Tầm bóp.
Nghiên cứu giới thiệu nồng độ phù hợp khi dùng chiết xuất cây tầm bóp để điều trị bệnh phân trắng trên tôm.
Bệnh phân trắng (WFD) là một trong những bệnh gây nguy hại rất lớn cho nghề nuôi tôm hiện nay. Mầm bệnh thường tấn công khi tôm đạt cỡ 30-80 ngày tuổi. Với triệu chứng đặc trưng quan sát được là có nhiều sợi phân trắng nổi trên mặt nước hoặc xuất hiện trong vó, tôm giảm ăn, tăng trưởng chậm và chết dần.
Các loại vi khuẩn vibrio được chẩn đoán là nguyên nhân gây ra bệnh này bao gồm: V. parahaemolyticus (khuẩn lạc xanh), V. fluvialis (khuẩn lạc vàng), V. vulnificus (khuẩn lạc xanh), V. mimicus (khuẩn lạc xanh), V. alginolyticus và V. cholera. Ruột tôm khi bệnh phân trắng sẽ không chứa thức ăn mà chứa nhiều sợi phân và có mùi hôi vì vibrio ngăn cản quá trình tiêu hóa thức ăn trong ruột tôm.
Gần đây, nhiều người nuôi đã nhận biết được phải kiểm soát vi khuẩn vibrio trong nước và cả trong cơ thể tôm thì mới có thể phòng trị được bệnh phân trắng. Một số thảo dược tự nhiên, thân thuộc lại được sử dụng để điều trị hiệu quả bệnh trên tôm như Tầm bóp (lồng đèn) (Physalis angulata). Là một trong những thảo dược mọc nhiều ở vùng nhiệt đới. Thành phần của trong cây này bao gồm saponins, flavonoids, steroids, polyphenols, alkaloids và một số chất khác với hoạt tính kháng khuẩn cao, chống lở loét, chống đông máu.
Các chiết xuất của P. angulata có hoạt tính kháng nấm cực kỳ hiệu quả, chống lại sự phát triển và tăng sinh của vi khuẩn. Tuy nhiên trước đây việc nghiên cứu cây này chủ yếu thường tập trung để phòng và điều trị các bệnh trên người, là thành phần trong thuốc nhuận tràng, kháng viêm, tiểu đường. Do đó, cần thực hiện thêm một số khảo sát để đánh giá tiềm năng của chiết xuất từ cây tầm bóp chống lại vi khuẩn Vibrio spp gây bệnh phân trắng trên tôm nuôi.
Phương pháp và vật liệu
Nghiên cứu được thực hiện tại Indonesia. Đầu tiên tiến hành thu thập cây tầm bóp, rửa sạch rồi tách riêng thân, rễ, lá của cây, sau đó thực hiện các bước tách chiết trong phòng thí nghiệm. Các chiết xuất trộn lần lượt với N-hexan, chloroform, ethyl acetate và ethanol mỗi mẫu 500 ml hóa chất (1:10). Tiến hành nuôi cấy và phân lập vi khuẩn Vibrio spp thu từ mẫu nước và mẫu ruột tôm bị nhiễm WFD.
Kết quả và thảo luận
Chiết xuất từ lá và thân của tầm bóp được thí nghiệm chứng minh là có hiệu quả chống lại các loài vibrio gây bệnh phân trắng. Tuy nhiên mỗi trích xuất với dung môi hữu khác nhau thu được đều có hoạt tính kháng khuẩn khác nhau.
Dựa vào kết quả cho thấy, trích xuất với dung môi Chloroform có hoạt tính kháng khuẩn mạnh nhất, kế đến là ethyl acetate. Bên cạnh đó tính kháng khuẩn của thảo dược này ở khuẩn lạc xanh tương đối thấp hơn ở những vi khuẩn có khuẩn lạc vàng trong khảo sát. Điều đó cho thấy rằng khả năng gây bệnh và sức đề kháng của khuẩn lạc xanh cao hơn khuẩn lạc vàng rất nhiều. Điều đó không quá xa lạ vì trước nay nhóm vibrio có khuẩn lạc xanh đều gây bệnh cho tôm nhiều hơn và nặng hơn so với khuẩn lạc vàng trong đa số trường hợp khác.
Khi xét nghiệm vùng ức chế của chiết xuất tầm bóp với dung môi chloroform và ethyl acetate đối với các khuẩn lạc đã mọc trên đĩa cấy. Kết quả phân tích phương sai cho thấy sự khác biệt rất lớn về nồng độ ảnh hưởng đến phạm vi ức chế của chiết xuất. Với nồng độ là 5% thì vùng ức chế thu được là lớn nhất 11mm và không khác biệt khi tăng nồng độ lên 10,15 và 20%.
Chiết xuất thảo dược và các vùng ức chế.
Tuy nhiên một điều đặc biệt được nhận ra là riêng chiết xuất từ lá cây tầm bóp với chloroform ở các nồng độ khác nhau thì hiệu quả tác dụng là khác nhau. Cụ thể khi tăng dần nồng độ sử dụng thì vùng ức chế trên đĩa cũng mở rộng ra theo. Do đó lá cây được cho là bộ phận có tác dụng ức chế thấp nhất với vi khuẩn Vibrio spp.
Kiểm tra tỷ lệ sống sót của tôm thẻ chân trắng sau khi ngâm trong chiết xuất tầm bóp trộn với chloroform, sau 1 giờ cho thấy 50% lượng chiết xuất có độc tính với 50% đàn tôm thử nghiệm. Trong khi đó, với nồng độ chiết xuất thấp hơn 50% thì tỉ lệ sống thu được từ 83 đến 100%. Do đó, có thể kết luận rằng chiết xuất từ tầm bóp với chloroform là an toàn khi dùng để kháng khuẩn với nồng độ tốt nhất là thấp hơn 25% khi sử dụng cho tôm.
Tóm lại chiết xuất thảo dược này có chứa nhiều hoạt chất kháng khuẩn hiệu quả khi pha trộn với dung môi chloroform và ethyl acetate với nồng độ diệt khuẩn mạnh nhất là 10% và không khác biệt ở các nồng độ 15, 20%. Đồng thời chiết xuất tầm bóp này gây độc ở nồng độ 50%.
Theo E Saraswati và AS Wijaya
Hà Tử
Nguồn : Tép Bạc