Bạn tìm thông tin gì?

Category Archives: Quản Lý Nuôi

Một số biện pháp phòng, chống dịch EHP tại các cơ sở sản xuất tôm giống


Một số biện pháp phòng, chống dịch EHP tại các cơ sở sản xuất tôm giống

Để chủ động phòng, chống hiệu quả bệnh do vi bào tử trùng (EHP) gây ra và các bệnh nguy hiểm khác trên tôm nước lợ, Cục Thú y đã ban hành văn bản 1848/TY-TS ngày 8/10/2019 hướng dẫn phòng, chống bệnh vi bào tử trùng trên tôm nuôi nước lợ.

Các loài tôm (sú, thẻ, he) ở giai đoạn giống cũng mẫn cảm với bệnh vi bào tử trùng, do đó, tại văn bản trên, Cục Thú y đã hướng dẫn một số biện pháp phòng, chống dịch bệnh vi bào tử trùng tại các cơ sở sản xuất tôm giống. Cụ thể các cơ sở sản xuất tôm giống phải thực hiện các biện pháp tổng hợp theo quy định tại Thông tư số 4/2016/TT-BNNPTNT và một số nội dung chính sau đây:

– Xây dựng và triển khai các quy trình quản lý, kỹ thuật đảm bảo an toàn sinh học để ngăn chặn tác nhân gây bệnh từ bên ngoài xâm nhập vào cơ sở và mầm bệnh từ cơ sở (nếu có) ra ngoài môi trường.

– Triển khai giám sát bệnh theo hướng dẫn tại Công văn số 431/TY-TS ngày 18/3/2019 của Cục Thú y.

– Tổ chức xây dựng cơ sở an toàn dịch bệnh theo quy định tại Thông tư số 14/2016/TT-BNNPTNT ngày 2/6/2016 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT.

– Đối với tôm bố mẹ: Mua tôm từ những cơ sở giống được công nhận an toàn dịch bệnh hoặc đã được xét nghiệm chứng minh âm tính với tác nhân gây bệnh vi bào tử trùng và các bệnh khác theo quy định về kiểm dịch động vật thủy sản tại Thông tư số 26/2016/TT-BNNPTNT ngày 30/6/2016 và Thông tư số 36/2018/TT-BNNPTNT ngày 25/12/2018 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT.

– Đối với nguồn thức ăn tươi sống cho tôm bố mẹ: Với mỗi lô thức ăn tươi sống, thu ít nhất 1 mẫu đối với mỗi loại thức ăn tại 5 vị trí để xét nghiệm nhằm đảm bảo không nhiễm vi bào tử trùng và các bệnh khác trên tôm theo quy định.

– Đối với tôm giống: Thực hiện xét nghiệm bệnh đảm bảo không bị nhiễm vi bào tử trùng trước khi xuất bán và thực hiện kiểm dịch theo quy định.

– Đối với nguồn nước nuôi: Xây dựng quy trình khử trùng nước nuôi bằng Chlorine với nồng độ 30 ppm hoặc các hóa chất/công nghệ khác tương đương, phương pháp phù hợp khác theo hướng dẫn của nhà sản xuất để tiêu diệt các tác nhân gây bệnh (trong đó có vi bào tử trùng) trước khi đưa vào sử dụng.

– Đối với công cụ, dụng cụ, phương tiện vận chuyển, người ra vào trại: Phải có quy trình vệ sinh, khử trùng tiêu độc, bảo đảm hiệu quả khử trùng (bảo hộ, hố khử trùng, khử trùng định kỳ…).

– Khi phát hiện lô tôm giống dương tính với vi bào tử trùng, tiến hành thu mẫu tôm, thức ăn tươi sống để truy tìm nguồn bệnh và thực hiện tiêu hủy theo quy định. Khai báo với thú y cơ sở, cơ quan thú y của địa phương để được hướng dẫn triển khai các biện pháp phòng chống theo quy định.

– Xử lý ổ dịch phải đảm bảo: Toàn bộ dụng cụ, phương tiện chứa đựng,vận chuyển, bể nuôi… phải được khử trùng bằng chất sát trùng và phương pháp phù hợp; nước trong ao bệnh phải được xử lý bằng Chlorine nồng độ 30 ppm, ngâm trong 7 ngày trước khi xả ra ngoài môi trường; các chất cặn bã, bùn đáy ao… trong quá trình nuôi phải được thu gom và xử lý tại khu vực riêng (ngoài khu vực sản xuất).

Đào Duy Anh Vũ – Chi cục Thủy sản Bình Thuận


Bảo vệ môi trường trong nuôi tôm: Vẫn còn nhiều bất cập

Nuôi trồng thủy sản (NTTS) được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, đặc biệt là lĩnh vực nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao. Vì vậy, thời gian qua, các địa phương trong tỉnh luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để các cá nhân, doanh nghiệp đầu tư xây dựng các cơ sở nuôi tôm có diện tích và quy mô lớn. Tuy nhiên, ngành nghề này cũng đặt ra nhiều thách thức và tác động không nhỏ đến môi trường, nhất là việc lạm dụng hóa chất trong cải tạo ao đầm và xử lý chất thải trong quá trình nuôi tôm.

Khó kiểm soát, quản lý

Từ khi thực hiện chuyển đổi sản xuất cho đến nay, diện tích NTTS không ngừng tăng cao, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế – xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận là ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT) của hộ nuôi tôm, nhất là hộ nuôi tôm siêu thâm canh chưa thật sự tốt.

Thông qua việc khảo sát, lấy mẫu và phân tích chất lượng nước của ngành Tài nguyên – Môi trường (TN&MT) tỉnh cho thấy, nhiều nơi môi trường nước, đất bị ô nhiễm nặng nề và tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái. Ô nhiễm môi trường từ việc cải tạo, xử lý và lạm dụng các loại hóa chất, kháng sinh cấm trong cải tạo, xử lý nước để nuôi tôm; xả thải bùn từ ao nuôi tôm trực tiếp ra các kênh nội đồng; hay khi tôm bệnh chết, người nuôi cũng xả thải nước ô nhiễm ra các kênh nội đồng. Từ đó tạo nên vòng luẩn quẩn: người thải nước ô nhiễm, người lại lấy nguồn nước ô nhiễm để nuôi tôm làm dịch bệnh lây lan trên diện rộng.

Đối với dự án đầu tư xây dựng cơ sở NTTS, trước đây quy định diện tích mặt nước từ 5.000m2 phải xây dựng kế hoạch BVMT. Còn hiện nay, theo quy định mới thì diện tích mặt nước từ 5ha đến dưới 10ha mới thực hiện kế hoạch BVMT. Trong khi thực tế nuôi tôm trên địa bàn tỉnh (theo quy mô nông hộ) thì có diện tích nhỏ, nhưng lượng nước xả thải thì rất lớn. Nếu không có kế hoạch BVMT thì rất khó quản lý và giám sát. Những bất cập này đã gây tác động xấu đến môi trường trong NTTS và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững.

Sở TN&MT phối hợp với địa phương nghiệm thu hệ thống xử lý nước thải của một hộ nuôi tôm công nghiệp ở huyện Đông Hải. Ảnh: C.L

Cần sớm tháo gỡ

Trước vấn nạn ô nhiễm môi trường, việc BVMT sản xuất để phát triển bền vững được xem là quan điểm chỉ đạo nhất quán và được cụ thể hóa bằng nhiều giải pháp của Tỉnh ủy, UBND tỉnh. Ngày 5/4/2018, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 14 quy định BVMT trong hoạt động NTTS.

Theo đó, hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ hoạt động NTTS phải được xây dựng đồng bộ, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Hệ thống kênh, mương cấp nước và xả nước thải phải đảm bảo theo quy định của ngành Thủy sản cũng như các điều kiện về đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và các quy định khác có liên quan. Tùy theo quy hoạch nuôi thủy sản, điều kiện tự nhiên của khu vực mà cơ sở nuôi chọn đối tượng và hình thức nuôi hợp lý, nhưng phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật nuôi, các quy chuẩn của ngành Thủy sản.

Đối với xử lý nước thải và chất thải rắn, tùy thuộc vào điều kiện quy mô và loại hình hoạt động mà sử dụng các biện pháp xử lý giảm thiểu ô nhiễm môi trường, vệ sinh phòng dịch theo quy định của pháp luật về BVMT, vệ sinh thú y. Riêng xử lý nước thải, hệ thống cấp nước, thoát nước thải phải luôn thông thoáng, được sên vét, cải tạo thường xuyên, đảm bảo không bị bồi lắng, tồn đọng gây tác động xấu đến môi trường và hoạt động sản xuất, canh tác của khu vực.

Việc xử lý chất thải rắn, chất thải phát sinh trong NTTS phải được thu gom, xử lý triệt để bằng các biện pháp thích hợp. Đối với lượng bùn thải và xác vật nuôi phải được thu gom xử lý triệt để theo quy định của pháp luật về chất thải rắn thông thường và chất thải nguy hại, đảm bảo không để phát tán mầm bệnh, vi sinh vật làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, canh tác trong khu vực.

Một trong những nguyên nhân khiến nhiều hộ nuôi tôm xả thải trực tiếp ra môi trường là do diện tích nuôi quá nhỏ, không có đất xây dựng hệ thống xử lý nước; vốn đầu tư hệ thống xử lý nước lại khá lớn. Để góp phần BVMT và hướng đến phát triển bền vững, không chỉ cơ quan chức năng mà các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực NTTS cần phải nâng cao trách nhiệm, thực hiện tốt các quy định về BVMT; vận động cộng đồng xã hội tham gia các hoạt động BVMT.

Mới đây, phát biểu chỉ đạo tại buổi triển khai nhiệm vụ công tác năm 2020 của ngành TN&MT tỉnh, ông Lê Minh Chiến, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, nhấn mạnh: “Ngành TN&MT cần tập trung kiểm tra, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật về TN&MT để kịp thời tham mưu cho UBND tỉnh chỉnh sửa, bổ sung và ban hành mới. Tăng cường công tác quản lý môi trường, đặc biệt là trong lĩnh vực nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao có diện tích dưới 5ha. Kiên quyết xử lý những trường hợp xả thải gây ô nhiễm môi trường để đảm bảo sự phát triển bền vững trong lĩnh vực NTTS trên địa bàn tỉnh.

Chí Linh

Nguồn :www.baobaclieu.vn/

Nuôi tôm theo quy trình VietGAP: Xu hướng tất yếu

 Nuôi tôm theo quy trình VietGAP, ngoài việc xử lý tốt các yếu tố như dịch bệnh, môi trường, còn có tác dụng tích cực trong việc giúp sản phẩm tôm Việt Nam vượt qua các rào cản thương mại quốc tế.

tr15t.jpg
Tham quan mô hình nuôi tôm theo VietGAP tại HTX Xuân Thành (Hà Tĩnh). Ảnh: Trần Hương

Nuôi tôm theo quy trình VietGAP, ngoài việc xử lý tốt các yếu tố như dịch bệnh, môi trường, còn có tác dụng tích cực trong việc giúp sản phẩm tôm Việt Nam vượt qua các rào cản thương mại quốc tế, nhất là khi nước ta thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA).

Năm 2025, xuất khẩu tôm đạt 10 tỷ USD

Theo TS. Nguyễn Huy Điền, Phó Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, nuôi trồng thủy sản, trong đó có nuôi tôm, đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trong bối cảnh phát triển nuôi tôm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu phải đáp ứng yêu cầu về sản lượng, chất lượng, ATTP, bảo vệ môi trường, an sinh xã hội…, Chính phủ có chủ trương phát triển nuôi tôm lên một tầm cao mới thông qua Quyết định 79/QĐ-TTg về Kế hoạch hành động quốc gia phát triển ngành tôm Việt Nam đến năm 2025. Theo đó, mục tiêu giá trị kim ngạch xuất khẩu tôm giai đoạn 2017 – 2020 đạt 5,5 tỷ USD và giai đoạn 2021 – 2025 đạt 10 tỷ USD.

TS. Điền phân tích: Trước những thay đổi về khí hậu, môi trường cũng như phát triển nuôi tôm mạnh mẽ, rộng khắp chưa theo quy hoạch và đầu tư cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu kỹ thuật cho nuôi tôm hiện nay thì nuôi tôm theo quy phạm GAP là việc áp dụng tiến bộ khoa học rất cần thiết. Đây là phương pháp tổng hợp nuôi trồng thủy sản bền vững được thực hiện bằng các quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt. Các biện pháp kỹ thuật phù hợp được áp dụng để nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế, đồng thời cũng khống chế được môi trường ổn định và tăng cường sức khỏe vật nuôi để chúng không thể gây ra dịch bệnh tràn lan.

Ngoài ra, người nuôi tôm cần phải đánh giá được tất cả các mối nguy và kiểm soát được tất cả các nguy cơ (kim loại nặng, kháng sinh, thuốc trừ sâu, độc tố nấm, vi sinh vật gây bệnh…) có thể gây mất an toàn vệ sinh thực phẩm, dịch bệnh… Nuôi thân thiện với môi trường và có trách nhiệm với xã hội để phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững bằng việc kiểm soát đầu vào, từ cải tạo ao nuôi, con giống chất lượng – an toàn dịch bệnh, quản lý môi trường ao nuôi đến lúc thu hoạch theo Quy phạm thực hành nuôi tốt (VietGAP) để có được năng suất, hiệu quả cao và đặc biệt là sản phẩm nuôi an toàn vệ sinh thực phẩm, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng và xuất khẩu đang ngày càng phổ biến và là xu thế tất yếu hiện nay.

Đảm bảo an toàn chất lượng: Yếu tố hàng đầu

Ông Điền cho biết, Trung tâm Dạy nghề và Chuyển giao công nghệ VACVINA đã phối hợp với Hội Làm vườn ba tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh  triển khai Dự án Xây dựng mô hình nuôi tôm chân trắng thâm canh theo VietGAP,  thuộc Chương trình Khuyến nông Trung ương giai đoạn 2017-2019.

Mô hình được xây dựng trên cơ sở quy trình công nghệ đã được Tổng cục Thủy sản tổng kết dựa trên cơ sở khoa học của VietGAP, đảm bảo an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh, thân thiện với môi trường và đạt hiệu quả kinh tế cao.

Hộ tham gia được tiếp cận kiến thức cơ bản về quy phạm VietGAP trong nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh; lợi ích khi áp dụng VietGAP; cập nhật, lưu giữ hồ sơ, sổ nhật ký, đánh giá tác động môi trường, một số vấn đề quan tâm khi nuôi tôm theo VietGAP và các mối nguy an toàn vệ sinh thực phẩm; kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng VietGAP.

Kết quả thực hiện mô hình rất khả quan: Với mật độ thả 80 con/m2, tỷ lệ sống đạt 80,7%; trọng lượng bình quân 57con/kg. Năng suất 12,27 tấn/ha. Cả 7 hộ tham gia mô hình đều được cấp chứng chỉ VietGAP (100%).

Quy trình nuôi tôm theo hướng VietGAP, thân thiện với môi trường, mấu chốt chủ yếu và rất cơ bản là sử dụng hợp lý thức ăn, chế phẩm sinh học, đảm bảo an toàn môi trường và dịch bệnh. Đặc biệt, không sử dụng kháng sinh, hóa chất để phòng trị bệnh bệnh tôm, chỉ sử dụng khi thật cần thiết. Toàn bộ quá trình nuôi sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý môi trường, tăng khả năng dinh dưỡng, tăng sức đề kháng cho tôm.

Triển khai thực hiện mô hình nuôi tôm theo hướng VietGAP bước đầu thấy  nhận thức của người dân có sự chuyển biến rõ nét trong trách nhiệm của người sản xuất đối với các sản phẩm tôm nuôi đảm bảo an toàn chất lượng, vệ sinh thực phẩm. Bà con kỳ vọng tăng được giá tôm nuôi nếu có chứng nhận VietGAP.

 P.V Nguồn : https://kinhtenongthon.vn

Xu hướng NTTS thông minh

Ngành NTTS đang tăng trưởng thần tốc và giữ vai trò quan trọng với an ninh lương thực và cân bằng dinh dưỡng cho dân cư toàn cầu. Do đó, NTTS thông minh là giải pháp hữu hiệu giúp ngành hoàn thành sứ mệnh.

Nuôi thâm canh và khép kín

Hệ thống tuần hoàn (RAS) là một cách nuôi mới và độc đáo. Những phương thức truyền thống nuôi thủy sản ngoài trời trong ao mở, hệ thống này lại sử dụng bể nuôi thủy sản mật độ cao trong nhà, được kiểm soát môi trường nghiêm ngặt. Hệ thống tuần hoàn lọc và làm sạch nước và tái sử dụng trong các bể.

RAS mang lại nhiều lợi ích cho nông dân hơn hệ thống nuôi ngoài trời trong các ao mở. Những lợi ích này gồm: tối đa sản xuất trong điều kiện nguồn cung nước và đất bị giới hạn; môi trường được kiểm soát gần như hoàn toàn nhằm tối đa sức khỏe của vật nuôi suốt quanh năm; dễ thay đổi vị trí cơ sở sản xuất gần thị trường tiêu thụ; thu thoạch thuận tiện và nhanh chóng, kiểm soát được dịch bệnh hiệu quả nếu có.

 

Năng lượng tái tạo

Một trong những vấn đề cơ bản mà ngành thủy sản đang phải đối mặt là quản lý nguồn năng lượng. Theo các chuyên gia trong ngành, thế hệ hiện nay phải có trách nhiệm đảm bảo năng lượng được sử dụng hiệu quả và giảm tác động lên môi trường ở mức tối thiểu. Năng lượng tái tạo bắt đầu tìm chỗ đứng trong các ngành sản xuất. Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đang trải qua giai đoạn tăng trưởng kinh tế và bùng nổ dân số. Nhu cầu năng lượng của khu vực này hiện đang tăng 10% mỗi năm, kéo theo nhu cầu sử dụng đất.

Một số học giả đã đề xuất giảm sử dụng năng lượng từ nhiên liệu bằng các nguồn năng lượng xanh tái tạo như năng lượng mặt trời và gió. Năng lượng nhiên liệu hóa thạch có hiệu quả chi phí ít hơn năng lượng tái tạo; và năng lượng tái tạo lại có tiềm năng sử dụng trong các hệ thống nuôi thủy sản RAS. Tại Đài Loan, Trung Quốc và một số nước châu Á, các dự án nuôi thủy sản thông minh bằng quang năng trở thành hy vọng cho người nuôi tôm và cá. Điện năng chiếm chi phí khoảng 20 – 40% tổng chi phí sản xuất thủy sản; tiêu thụ điện năng hàng tháng khoảng 2.000 kWh.

Xu hướng tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải khí CO2 đã thúc đẩy nông dân sử dụng điện năng hiệu quả hơn bằng năng lượng mặt trời và gió. Tại Đài Loan, các  mái che của nhà kính công nghệ Aqua-PV (nuôi thủy sản bằng quang điện) có thể tích hợp 720 tấm quang năng với sản lượng điện năng khoảng 407.808 kW/năm.

 

Hê thống nhà kính Aqua-PV

Các quốc gia nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới có lượng ánh sáng mặt trời trung bình trên mỗi đơn vị diện tích xấp xỉ 130 W/m2, rất thích hợp để phát triển năng lượng mặt trời. Thiết kế hệ thống Aqua-PV gồm một mô-đun điện quang, hệ thống tuần hoàn nước, hệ thống giám sát chất lượng nước, máy bơm sục khí tiết kiệm năng lượng hiệu quả kép và thiết bị chiếu sáng bằng đèn LED.

Hệ thống điện quang trong nuôi thủy sản tích hợp vào các trang trại đã góp phần giảm đáng kể chi phí năng lượng đầu vào. Theo những phân tích ban đầu, một nhà máy thí điểm 1 megawatt ở Đài Loan có thể làm giảm 15.000 tấn khí thải CO2mỗi  năm và giảm 75% lượng nước tiêu thụ so với một trại nuôi thủy sản thông thường. Nhiều quốc gia cũng đang thử nghiệm tính khả thi thương mại và kỹ thuật của việc sử dụng đất để nuôi thủy sản và sản xuất điện mặt trời.

 

NTTS tuần hoàn thông minh

Vì lý do vệ sinh, ngày càng có nhiều cơ sở sản xuất thủy sản tại châu Á xây dựng hệ thống nhà kính kín để ngăn chặn sự xuất hiện của dịch bệnh do các loài chim hoặc vật thủy sản khác gây ra. Nhà kính được ví như tán cây giúp tích hợp mô-đun năng lượng mặt trời.

Nuôi tôm hoặc cá trên cạn trong các hệ thống khép kín luôn được coi là hướng đi tiềm năng trong sử dụng cẩn trọng nguồn tài nguyên đất và nước của khu vực. Việc sử dụng đất hiệu quả hơn này sẽ góp phần bảo tồn các khu rừng ngập mặn còn lại và giảm đáng kể lượng nước tiêu thụ.

Ngoài ra, sử dụng kháng sinh được giảm tối thiểu nhờ môi trường kín và hệ thống biofloc – nơi tôm hoặc cá được cho ăn vi sinh vật trong một vòng khép kín. Bằng cách cung cấp bóng râm, các mô-đun năng lượng mặt trời được tích hợp vào khu nhà ở giúp cải thiện điều kiện làm việc cho nhân viên tại cơ sở; duy trì nhiệt độ nước thấp hơn thúc đẩy tăng trưởng của tôm và cá.

 

Công nghệ ICT và AIOT cho NTTS chính xác

Để tăng cường và củng cố sản xuất thủy sản bằng công nghệ điều khiển từ xa với mạng lưới IoT, các dữ liệu tổng hợp từ các máy cảm biến và vệ tinh đã được đưa vào sử dụng để NTTS hiệu quả hơn, thân thiện sinh thái hơn. Trong dự án Aqua-PV, một số nơi như Đài Loan đã triển khai công nghệ AIOT và chiến lược công nghệ sinh học để cách mạng hóa ngành NTTS. Bằng công nghệ ICT và AIoT, người điều hành sẽ nắm trong tay tổng quan về các thông số chất lượng nước như hàm lượng ôxy hòa tan, nhiệt độ, pH, độ mặn, NH3… đều được thường xuyên giám sát. Những hệ thống cảnh báo sớm và thiết bị điều chỉnh điều kiện chất lượng nước cũng bao gồm trong đó. Sử dụng hệ thống sinh trắc học bằng hình ảnh có thể tự động nhận dạng các loài tôm, cá và đo chiều dài cơ thể để sau đó chuyển sang trọng lượng thân. Trang trại cũng tiến hành cho ăn chính xác, tức là sử dụng nguồn thức ăn dễ tiêu hóa trong một môi trường được kiểm soát, chú trọng vào hiệu quả sử dụng thức ăn, giảm chi phí khẩu phần thức ăn hàng ngày và giảm thiểu phân thải.

Để kiểm soát dịch bệnh, ngăn chặn sự lây lan và hạn chế sử dụng kháng sinh quá mức, cần phải có công nghệ chẩn đoán dịch bệnh nhanh và chính xác. Công nghệ IoT và hệ thống hỗ trợ chẩn đoán dịch bệnh dựa trên các dấu hiệu lâm sàng cũng được ứng dụng bằng cách gửi hình ảnh vật nuôi bị nhiễm bệnh, kèm văn bản mô tả qua điện thoại di động tới trung tâm chẩn đoán dịch bệnh. Để thực hiện quy trình chẩn đoán dịch bệnh đã được thiết kế, những dữ liệu dịch bệnh tôm, cá; và dữ liệu nguyên nhân/ngăn chặn/chữa trị, chẩn đoán, xử lý dịch bệnh và phương pháp phòng ngừa các dịch bệnh có nguy cơ rủi ro cao cũng được tích hợp vào hệ thống để gửi tới người dùng qua máy tính cá nhân hoặc điện thoại di động. Hệ thống này sẽ hỗ trợ người nuôi thủy sản và bác sĩ thú y bằng cách cung cấp các chẩn đoán dịch bệnh nhanh và dễ dàng.

Nguồn: Theo National Taiwan Ocean University

Ưu và nhược điểm sử dụng sàng ăn trong nuôi tôm

(Thủy sản Việt Nam) – Hiểu được ưu và nhược điểm của sàng ăn trong nuôi tôm giúp người nuôi tôm sử dụng đúng cách, hiệu quả.

Ưu điểm

– Sử dụng sàng ăn giúp giảm hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR);

– Góp phần làm giảm chi phí thức ăn;

– Giúp cải thiện tăng trưởng của tôm nuôi;

– Nâng cao chất lượng nước, giúp nâng cao mật độ nuôi, tăng năng suất và giảm ô nhiễm môi trường;

– Giúp cho người nuôi tôm đánh giá các động vật ăn thịt và các loài cạnh tranh thức ăn với tôm nuôi trong ao;

– Giúp đánh giá các kích cỡ khác nhau của tôm nuôi trong ao;

– Giúp quan sát tôm nuôi, đánh giá và có thể đưa ra quyết định sớm trong việc quản lý cho ăn, giúp quan sát tình hình sức khỏe của tôm (tôm bệnh hay có các biểu hiện bất thường) và thời điểm thu hoạch phù hợp;

– Giúp phát hiện tôm chết thông qua sàng ăn;

– Quản lý thức ăn tốt thông qua sàng ăn sẽ giữ cho đáy ao luôn được sạch sẽ.

 

 Nhược điểm

– Những người quản lý hoặc trực tiếp cho tôm ăn phải có kỹ năng, có trách nhiệm cao và được đào tạo kỹ lưỡng; Sử dụng sàng ăn mà không có sự giám sát thích hợp của người có kinh nghiệm sẽ gây nên những vấn đề nghiêm trọng cho ao nuôi;

– Sàng ăn nên được gắn phao, không nên gắn cố định ở một độ sâu nhằm tránh trường hợp đáy ao bị lõm, sàng ăn không tiếp đất được;

– Số lần cho ăn hàng ngày giới hạn, vì cần thời gian cho thức ăn vào sàng ăn và mất thời gian kiểm tra thức ăn trong sàng ăn sau một thời gian cho ăn;

– Thiết kế sàng ăn phải đúng, nhưng hiện tại không có tiêu chuẩn công nghiệp cho việc thiết kế sàng ăn dùng trong nuôi tôm;

– Lượng thức ăn cho vào sàng ăn mỗi lần có giới hạn;

– Quyết định gia tăng hay giảm lượng thức ăn thông qua việc kiểm tra lượng thức ăn còn lại trong sàng ăn phụ thuộc hoàn toàn vào con người và kinh nghiệm của người nuôi;

– Sàng ăn và các dụng cụ liên quan cần phải kiểm tra và bảo trì thường xuyên;

– Lượng thức ăn thất thoát ra khỏi sàng ăn do dòng chảy hoặc thiết kế sàng ăn kém có thể dẫn đến hiểu sai về lượng thức ăn thực tế mà tôm đã ăn và rất dễ dẫn đến việc cho ăn quá dư;

– Trong quá trình bắt mồi, thức ăn rất dễ bị rơi khỏi sàng ăn. Điều này rất dễ nhầm lẫn với việc tôm đã ăn hết thức ăn và tăng lượng thức ăn lên, dẫn đến cho ăn dư quá mức;

– Cho tôm ăn bằng sàng ăn làm gia tăng chi phí nhân công và các chi phí khác, do đó cần phải phân tích chi phí và lợi nhuận cẩn thận;

– Một số nghiên cứu cho rằng, việc sử dụng sàng ăn giúp cải thiện tốc độ tăng trưởng, hiểu theo một cách logic là giúp nâng cao chất lượng nước ao nuôi. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng có thể không tối ưu vì tôm không được cung cấp đầy đủ lượng thức ăn cho sự tăng trưởng của nó;

– Khi cho tôm ăn dựa vào một vài sàng ăn mẫu trong ao, rất dễ dẫn đến việc một số tôm ăn quá nhiều và một số khác thiếu thức ăn, nhất là trong trường hợp nuôi mật độ cao.

HL 

(Theo The Global Aquaculture Advocate)  

Nguồn :http://thuysanvietnam.com.vn/

C.P. Việt Nam: Mô hình CPF-COMBINE phiên bản 2

(Thủy sản Việt Nam) – Có mặt tại Việt Nam từ rất sớm và đồng hành với người nuôi tôm ngay từ những này đầu tiên, bên cạnh việc sản xuất và cung cấp ra thị trường các sản phẩm thức ăn tôm, tôm giống, chế phẩm sinh học chất lượng cao. Điều đặc biệt khiến khách hàng luôn nhắc tới C.P. Việt Nam đó là ở mỗi giai đoạn của nghề tôm, C.P đều có những mô hình tiên tiến và giải pháp kỹ thuật vượt trội để hỗ trợ cho bà con nuôi tôm.

Quay lại thời điểm của năm 2015, dựa trên sự kết hợp của các chương trình nuôi tôm an toàn sinh học CPF- Turbo program, chương trình ương tôm CPF- Greenhouse, chương trình quản lý trại tôm theo phương pháp vi sinh C.P Probiotic farming, chương trình quản lý 3 sạch, các cán bộ kỹ thuật của C.P. Việt Nam đã sáng tạo nên mô hình hoàn thiện có tên là CPF- COMBINE.

Mô hình CPF- COMBINE đã cho thấy hiệu quả vượt trội của mình: Tôm nuôi được kích cỡ lớn, năng suất cao, kiểm soát rủi ro tốt, hiệu quả kinh tế tối đa. Tính đến hết năm 2019, trên cả nước đã có hơn 8.000 ao nuôi được xây dựng theo mô hình này. Đáng chú ý là tỷ lệ thành công lên tới 96%, mô hình đã giúp nhiều bà con nuôi tôm vươn lên làm giàu với nghề.

Mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2


Hệ thống xử lý nước trong mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2

Ưu điểm  của mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2

– Kiểm soát dịch bệnh tốt do an toàn sinh học tốt hơn. Các ao nuôi được xây nổi và có lưới che nắng, lưới ngăn chim đầy đủ.

– Quản lý chất lượng nước tốt hơn. Các ao tròn giúp cho việc gom tụ chất thải và siphon hiệu quả hơn, ôxy trong ao cũng được phân bố đều, các vách dựng giúp làm giảm nhớt bờ.

– Giảm chi phí nhân công và chi phí điện năng. Từ việc quản lý hiệu quả hơn sẽ giúp giảm được số lượng nhân công chăm sóc, ngoài ra do kết cấu ao tròn nên giảm được chi phí đầu tư dàn quạt so với ao đất lót bạt hình vuông.

– Dễ dàng sang tôm, thu tỉa, giúp nuôi được kích cỡ lớn, năng suất cao, xoay vòng vụ nhanh.

– Thời gian xây dựng nhanh chóng và đáp ứng được nhiều quy mô diện tích khác nhau. Mô hình CPF- COMBINE được thiết kế theo dạng module ao ương – ao nuôi, từ các trang trại có diện tích nhỏ vài ngàn mét vuông cho đến các trang trại nhiều hécta đều có thể xây dựng được 1 hệ thống đầy đủ từ khu xử lý nước cho đến khâu ương, nuôi. Các ao nổi khung sắt có thời gian thi công nhanh chóng.


Các khách hàng có diện tích nhỏ cũng có thể thực hiện Mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2. Trong hình là bản thiết kế một trang trại CPF- COMBINE phiên bản 2 hoàn chỉnh chỉ với diện tích 3.500 m2

 

Hiệu quả thực tiễn

Anh Bùi Thế Vương, chủ đầu tư trang trại nuôi tôm tại huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, chia sẻ: “Sau hơn 10 năm trong nghề xây dựng, đầu tháng 5/2019, tôi cùng với một số người bạn đồng hương chuyển hướng đầu tư nuôi tôm theo mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2 của C.P Việt Nam. Sau 3 tháng xây dựng, trang trại đi vào hoạt động. Với 10 ao nổi 800 m2, ngay vụ tôm đầu tiên đã thu được 63 tấn tôm kích cỡ từ 22 – 31 con/kg. Dù mới bước vào nghề tôm, nhưng với thành công bước đầu này, tôi rất tin tưởng vào mô hình cũng như các sản phẩm của C.P. Đặc biệt, tôi gửi lời cảm ơn tới các anh em kỹ thuật của C.P đã giúp đỡ tôi rất nhiều.


Anh Bùi Thế Vương và nhân viên kỹ thuật của C.P. Việt Nam

Hay như trang trại CPF- COMBINE phiên bản 2 của ông Tạ Thanh Tròn tại huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu. Trong năm 2019, chỉ với 2 ao nổi 500 m2 nhưng cũng đã thu tới 18,3 tấn tôm sau cả 3 vụ toàn thắng, lợi nhuận lên tới trên 1,3 tỷ đồng, tôm nuôi về tới kích cỡ 25 con/kg.

Ông Tạ Thanh Tròn và nhân viên kỹ thuật của C.P Việt Nam 

Từ hiệu quả kinh tế cao, mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2 đang thu hút được sự quan tâm lớn từ người đầu tư nuôi tôm khắp cả nước, dù là bà con nuôi tôm lâu năm hay là những cá nhân, tổ chức mới bước chân vào nghề tôm. Đối với những hộ khó khăn về vốn đầu tư, C.P. Việt Nam đã có định hướng liên kết với các ngân hàng để cung cấp nguồn tín dụng. Riêng trong năm 2019, tại hai tỉnh nuôi tôm trọng điểm là Bến Tre và Sóc Trăng, một số ngân hàng đã tham gia cùng C.P. Việt Nam hỗ trợ hàng trăm hộ nuôi tôm thực hiện mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2. Trong năm 2020, C.P. Việt Nam sẽ tiếp tục mở rộng chuỗi liên kết giữa C.P với các ngân hàng trên phạm vi toàn quốc, giúp đưa mô hình CPF-COMBINE phiên bản 2 tới mọi người nuôi tôm Việt Nam.


Anh Nguyễn Thanh Việt (áo xanh ở giữa) khách hàng tại Sóc Trăng đã đầu tư mô hình CPF- COMBINE phiên bản 2 từ nguồn vốn vay từ ngân hàng HDbank Sóc Trăng

Nguyễn Long An

Nguồn : http://thuysanvietnam.com.vn/

Virus gây bệnh Hemocyte tôm (SHIV)

Virus gây tử vong nghiêm trọng ở tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương ở Trung Quốc

Các triệu chứng lâm sàng của L. vannamei đã thử thách với virut ánh kim tiềm năng so với các nhóm đối chứng. (a) Hình dạng bên ngoài của tôm. (b) Phần của gan tụy.

Một loại virut óng ánh mới được phát hiện gây bệnh nặng và tỷ lệ tử vong cao ở tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương ( Litopenaeus vannamei ) ở Chiết Giang, Trung Quốc, đã được xác minh và đặt tên tạm thời là virut óng ánh tôm (SHIV).

Các động vật bị ảnh hưởng trải qua các đợt chết hàng loạt và biểu hiện teo gan với màu nhạt dần, dạ dày trống rỗng và ruột và vỏ mềm. Kết quả xét nghiệm bằng kỹ thuật phản ứng chuỗi polymerase (PCR) cho thấy các mẫu âm tính với các loại virus tôm đã biết khác nhau, bao gồm WSSV, IHHNV, VPAHPND, YHV và TSV11.

Các triệu chứng lâm sàng của nhiễm trùng SHIV bao gồm mất màu nhẹ trên bề mặt và cắt gan tụy, dạ dày và ruột rỗng, vỏ mềm ở tôm bị nhiễm bệnh một phần và cơ thể hơi đỏ ở một phần ba cá nhân. Những triệu chứng này không giống với các triệu chứng do nhiễm iridovirus được cho là khác ở các loài tôm penaeid khác, tôm serestid hoặc tôm hùm nước ngọt.

Các phần mô học tiết lộ rằng căn bệnh này có thể là do nhiễm virus nghi ngờ với các triệu chứng gây bệnh rõ ràng, không phù hợp với đặc điểm mô bệnh học của nhiễm trùng với bất kỳ loại virus đã biết hoặc bệnh hoại tử gan cấp tính (AHPND). Sử dụng các công nghệ giải trình tự DNA thông lượng cao, chúng tôi đã xác định rằng một loại virut ánh kim tiềm năng có trong một mẫu và phân tích phát sinh gen của hai protein không hỗ trợ loại virut óng ánh này – được đặt tên tạm thời là virut óng ánh tôm (SHIV) đến bất kỳ chi được biết đến của họ Iridoviridae.

Thử thách và kiểm tra mô bệnh học

Chúng tôi đã tiến hành các thử nghiệm thử thách thông qua tiêm bắp xâm lấn hoặc chế độ không xâm lấn bao gồm nhiễm trùng ngược hoặc nhiễm trùng os  có thể truyền thành công một tác nhân truyền nhiễm có thể lọc từ L. vannamei sang động vật khỏe mạnh và gây ra các triệu chứng lâm sàng và thay đổi bệnh lý tương tự, chứng minh rằng virus này là tác nhân gây bệnh.

Hình 1: Tỷ lệ tử vong tích lũy của L. vannamei trong nhiễm trùng thực nghiệm. Hai nhóm tôm đã được thử thách với dịch lọc chiết xuất mô bằng cách tiêm xen kẽ (im) hoặc rửa ngược hậu môn (rg). Một nhóm tôm khác đã được thử thách thông qua mỗi lần khử trùng (mỗi os). Các nhóm đối chứng được xử lý theo cách tương tự với PPB-Bộ đệm của anh ta trong nhóm im (c) và nhóm rg (c), hoặc được nuôi bằng thức ăn tôm trong nhóm trên mỗi os (c). Tỷ lệ tử vong tích lũy được hiển thị dưới dạng phương tiện dữ liệu từ ba lần lặp lại cho mỗi nhóm thử nghiệm (mỗi lần lặp lại bao gồm 30 cá nhân).

Phép lai tại chỗ (ISH) là một kỹ thuật phân tử cho thấy vị trí của các chuỗi axit nucleic cụ thể trong các mô hoặc trên nhiễm sắc thể – đây là giai đoạn quan trọng để hiểu quy định, tổ chức và chức năng của gen.

Hình 2: ISH sử dụng đầu dò digoxigenin có nhãn 279 bp đối với virut óng ánh tế bào máu tôm trên các phần mô học của L. vannamei. (a) – (d) mô tạo máu, mang, gan tụy và periopod trong mẫu dương tính SHIV, tương ứng; (e) – (h) mô tạo máu, mang, gan tụy và periopod trong mẫu âm tính SHIV, tương ứng. Trong (a) – (d), các tín hiệu màu xanh đã được quan sát thấy trong tế bào chất của các tế bào máu của mô tạo máu, mang, xoang của gan tụy và periopod. Trong (e) – (h), không thấy tín hiệu lai nào trên cùng các mô của L. vannamei âm tính SHIV ngoại trừ một số tín hiệu không đặc hiệu trên lớp biểu bì. Bar, lần lượt là 10 am (a và b), 20 m (c và d) và 50 m (eTHER h).

Kiểm tra mô bệnh học của các mô mẫu cho thấy các thể vùi basophilic và pyknosis trong mô tạo máu và tế bào máu trong mang, gan tụy, periopod và cơ. Sử dụng kỹ thuật giải trình tự metagenomics của virus (từ vật liệu di truyền được phục hồi trực tiếp từ các mẫu môi trường), chúng tôi đã thu được một phần trình tự mà chúng tôi hiểu là iridoviridae tiềm năng. Và các phân tích phát sinh học bằng cách sử dụng chuỗi axit amin của các protein chính đã tiết lộ rằng đây là một loại virut ánh kim mới nhưng không thuộc về năm chi được biết đến của Iridoviridae.

Hình 3: Đặc điểm mô bệnh học của Davidson’s acid-formalin-acetic acid (AFA) đã cố định mẫu L. vannameiin 20141215 (a, c, e và d). Mũi tên đen cho thấy các vùi basophilic trong khi mũi tên trắng cho thấy các hạt nhân karyopyride. (a) nhuộm Haematoxylin và eosin (H & E) của mô tạo máu; (b) nhuộm H & E của mang; (c) nhuộm H & E của xoang ở gan tụy và (d) nhuộm H & E của periopod. Thanh, 10 m.

Sau khi so sánh các đặc điểm hình thái, sinh lý và phát sinh của các mẫu của chúng tôi với các loại virut óng ánh khác, chúng tôi tạm thời gán tác nhân căn nguyên là virut ánh kim hemocyte tôm (SHIV), có thể gây ra bệnh virut hemocyte tôm (SHIVD). Chúng tôi đề xuất một chi mới của Iridoviridae, Xiairidovirus , có nghĩa là virut ánh kim tôm.

Quan điểm

Thông qua phân lập, tái nhiễm và đặc tính mô bệnh học, chúng tôi đã tiết lộ rằng SHIV là một loại vi-rút mới trong họ Iridoviridae và là mầm bệnh của L. vannamei . Chúng tôi đã phát triển thêm một xét nghiệm ISH và phương pháp PCR lồng nhau để phát hiện cụ thể SHIV.

Các kết quả nghiên cứu của chúng tôi nhấn mạnh sự cần thiết của các chuyên gia về sức khỏe động vật thủy sản và nông dân có kinh nghiệm trong ngành nuôi tôm để chú ý hơn đến SHIV và thực hiện các biện pháp hiệu quả hơn để ngăn chặn dịch bệnh và thiệt hại kinh tế do SHIV gây ra.

Nguồn : https://sinhhoctomvang.vn