại Bến Tre, toàn tỉnh hiện có hơn 150ha nuôi tôm công nghệ này, tại Bạc Liêu, nhiều hộ nuôi đã chuyển từ nuôi tôm ao đất sang nuôi tôm lót bạt CPF – Combine nhờ tính hiệu quả, bền vững.

Thảo Thảo

Semi Biofloc, Mico – Nano Oxygen, CPF – Combine – ba công nghệ nổi bật được ứng dụng rộng rãi trong hoạt động nuôi tôm năm 2019 cùng với nhiều mô hình – công nghệ hiện đại tiên tiến khác vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu và đưa vào hoạt động nuôi trồng sẽ là nền tảng vững chãi đưa ngành tôm Việt phát triển bền vững nhất.

Nguồn :Tạp chí Người Nuôi Tôm